MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
ĐẠI CA DIẾP
ĐẦU ĐÀ ĐỆ NHẤT
- 1. DƯỚI CÂY SANH VĨ NHÂN
Cách đây không lâu, bác sĩ Bá Khắc Sum người Pháp đã được gặp tôn giả Đại Ca Diếp tại Kê Túc Sơn, Ấn Độ, và đã quy y với Ngài. Cuộc đời của vị thánh đầy tánh cách truyền kỳ ấy, hôm nay đem giới thiệu ra đây, thật là một đoạn cố sự mỹ lệ.
Chúng ta hãy trở lại từ lúc Tôn giả vừa chào đời.
Hai ngàn năm trăm năm trước, tại thôn làng Ma Ha Sa Ha Dà cách thủ đô Vương Xá nước Ma Kiệt không xa, có một nhà hào phú trưởng giả dòng Bà la môn tên Ni Câu Lư Đà Kiệt Ba, tiếng đồn tài sản của ông có thể sánh với vua Tần Bà Sa La đương thời.
Tôn giả Đại Ca Diếp đã xuất sanh trong gia đình hào phú ấy.
Nói về lúc đản sanh Tôn giả, có những điềm lành không khác với điềm lành đản sanh Phật đà là mấy. Ngày mẫu thân Tôn giả lâm bồn, chính là lúc bà đang dạo chơi trong đình viện, bỗng cảm thấy mệt mỏi, bà đến ngồi dưới bóng cây đại thọ Tất Bát Ba nghỉ ngơi, lúc ấy chẳng biết thiên y từ đâu bay tới, và Đại Ca Diếp cất tiếng khóc chào đời.
Đại Ca Diếp, cha mẹ đặt tên vốn gọi là Tất Bát La Da Na, lấy ý sanh dưới gốc cây. Đại Ca Diếp tướng hảo đầy đủ không thua kém ba mươi hai tướng của đức Phật. Gia đình đại phú hào chỉ có một quý tử, sự nuôi dưỡng và thương yêu của cha mẹ thật không thể nói hết. Nội số nhũ mẫu đã hết bốn bà, còn số người hầu hạ chăm sóc chơi đùa lại rất nhiều.
Khi Đại Ca Diếp lên tám tuổi, đã được học các giới điều Bà la môn, và theo thầy học tập các thứ, từ pháp tế lễ, thi họa, toán thuật, văn học, ngũ minh, bốn bộ Phệ Đà, cho đến xem thiên văn, đoán âm dương kiết hung, đất động sấm nổ, âm nhạc ca vũ v.v... do sức thông minh của Ca Diếp, không có môn nào không thấu hiểu triệt để.
Duy có một điều rất lạ, ngay từ nhỏ Ca Diếp không giống các trẻ con khác, đối với dục lạc thế gian không ưa, chẳng thích tình âu yếm, chán ghét bất tịnh, thường ưa ở một mình xa đám đông, ngay cả cha mẹ, xa cách cũng không nhớ đến.
- 2. NGƯỜI VỢ KHÔNG CHUNG GIƯỜNG
- Đó là điều không nên, con chỉ mong muốn duy nhất là được tu đạo, có vợ con rất trở ngại cho việc tu trì lắm.
Đương nhiên là song thân không thể nào đáp ứng yêu cầu đó, khi không còn cách nào để chối từ, chàng bỗng nghĩ ra một biện pháp. Chàng liền mời một nhà điêu khắc đến, lấy vàng đúc thành một pho tượng mỹ nữ sáng rỡ, và chàng đem trình với song thân.
- Cha mẹ nhất định bảo con cưới vợ, xin hãy chọn cô nào giống y tượng vàng này, nếu không con sẽ suốt đời không lấy vợ.
Song thân Ca Diếp thấy con yêu cầu điều này, biết là thật rối rắm khó khăn, sau cùng mới theo lời đề nghị của các thầy Bà la môn thường lui tới trong gia đình, quyết định tìm cho ra một cô nương giống tượng vàng ấy. Các thầy Bà la môn bèn thiết lập một nhà dù thật lớn đặt pho tượng trong đó, thờ cúng như một vị nữ thần, và đi rảo từ làng này sang làng nọ, từ phố này sang phố kia, đến đâu thiên hạ cũng bu theo xem rất đông đảo. Các thầy mới rao lên:
- Các cô thiếu nữ có cầu mong ước nguyện gì! Hãy đến cúng dường nữ thần! Các cô sẽ được toại nguyện như ý.
Cứ như thế các thầy dạo đi từ thành Vương Xá, qua sông Hằng, lần lần đến thành Tỳ Xá Ly. Ngoại thành này có một thôn trang tên Ca La Ty Ca, và trong thôn có một gia đình Bà la môn cũng nổi danh đại phú. Họ có một cô con gái tên Diệu Hiền, thiên tư quốc sắc, nổi danh mỹ nhân, thường ở trong khuê phòng ít bước chân ra ngoài.
Hôm ấy nhằm ngày hội hoa đăng, nam thanh nữ tú vui chơi dập dìu. Diệu Hiền được bạn bè hẹn hò, đến chiêm bái pho tượng vàng thần nữ. Diệu Hiền nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, khi đến lễ nữ thần đã khiến lu mờ cả tượng vàng. Thầy Bà la môn quản lý một phen thấy rồi rất mừng rỡ, bèn theo hỏi thăm gia đình nàng, và đến gặp song thân Diệu Hiền trình bày ý muốn kết thân. Bên song thân nàng cũng nghe danh tiếng Đại Ca Diếp, nên rất hoan hỷ hứa gả con gái.
Thủ tục đính hôn hoàn thành, chọn ngày lành tháng tốt đón dâu. Hãy nhìn Diệu Hiền xem, nàng mặc áo gấm, đeo chuỗi ngọc, thật là tiên nữ cũng không đẹp bằng. Nhưng có điều rất lạ, tân nương tuy có sắc đẹp nghiêng thành nghiêng nước, mà gương mặt rất buồn, như nặng mang một tâm sự.
Đờn ca xướng hát, lễ bái trời đất xong, Đại Ca Diếp và Diệu Hiền được đưa vào động phòng. Đôi vợ chồng mới, chẳng có một nụ cười, cũng không ai ngó ai, chỉ ngồi nhắm mắt làm thinh, mỗi người một tâm sự trầm mặc. Đêm động phòng hoa chúc thế này, thật là lạnh lùng nghiêm trang!
Canh một rồi canh hai, canh ba, canh bốn, canh năm đã dứt, trời dần sáng mà cả hai không nói một lời nào. Cho đến lúc lâu, ánh nắng xuyên vào phòng, Ca Diếp mới mở lời:
- Xin hỏi nàng có tâm sự gì chăng?
Diệu Hiền châu mày, ngồi làm thinh.
- Có điều gì nàng cứ nói, chúng ta cùng thương lượng.
Diệu Hiền lại ứa nước mắt, mà cũng chẳng trả lời.
- Thế này là thế nào? Tại sao nàng khóc?
Ca Diếp hỏi tới, có vẻ giận.
Ca Diếp hỏi đôi ba phen, Diệu Hiền không dừng được, mới thở dài đáp nhỏ:
- Chàng phá hoại chí nguyện của tôi. Tôi xưa nay rất ghét ngũ dục, muốn tu phạm hạnh thanh tịnh. Ba má tôi bị mê hoặc bởi sự giàu sang của chàng, khiến nguyện vọng của tôi bị lở dở.
Đại Ca Diếp nghe nói rất mừng. Chàng liền nói cho Diệu Hiền biết, mình cũng rất ghét ái nhiễm, ưa tu hạnh thanh tịnh. Đây thật là khéo hợp ý trời, chúng ta có thể làm theo chí nguyện của mình.
Do đó hai người cùng ước định, trong phòng kê hai cái giường, trên danh nghĩa là phu thê mà không ngủ chung giường.
- 3. MƯỜI HAI NĂM THỦ ƯỚC
- Hai con là vợ chồng mới cưới mà trong phòng kê riêng hai giường thật chẳng nên. Ta sẽ gọi người đến dẹp bớt một cái.
Ca Diếp chẳng dám cãi lời, nhưng càng giữ vững lời hứa, càng cương quyết lập chí, chàng nói với Diệu Hiền:
- Không lo chuyện ấy. Còn một cái giường thì chúng ta thay phiên nhau ngủ. Đầu hôm đến giữa đêm thì nàng ngủ, tôi đi kinh hành tu niệm trong phòng, đến gần sáng thì nàng thức dậy, tôi ngủ, nàng có thể đi kinh hành hoặc ngồi thiền.
Diệu Hiền rất bằng lòng đề nghị đó, nàng nói thêm:
- Chúng ta cần phải mau mau ra khỏi cái nhà nguy hiểm này, chớ còn trong vòng ngũ dục thì nơi nào cũng có nguy cơ ẩn nấp, mê hoặc người trong chốn đọa lạc.
Ca Diếp an ủi:
- Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng phụ mẫu còn hiện tại, tôi là con một không thể bỏ đi. Nàng hãy kiên nhẫn, lý tưởng và chí nguyện của chúng ta sẽ có ngày thực hiện.
Hai người tuy sống trong chốn bụi trần mà tâm vui trong đạo nghiệp thanh tịnh, không hề xúc phạm nhau, an ổn qua thời gian.
Có một đêm, Diệu Hiền ngủ trên giường, Ca-diếp đi kinh hành trong thất, bỗng nhiên có một con rắn độc màu đen bò ngang giường Diệu Hiền. Ca Diếp chú ý nhìn thấy cánh tay Diệu Hiền buông thõng xuống giường cách chỗ rắn độc không xa, chàng lo lắng, rủi như nàng bị rắn mổ nhằm mới làm sao?
Trong lúc mười phần cấp bách, Ca Diếp liền dùng chéo áo quấn quanh cánh tay mình, rồi mới nhè nhẹ đỡ cánh tay Diệu Hiền lên trên giường. Đang ngủ ngon bỗng bị động, Diệu Hiền giựt mình choàng tỉnh, nàng kinh sợ lật đật ngồi dậy, có vẻ vừa giận vừa bực, nàng hỏi Ca Diếp:
- Việc gì xảy ra thế? Có chuyện gì như thế này?
Sau khi nghe Ca Diếp giải thích nàng mới yên lòng, và rất cảm phục chàng. Cả hai giữ mức sống thanh tịnh như vậy trong suốt mười hai năm.
- 4. XUẤT GIA HỌC ĐẠO
Sau đó không lâu, ngày nọ Diệu Hiền sai gia nhân ép dầu mè, trong dầu mè có rất nhiều con bọ nhỏ lúc nhúc cựa quậy, nàng nghe gia nhân bàn tán với nhau:
- Ép chết bao nhiêu con vật nhỏ này không biết sau này chịu quả báo đáng sợ thế nào? Nhưng thật ra đó không phải là lỗi của chúng ta mà là mệnh lệnh của nữ chủ.
Diệu Hiền nghe qua những lời ấy cảm thấy ghê sợ, lập tức bảo họ ngừng ép dầu, một mình lui vào phòng đóng cửa lại tịnh tọa tư duy.
Cũng hôm ấy, Đại Ca Diếp đi thăm ruộng. Chàng thấy đôi bò kéo cày nặng nhọc, nông phu làm việc không kể thân. Trong ruộng có những loài côn trùng bị đường cày chặt đứt, lớp chết, lớp bị thương quằn quại thật thảm thương. Chàng nhìn cảnh tượng ấy càng chán ngán cho sự sống trên thế gian. Chàng nghĩ: "Chỉ vì sự ăn mặc của ta mà bao nhiêu người và bao nhiêu thú vật phải chịu đủ thứ khổ sở như thế sao? Không kể là người nào, không kể ăn thức ăn gì, cũng trong khoảng một đấu cơm, không kể ngủ cách nào cũng chỉ trong khoảng cái giường sáu tấc. Còn những thứ cần dùng khác chẳng qua là một sự lãng phí. Chỉ vì những sự lãng phí xa xỉ vô dụng đó, mà làm tổn bao nhiêu người vật, giết hại bao nhiêu sanh linh như thế, thật là một điều quá ư bất công và rất không hợp lý!"
Đại Ca Diếp nghĩ như thế rồi, trở về nhà thấy Diệu Hiền với những sự tình ưu não như vậy, thật chẳng vui chút nào. Sau đó, hai người ngỏ bày tâm sự, cả hai đều cảm thấy nỗi đau khổ của thế gian, nỗi buồn thảm của kiếp người.
Đại Ca Diếp bèn nói với Diệu Hiền:
- Nói gì thì nói, tôi sẽ rời bỏ cái nhà này để đi xa học đạo. Ở nhà thiệt chẳng khác ở trong chốn lao ngục, bao nhiêu thứ ràng buộc, khổ não đủ điều. Ở trong gia đình tạo nghiệp không có hồi kết thúc, tôi sẽ ra đi để tìm cho ra chơn lý của kiếp người. Tu hành trong chốn rừng núi như là lui tới trong chốn hư không, không có chút trở ngại. Tạm thời tôi đi trước tìm thầy hỏi đạo, nàng ở lại nhà đợi khi nào tôi gặp được bậc thầy hiền minh, tôi sẽ trở về dẫn nàng cùng xuất gia. Chúng ta sẽ đem hết tài sản cứu tế cho các người nghèo cùng cơ khổ, và chia cho các gia nhân. Nàng hãy đợi, nhất định tôi sẽ mang tin tốt đẹp trở về.
Diệu Hiền nghe xong, rất kính phục chí nguyện của trượng phu, cùng cảm kích mối quan tâm của chàng. Chuyện xuất gia tu đạo này vốn là nguyện ước từ lâu của hai vợ chồng, vì còn cha mẹ mà phải qua hơn mười năm chờ đợi.
Hôm nay, Đại Ca Diếp đi xuất gia tu hành, trong tâm tình thật hoan hỷ, thật không thể nói hết.
- 5. LÀM ĐỆ TỬ ĐỨC PHẬT
Đại Ca Diếp đi tìm thầy khắp nơi, nhưng thầy nào cũng không đáp ứng được nguyện vọng của chàng. Hai năm sau, trong lúc đang tìm đạo tại nước Uyên Già, có người mách với chàng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Đại giác của thời này. Ngài đang thống lãnh những đạo sĩ nổi danh như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp... cả ngàn đồ đệ tại tinh xá Trúc Lâm. Đại Ca Diếp nghe tin ấy rất vui mừng bèn hỏi thăm đường đến Trúc Lâm.
Tinh xá Trúc Lâm là đạo tràng tối sơ khi đức Thế Tôn tổ chức giáo đoàn, cách cửa Bắc thành Vương Xá không xa. Khi Đại Ca Diếp đến đây, chàng không trực tiếp thưa hỏi đức Phật, chỉ mỗi ngày theo tín chúng trong thành đến nghe pháp. Chàng nghĩ bụng nếu không phải là Phật thì không tôn bái làm thầy. Theo ý chàng, nếu không gặp Phật, không có tôn sư, chàng cũng có thể tu chứng được quả vị Độc giác.
Lời thuyết pháp của Phật, đức huệ của Phật dần dần kích động tâm can Đại Ca Diếp. Một hôm, sau khi nghe Phật thuyết pháp xong, chàng trở về thành Vương Xá. Gần cổng thành là tháp Đa Tử, cạnh đó có một cây đại thọ cành lá sum sê. Chàng ngạc nhiên thấy đức Phật đang ngồi tịnh tọa dưới gốc cây. Khi chàng ra về, còn thấy Ngài ngồi trên bảo tòa pháp vương ở trong tinh xá, sao bây giờ lại gặp Ngài ở đây? Chàng càng nhìn càng thấy đức Phật tướng mạo oai nghiêm thuần tịnh, như một tòa kim sơn, rốt cuộc không đến lễ bái không xong. Chàng đến đảnh lễ dưới chân Phật, và cảm động thành khẩn nói:
- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc đại sư của con, xin tiếp độ cho con – Đại Ca Diếp được quy y, từ nay Đại Ca Diếp là đệ tử Phật!
Đức Phật biết lúc này lòng tin của Đại Ca Diếp đã chắc chắn, liền bảo:
- Này Đại Ca Diếp! Ông chính thật là đệ tử của ta. Ta chính là lão sư của ông. Trên thế gian này, như người nào chưa chứng quả vị Chánh giác, không dám nhận ông làm đệ tử. Ông hãy theo ta.
Đức Phật từ từ đứng dậy, đi về tinh xá Trúc Lâm. Đại Ca Diếp theo sau chân Ngài, vừa cung kính vừa cảm động, vừa mừng vui đến rơi lệ.
Đức Phật ngoái lại nhìn Đại Ca Diếp sau mới nói:
- Ta nghe nói về ông đã lâu, ta biết thế nào ông cũng đến cầu đạo với ta. Hôm nay là ngày ông được tiếp độ, Phật pháp lưu truyền về sau cần ông rất nhiều, vì chúng sanh và vì chính mình, ông nên thận trọng!
Về đến Trúc Lâm, đức Phật làm lễ thế độ cho Đại Ca Diếp, và nói pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên, với oai đức tướng hảo của Thế Tôn, với từ ân thân thiết của Thế Tôn, có thể nói rằng bầu không khí chứng ngộ đã bao trùm Đại Ca Diếp. Lời dạy của Phật như đám mưa rơi trên thửa ruộng khô khao, tám ngày sau ông khai ngộ.
- 6. CỨU ĐỘ HIỀN THÊ
Do đó, Đại Ca Diếp nhớ đến lời hứa với Diệu Hiền, vì trước đó người nữ không được xuất gia nên Tôn giả không dám xin đức Phật. Bây giờ đã có giáo đoàn Tỳ kheo ni, chính là lúc thực hiện lời giao kết với Diệu Hiền. Đại Ca Diếp từ khi rời nhà học đạo đã cách ba, bốn năm. Trong ba, bốn năm ấy chẳng biết tình hình của Diệu Hiền thế nào? Tôn giả bèn an tĩnh nhập định quan sát, mới biết Diệu Hiền đang theo làm đệ tử một phái ngoại đạo bên bờ sông Hằng.
Nguyên lai là từ khi Tôn giả đi tìm đạo, Diệu Hiền cũng ở nhà một mình đợi tin tức. Nhưng năm tháng trôi qua vùn vụt, một năm rồi hai năm mà chẳng thấy âm hao của Đại Ca Diếp, nàng mới quyết định tự xuất gia, không đợi nữa. Lập chí rồi, nàng cho gọi người quản gia đến bảo đem hết trang sức, y phục của mình phân chia cho bà con, làng xóm, gia nhân. Nàng đi đến bờ sông Hằng, lễ bái nhóm lõa hình ngoại đạo đang tu tập tại đây làm thầy.
Làm đệ tử nhóm ngoại đạo này, vì dung mạo mỹ lệ mà nàng đã chịu nhiều sự lăng nhục. Đại Ca Diếp biết nàng đang cần sự tiếp độ của mình, đích thị là Tôn giả phải mau mau đem đạo lý chân thực của đức Phật sớm giác ngộ cho nàng. Tôn giả bèn nói chuyện ấy với một vị Tỳ kheo ni, yêu cầu đi đón Diệu Hiền. Vị Tỳ kheo ni ấy bằng lòng, chẳng bao lâu đã đưa Diệu Hiền về đến.
Diệu Hiền gia nhập ni viện rồi, cũng vì sắc đẹp ấy làm đề tài cho thiên hạ xầm xì xa gần. Nàng cảm thấy rất tủi hổ, buồn bực đã trót sanh làm thân người nữ kém phước. Từ đó, nàng không đi ra ngoài khất thực, xa lìa đại chúng, không ló mặt nơi đông người.
Đại Ca Diếp biết chuyện sanh tâm lân mẫn. Tôn giả xin phép Phật mỗi ngày chia bớt phân nửa phần thức ăn cho Diệu Hiền. Chuyện ấy lọt vào mắt cô Tỳ kheo Thâu La Nan Đà. Cô là một người hay thị phi bàn tán nhất trong chúng. Chẳng biết là vì tật đố hay vì cớ gì, cô nhiều lời phỉ báng. Cô nói:
- Hai người này, nghe nói mười hai năm ở nhà không ngủ chung giường, mà bây giờ mỗi ngày thấy họ thân mật chia sớt thức ăn, tôi đoán thế nào cũng có tình ý gì đây.
Tôn giả Đại Ca Diếp nghe nói, trong tâm vị thánh giả thì rỗng rang không dính mắc, nhưng vì muốn khích lệ Diệu Hiền nỗ lực tu tiến, nên từ đó không giúp cơm nữa.
Thế gian đầy thị phi ác độc. Một vị Thánh thanh tịnh như Đại Ca Diếp, mà còn có người khiêu khích đồn đãi, thiệt là ai nghe cũng bất bình.
Qua sự khích lệ ấy, Diệu Hiền nhận thấy mình phải tu hành nghiêm túc. Bà suốt đêm không ngủ, thành tâm sám hối, và sau cùng được khai ngộ. Sau khi khai ngộ bà nói:
- Đoạn trừ mọi ràng buộc, hoàn thành tịnh hạnh, việc đáng làm ta đã làm xong.
Về sau Phật khen ngợi bà:
- Trong chúng Tỳ kheo ni, không ai có thể sánh với Tỳ kheo ni Diệu Hiền về mặt Túc mệnh thông!
Tôn giả Đại Ca Diếp rất hoan hỷ, đối với ân tình của thế gian, Ngài chẳng lưu lại chút mảy may.