HÀNH TRANG CỦA HÀNH GIẢ NIỆM PHẬT
Pháp tu, niệm danh hiệu Phật, không chỉ ước nguyện xây dựng một thế giới tương lai cho chính cá nhân hành giả, mà còn nhân duyên xây dựng một nguyện lực độ sanh như đức giáo chủ Phật A Di Ðà.
Có phải thế giới Cực Lạc hiện hữu từ nguyện lực đại bi của ngài! Vâng chính vậy, thì người nguyện sanh về Cực Lạc đã mặc nhiên thiết lập cho mình không khác ngài vậy. Người đã vãng sanh tất nhiên không thoái chuyển tâm giải thoát, và do tâm Bồ đề không thoái chuyển, lại đành bỏ mặc nơi mình đã từng đau khổ với muôn vàn chúng sanh?
Thật ra tất cả đều do tâm tạo; tâm tạo Ta Bà, tâm tạo Tịnh Ðộ; diệu dụng của Tâm thật khó nghĩ bàn. Thế giới Ta Bà là khổ, nhưng cũng có người vui sướng, thế giới Ta Bà là đau thương thù hận, nhưng ở đó đã xuất hiện biết bao vị Thánh nhân mà cõi trời phải mơ ước được gặp. Nhưng vì một ít Thánh nhân ví như đất dính vào tay của Phật Thích Ca, nên không thể nào tỉnh thức được tâm phiền trược của chúng sanh ví như đất đại địa. Thậm chí đến cả đức Phật là viên ngọc vàng, rực rỡ chiếu rọi khắp mười phương thế giới, còn chưa thể chan hòa rọi hết lượng số của chúng sanh đang phiền trược khổ đau (Phật có thể độ vô số chúng sanh chớ không thể độ hết chúng sanh).
Vậy thì tâm diệu dụng giải thoát, nhưng vẫn nằm sâu vào tiềm thức (A Lại Da) chân như, và nó phải được khơi dậy, phải được lay động mới trở về bản tánh chân như của nó, nghĩa là nó mới diệu dụng được sự tỉnh thức giác ngộ mà quay về Phật tánh, thành Phật không khác.
Bậc giác ngộ rõ biết tâm diệu dụng nên quyết thị hiện vào cõi Ta Bà nơi đau khổ mà không ngại chướng duyên, để làm công việc khơi dậy tánh giác cho chúng sanh.
Thị hiện vào Ta Bà, như đi vào cõi mê tình, vọng thức điên đảo để làm sáng ra ánh sáng chân như, chân thức - và chúng ta thực hành niệm Phật là chuyển di tâm thức vào một thế giới thanh tịnh trang nghiêm, không khác gì ánh sáng chân thức, chân như Niết Bàn. Cho nên dù diệu tâm vô hình không chướng ngại nhưng, nếu ta không nhờ vào lời dạy của Phật Thích Ca và nguyện lực của Phật A Di Ðà ta vẫn mãi sống nơi mê tình của vọng thức dù ở thế giới này hay bất cứ nơi đâu. Do đó nên hiểu, thế giới thô phù ô nhiễm ở đây là do vọng thức điên đảo biến hiện ra mà thôi. Thế thì cầu sanh vào thế giới thanh tịnh là việc cụ thể, cho dù thế giới đó cũng là do diệu tâm sinh ra; nhưng đây là một việc tối quan trọng, vì nơi đó ta khám phá ra được diệu tâm của ta giống như diệu tâm của Phật Di Ðà không khác.
Như không tin, ta thử tìm diệu tâm A Di Ðà nơi đây có được không? Nếu có, thì kính xin chúc mừng hành giả đó, vì hành giả đã thành Phật tại đây! Nhưng xin thưa, vì hiện còn giáo Pháp Phật Thích Ca thì ta không thể nào thành Phật tại đây. Vậy ta chỉ thành Bồ Tát mà thôi. Nhưng lại xin thưa, Bồ Tát nơi đâu cũng phải cầu mong gần gũi đấng Ðại giác (Phật), để tiếp tục học hỏi mà thành Phật như tất cả bằng chứng trong các kinh, thời kinh nào cũng có vô số Bồ Tát tham dự. Vậy niệm Phật ở đây để thành Bồ Tát, sao không cầu niệm Phật sanh về Cực Lạc cũng là Bồ Tát, nhưng gần đấng Ðại giác A Di Ðà có sướng hơn không!
Bây giờ người tỉnh thức đã an tâm vững chải, ổn thỏa nghi vấn cõi lòng, nên bắt đầu thiết lập hành trang cho việc Niệm Phật.
Có ba hành trang mà người tỉnh thức phải mang theo, cho đến khi về nơi Liên cảnh.
Thứ nhứt là Tín, thứ nhì là Nguyện và thứ ba là Hành.
- Hành trang thứ nhứt
Người tỉnh thức đến đây, đã có đủ niềm tin. Không phải chỉ tin cõi Phật A Di Ðà là thật, người tỉnh thức còn tin: vũ trụ có hằng hà sa số cõi Phật ở mười phương đang hiện hữu và, đang diễn ra những diệu âm giải thoát, những diệu cảnh huy hoàng, những chân thức tuyệt đối, những chân như vô ngại và lìa khỏi ngôn ngữ diễn bày của chúng sanh.
Ðiều cơ bản niềm tin đó sẽ không thay đổi cho đến khi hành giả niệm Phật sanh về cõi Phật, và chắc chắn khi sanh về đó, hành giả lại có niềm tin mãnh liệt hơn nữa! Vì sao? Vì hành giả sẽ phát tâm vân du cúng dường chư Phật ở mười phương.
Bên cạnh niềm tin mãnh liệt tuyệt đối như vậy, người tỉnh thức lại giựt mình khi tin rằng vô số thế giới đang đau khổ cũng đã hiễn bày ra đó. Vì có thế giới tịnh ắt có thế giới ô nhiễm; có thế giới vui như Cực Lạc, hẳn có thế giới phiền hà đau khổ như sáu cõi luân hồi.
Ngay thế giới Ta Bà này, kẻ tỉnh thức phải hốt hoảng, khi mục kích những loài thú vật sống trong sự đe dọa đầy đọa của loài người, lại còn bị đe dọa với thiên nhiên vũ trụ. Ðau khổ nầy ập lên đau khổ khác. Chúng chẳng thể nào biết được, thế giới chúng đang ở, còn có thế giới loài người, là loài thông minh, hạnh phúc hơn chúng gấp triệu lần; nói cả triệu lần hạnh phúc, là ý nghĩa con người có cơ hội vươn lên những thế giới còn đẹp hơn vô số lần cõi Ta Bà nầy.
Dù với cặp mắt chúng, vẫn thấy loài sinh vật hai chân lạ lùng đang sai khiến mình, nhưng cái thấy vô trí (ví con số thông minh hết sức hạn hẹp) của loài súc sanh, chỉ biết giới hạn qua hiện tượng hình ảnh cử động mà thôi. Ôi thật tội nghiệp!
Nhìn chung lại, không một con vật nào mà không khổ trong cõi phiền trược nầy; dù là con vật nuôi trong nhà được cưng chìu hay được tự do bay, lội, chạy, nhảy giữa thiên nhiên. Nhưng có lẽ và chắc chắn, khổ đau nhất là chúng không thể nào biết được Phật pháp!
Nếu duyên lành nào, được chủ nuôi là người thực hành Phật pháp, rồi bố thí kinh cho chúng nghe thì con vật này quả là đại phước. Chúng sẽ kết được duyên đời sau; mặc dầu không hiểu lời kinh, nhưng do linh diệu, thần lực nhiệm mầu của kinh sẽ giúp chúng ghi nhận được. Tuy nhiên số con vật được như vậy, giống như một giọt nước nhiễu trên ngón tay so với nước đại dương.
Riêng con người, cảnh khổ hiện ra cũng lắm đau buồn, khiếp hãi.
Nỗi đau khổ về thân bệnh day dưa, khổ vì tật nguyền bất lực, khổ vì nghèo đói cơ hàn, khổ vì địa vị thấp kém, khổ vì thất học dại khờ, khổ vì tình cảm yêu thương, khổ vì tình thù dằn vặt, khổ vì ý nguyện bất thành và còn rất nhiều nữa. Những đau khổ nầy thuộc cả hai, thể chất và tinh thần. Ðây là cụ thể hiển hiện mà người tỉnh thức trực diện trải qua, chớ không phải nghe ai kể lại(1).
Như thế, cảnh giới Ta Bà này đâu cần đức Phật Thích Ca buộc chúng ta phải tin là khổ! Sự thật hiển nhiên này rõ ràng hiện chân ra đó! Tuy thế rõ biết nguyên nhân và tận nguồn gốc khổ chỉ có Phật mới rõ, nên dạy cho ta. Phật dạy rõ khổ phát xuất từ Tham, Sân Si, và cảnh giới ô nhiễm như vậy cũng từ duyên khởi của ba độc này.
Con người (chánh báo) thế nào hoàn cảnh (y báo) thế đó. Vì do một cộng nghiệp vọng thức Tham, Sân, Si khổng lồ nên kết thành một thế giới to lớn đủ chứa vô số những vọng tình ô nhiễm, rồi hình thành một thế giới dục (dục giới), là thế giới Ta Bà chúng ta đây.
Có thể nói bất cứ chúng sanh nào (trừ chúng sanh đã và đang chứng đạo giải thoát), mang hình thù chi, hễ ngụ ở Ta Bà là vọng tình ô nhiễm. Nhưng hỏi tại sao phải đủ loại hình chúng sanh?
Là vì nghiệp thức điên đảo, vì phiền não vô minh nên tạo tác vô số NGHIỆP, để quả báo hiện thành vô số hình tướng. Ðó là chân lý, là cảnh tượng sự thật trước mắt, mà ta vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng.
Thế thì sự thật nơi đây, thế giới này ta đã tin trăm phần trăm lời Phật dạy, thì cảnh giới Cực Lạc cũng do Phật nói ta lại há không tin.
Nếu Phật không xuất hiện, cái khổ Ta Bà nầy ta phải mù mờ chịu đau khổ mãi, mà chẳng bao giờ biết khổ là do đâu! Và dù biết khổ chăng nữa, ta chắc chắn cho rằng chỉ có loài người khổ, chứ không biết còn vô số chúng sanh khác còn khổ hơn ta - từ đó là nguyên nhân nghiệp sát chất chồng, để kết quả không bao giờ thoát lên cảnh giới tươi sáng huy hoàng được.
Ngày nay con người đang sống vào thời đại có thể nói hoàng kim của văn minh điện tử, thì việc củng cố niềm tin thế giới Cực Lạc lại dễ dàng hơn! Ðây há không phải đại duyên biết được pháp tu niệm Phật ở thời đại này!
Phải nói rằng dù thời tượng pháp nhiều người niệm Phật vững vàng được vãng sanh, nhưng niềm tin của họ chỉ đơn thuần tin Phật, mà khó giải thích Thế giới Cực Lạc bằng kiến thức văn minh thời đó. Do thế chỉ lấy sự tu hành làm chứng có thế giới Cực Lạc (tức là vãng sanh), riêng về phần lý giải khó được người tin. Với hiện nay, vừa lấy sự niệm Phật vãng sanh làm chứng, vừa lấy kiến thức xã hội con người ngày nay làm chứng.
Minh chứng kiến thức ngày nay là ngành thiên văn học.
Ngày nay nhìn lên bầu trời con người đã không thấy xa lạ như con người cách đây một ngàn năm; ngày nay con người có thể phóng phi thuyền lơ lững ở ngoài trái đất cả tháng trời để thám hiểm nhìn ngắm không gian vũ trụ; và ngày nay dưới mắt các nhà khoa học thiên văn, họ xem mặt trăng cũng chẳng khác gì một tỉnh lỵ ở không gian, có thể dụ lịch thường xuyên chẳng trở ngại gì. Sự kiện được như vậy là do con người đã lên thăm mặt trăng từ hơn ba thập niên qua(2); và so với kỷ thuật không gian ngày nay thì thời điểm đánh dấu vàng son đó chỉ là một chuyến đò nhỏ vượt qua con sông thật ngắn.
Ngày xưa con người cứ tưởng chỉ có thế giới này (trái đất) số một, còn lại tất cả chỉ là những hộ tinh (hành tinh phụ quay quanh theo) quay chung quanh; kể cả mặt trời cũng chẳng làm được gì!
Nhưng rồi chẳng bao lâu các Thiên văn gia khám phá ra sự thật, thế giới chúng ta chỉ là một trong nhiều thế giới giữa vũ trụ mênh mông nầy. Thiên văn gia nói là nhiều chớ không nói vô số, vì có thể xấp xỉ đếm được, đó là đầu thế kỷ 19 với viễn vọng kính (telescope) tương đối kỹ thuật cao.
Bây giờ thì không còn đếm được nữa, khi viễn vọng kính hiện đại càng phóng xa bao nhiêu, thế giới muôn hình hiện ra càng nhiều chừng nấy. Ấy vậy khoa học vẫn nói là hàng tỉ; hàng tỉ cũng có thể mường tượng là trăm ngàn tỉ cũng quá nhiều, tuy nhiên với Phật dạy, phải dùng đến "hằng hà sa số". Hằng hà sa số là biểu tượng đến cát sông Hằng (Hằng tên sông, hà nghĩa là sông), vậy nhiều như cát sông Hằng, thế thì đếm làm sao được! Nên gọi bất khả thuyết!
Ðó là lời Phật dạy từ xưa (cách đây hơn 2600 năm), và thiên văn học ngày nay mới biết, hay biết sớm nhất, cũng khoảng đầu thế kỷ 19 (đầu thế kỷ 19 mới tạm đủ phương tiện nghiên cứu).
Ngành Thiên văn cho biết, chỉ trong dãy ngân hà Milk Way thôi, đã có đến hàng trăm tỉ ngôi sao mặt trời, và "mười tỉ hành tinh giống như hành tinh của thái dương hệ"(3). Trái đất chúng ta thuộc thái dương hệ nằm trong Ngân hà này. Nhưng Khoa học lại cho biết, vũ trụ có vô số ngân hà với những dạng hình khác nhau như: hình bánh xe, hình con bướm, hình nước xoáy, hình thai tạng, hình đám mây, hình bông hoa, hình chim phượng, hình con cua v.v... và cứ mỗi ngân hà (Galaxy) lại lớn nhỏ không đồng; có ngân hà đây lớn gấp trăm lần ngân hà kia, và mỗi cái lớn nhỏ đều chứa ít nhất ngàn triệu hay trăm tỉ ngôi sao.
Một điều tất nhiên, các ngân hà, thiên hà lớn như vậy chúng phải cách nhau một khoảng cách cũng khá xa!
Nói đến khoảng cách thật khó mường tượng nổi, bởi chúng ta chỉ quen đo lường trên bề mặt hay bề cao của một vật trong giới hạn tương đối, đằng này là không gian, lại vượt khỏi hành tinh mình đang sống! Tuy nhiên, văn minh khoa học thiên văn đã tính được phần nào, và tất nhiên cũng có giới hạn.
Từ trái đất chúng ta đến mặt trăng, khoa học tính được khoảng 384.400 cây số (kilometre), đây thì quá gần rồi! Từ mặt trời đến trái đất khoảng cách tương đối là 93,000,000 dặm (mile) tương đương 150 triệu cây số, và sức khoa học vẫn cho là gần. Nhưng từ Thái dương hệ nầy đến thái dương hệ khác khoa học tính bằng quang niên (danh từ Ðơn vị thiên văn - Astronomical Unit) tức theo ánh sáng đi một năm. Một quang niên(4) bằng 5.88 tỉ dặm.
Chẳng hạn Thiên hà hình sông M81 cách xa trái đất 10 quang niên; đó là đại khái thấy từ ngân hà nầy đến ngân hà kia là xa như vậy. Nhưng vũ trụ lại có vô số ngân hà chưa biết được, vậy vũ trụ sẽ lớn chừng nào?
Thế thì điều ta tin, chỉ có trái đất chúng ta là có chúng sanh còn vô số hằng hà sa thế giới khác không thể nghĩ bàn, thì sao?
Ta sẽ như đứa bé mẫu giáo cầm trên tay cuốn sách đại học!
Vậy kết lại, những gì Phật dạy đã vượt xa khoa học; tuy nhiên, cũng nhờ khoa học nhất là ngành Thiên văn đã chứng minh được một sự thật, có vô số thế giới trong vũ trụ mênh mông - và thế giới Phật A Di Ðà cũng chẳng còn gì lạ, trong khi vũ trụ có hằng xa số cõi Phật.
GHI CHÚ:
(1) Những nỗi khổ căn bản nhất của con người, được nhà Phật dạy là Bát khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
(2) Ngày 20 tháng 7 năm 1969, Phi hành gia Hoa Kỳ lần đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đánh dấu kỳ tích thành công nền văn minh nhân loại (Phi thuyền lịch sử đó mang tên Apollo 11).
(3) (The) Milky Way: Giải Ngân Hà. Là một tập hợp của những Hành tinh và Thiên Hà, gồm có 400 tỉ Sao Mặt trời (Star-like planets). Và 10 tỉ Hành tinh giống như những Hành tinh của Thái Dương Hệ. Chiều dài bằng 100,000 quang niên (một quang niên bằng 5.898 tỉ dặm)...
Ðịnh nghĩa trên được trích từ sách "Ðạo Phật Siêu Khoa Học", của Minh Giác Nguyễn Học Tài, trang 366.
(4) Quang niên (năm ánh sáng): Ánh sáng truyền đi trong chân không 186,000 dặm hay 300.000, cây số trong một giây đồng hồ. Một quang niên bằng 5 tỉ 88 dặm. (Ðạo Phật siêu Khoa học - Minh Giác Nguyễn Học Tài, trang 169).