TẬP 4
XXI. PHẨM TẠP LỤC
214. TÍCH CHUYỆN CÔNG ĐỨC XƯA CỦA ĐỨC PHẬT
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến các công đức về tiền kiếp của đức Phật Thích Ca.
Thuở ấy ở xứ Tỳ Da Ly, trời hạn hán, cỏ cây khô héo, mùa màng ruộng vườn đều hư hỏng, gây nên nạn đói kém nặng nề; nhiều người chết đói. Thây người nằm ngổn ngang chẳng được chôn cất, khiến bịnh dịch lan tràn. Theo mùi tử khí, các bầy ác quỉ đến gây thêm tác hại. Dân chúng chẳng biết tìm đường nào để sống sót. Họ nghe nói có đức Phật ở nước Xá Vệ, lòng từ bi thường hay cứu khổ, cứu nạn cho chúng sanh, nên mới cử người đến thưa cùng các vị hoàng tử xứ Ly Xa, đến thỉnh đức Phật. Vương tử Đại Ly mới cùng một phái đoàn các người Ba la môn trong vùng, đến yết-kiến vua Tần Bà Sa La nhờ nhà vua đến thỉnh Đức Phật, vì hiện Ngài đang ngụ gần thành Vương Xá, thủ đô xứ Ma Kiệt Đà của vua Tần Bà Sa La.
Khi vua Tần Bà Sa La đến gặp đức Phật, trình bày sự thống khổ của dân chúng trong xứ Tỳ Da Ly, Đức Phật liền nhận lời đến viếng xứ ấy, trước là giúp đỡ các nạn nhơn đói khổ, sau là để tạo cơ duyên tốt cho dân chúng trong vùng biết đến Chánh pháp và chứng đắc quả vị. Vua Tần Bà Sa La rất vui lòng, ra lịnh sửa sang đường xá từ thành Vương Xá đến tận bờ sông Hằng, cứ độ vài do tuần, cho dựng một nhà nghỉ mát, có đầy đủ tiện nghi về thực phẩm. Bên kia bờ sông Hằng, vương tử Đại Ly cũng chuẩn bị y như thế, từ bờ sông đến thành Tỳ Da Ly. Đến ngày lên đường, đức Phật cùng với đông đảo tỳ kheo rời thành Vương Xá, ngày đi đêm nghỉ; vua Tần Bà Sa La theo tiễn chơn đến bờ sông Hằng, rồi mới quay về.
Hôm đức Phật và chư tăng vừa vượt qua khỏi sông Hằng, trời đổ mưa dầm liên tiếp trong nhiều ngày, nước chảy tràn khắp, cuốn các tử thi ở Tỳ Da Ly trôi theo sông ra biển cả. Nhờ đó, quang cảnh ở Tỳ Da Ly được đổi mới, sạch sẽ; bầu không khí trở nên dễ chịu, uế khí tan rả, các loài chim kên kên ăn xác người chết bỏ bay đi cả; bịnh dịch ngưng lan tràn. Đức Phật lại khiến Tôn giả A Nan cùng một số tỳ kheo đi diễn hành qua đường phố trong thành, vừa đi vừa đọc tụng Kinh Tam Bảo. Nghe tiếng tụng Kinh, các ác quỉ hoảng sợ, bỏ chạy cả, và các bịnh nhơn lần lần hồi-phục, cùng rủ nhau theo sau Tôn giả đến hầu đức Phật . Trong bảy ngày liền, đức Phật giảng Kinh Tam Bảo, và Tôn giả A Nan hằng ngày hướng dẫn các tỳ kheo đi vòng quanh thành tụng đọc Kinh ấy. Thành Tỳ Da Ly trở lại bình thường sau một tuần lễ. Các vị hoàng tử xứ Ly Xa rất vui mừng, mở đại hội bố thí và cúng dường đức Phật cùng chư Tăng rất là trọng thể. Sau đó, các vị hoàng tử và dân chúng cùng đi tiễn ccức Phật và chư Tăng trở về, đến tận bờ sông Hằng.
Bên kia bờ sông Hằng, vua Tần Bà Sa La cùng với quan dân đang chờ đón đức Phật và chư Tăng, trong khung cảnh thật tưng bừng và trang nghiêm. Trên không trung, chư Thiên nghinh đón trong tiếng nhạc trời. Long vương, vua loài rồng, cùng quyến thuộc cũng có mặt. Sau khi mọi người đảnh lễ và dưng cúng lễ vật lên tăng đoàn xong, Long vương thỉnh đức Phật cùng chư tỳ kheo ngồi lên thuyền rồng, trang hoàng bằng các loại hoa sen màu sắc thật rực rỡ, đi viếng Long cung. Đức Phật muốn tỏ lòng quí trọng Long vương, nên nhận lời. Ngài thi triển thần thông, ánh sáng năm màu chiếu rực rỡ lên; quang cảnh ấy giống như khi trước, lúc Đức Phật vừa từ cung Trời Đao Lợi trở lại thế gian.
Khi cả đoàn trở về thành Vương Xá, các tỳ kheo rất hoan hỉ được chứng kiến cảnh tráng lệ vừa qua, vô cùng khen ngợi công đức của đức Phật trong việc cứu độ dân chúng ở Tỳ Da Ly. Đức Phật bảo: "Nầy chư Tăng, chẳng phải vì việc cứu độ vừa qua, hay đã thi triển thần thông trên sông Hằng, mà nay Như Lai được sự cúng dường trọng thể. Đó thật ra là nhờ trong đời quá khứ, Như Lai đã có nhiều công đức tuy nhỏ nhưng đã đem đến các phước báu ngày nay". Rồi đức Phật mới kể lại tiền kiếp, như sau:
Vào thuở xa xưa, ở thành Ta Xi La, có một người Bà la môn tên là San Kha, có được một người con trai tên Sử Sĩ Mã rất thông minh. Ông San Kha gởi con đến học với một vị Bà la môn khác về khoa thiên văn. Sử học rất tấn bộ, chẳng bao lâu, kiến thức đã ngang với thầy, nên được thầy giới thiệu đến thọ giáo với một vị Bích chi Phật. Vị nầy bảo Sử, phải thọ giới làm tỳ kheo, mới được chỉ dạy. Sử vâng lời và từ đó giữ gìn giới luật rất đầy đủ, tu tập thiền định rất tinh tấn, trong một thời gian đã tự mình chứng ngộ được bốn Chơn lý nhiệm mầu và đắc quả vị Bích chi Phật. Nghiệp báo đời trước đã sớm dứt, nên Sử Sĩ Mã chẳng sống lâu thêm, liền nhập Niết bàn. Ông San Kha tìm đến Ta Xi La thăm con, hay tin con đã nhập diệt, lòng rất đau buồn, mới thiêu xác con, lấy xá lợi đem thờ trong ngôi tháp. Hằng ngày, ông quét dọn sạch sẽ chung quanh tháp, trang trí với nhiều bông hoa rừng đẹp đẽ. Đức Phật kết thúc câu chuyện: "Chính nhờ công đức dựng tháp để kính lễ một vị Bích chi Phật đó mà ngày nay Như Lai hưởng được phước báu cúng dường vừa qua của Trời và người".
Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
- Chính nhờ từ bỏ dục lạc nhỏ,
Mà ta tìm thấy phước lạc to.
Thú vui nhỏ nhặt, người hiền bỏ,
Phước lớn Niết Bàn, cố tìm lo.
(Kệ số 290)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
-
Tạp lục: Tạp = có nhiều thứ khác nhau, lẫn lộn; Lục = ghi chép. Phẩm Tạp lục ghi chung lại các bài Kệ có nhiều đề mục khác nhau.
-
Tiền kiếp: Tiền = trước; Kiếp = nhiều đời; Tiền kiếp là các cuộc đời trước, trước đời hiện tại nầy.
-
Thành Tỳ Da Ly, xứ Ly Xa: tên các địa danh nầy, tiếng Pali là thành Vesāli, xứ Licchavi, ở miền Bắc Ấn Độ xưa.
-
Hạn hán: Trời nắng lâu ngày chẳng mưa, thiếu nước nên cây cỏ khô héo.
-
Bịnh dịch: Bịnh truyền nhiễm lây nhanh sang kẻ khác, dễ chết.
-
Tác hại: Tác = làm; Hại = tổn hại; Tác hại là tàn ác gây tổn hại.
-
Từ bi: Từ = thương người mà mang lại niềm vui; Bi = xót, tội nghiệp cho kẻ khác mà cứu khổ họ.
-
Vua Tần Bà Sa La, thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà: Tiếng Pali: vua Bimbisara, thành Rājagaha, nước Magadha, xưa ở miền Bắc Ấn.
-
Chánh pháp: Giáo lý của Đức Phật, tiếng Pali là Dhamma.
-
Sông Hằng: Một con sông lớn ở Ấn Độ, tiếng Pali là Gangā.
-
Do tuần: Đơn vị đo chiều dài đường xá, hơn một cây số; tiếng Pali là Yojana.
-
Tử thi: Tử = chết; Thi = thây ma; Tử thi là thây chết chưa chôn cất
-
Uế khí: Uế = dơ bẩn; Khí = hơi; Uế khí ở đây là mùi hôi thối.
-
Đi diễn hành: Diễn = trải qua; Hành = đi; Đi diễn hành là nhiều người đi trong trật tự, từ từ bước qua các đường phố lớn trong thành.
-
Kinh Tam Bảo: Tam = ba; Bảo = kho tàng quí báu. Trong Phật học, chữ Tam Bảo nói về sự quí báu của
- (1) Đức Phật,
(2) Chánh pháp của Phật
(3) Tăng già, đoàn thể các đệ tử tu theo giáo lý của Phật.
Tiếng Pali là Ratana Sutta (Ratana = kho báu; Sutta = Kinh). Chữ Tam Bảo thường được nói gọn là: Tam Bảo = Phật, Pháp, Tăng.
-
Đại hội bố thí: Cuộc bố thí, phát chẩn, tặng cơm gạo, quần áo cho những người nghèo khổ.
-
Cúng dường: đọc trại từ chữ Hán Việt: cung dưỡng; cung = cung cấp; dưỡng = nuôi dưỡng.
-
Trọng thể: Trọng = lớn, nặng; Thể = hình thể; Trọng thể là rất lớn, rất trang trọng.
-
Chư Thiên: Chư = số nhiều, số đông; Thiên = Trời.
-
Long vương: Long = rồng; Vương = vua.
-
Quyến thuộc: Quyến = gia quyến, bàcon; Thuộc = thân thuộc, họ hàng.
-
Long cung: Long = rồng; Cung = cung điện.
-
Thi triển thần thông: Biến hoá ra các phép tắc lạ thường; ở đây, đức Phật phóng hào quang (= phát ra ánh sáng) năm màu rực rỡ.
-
Đức Phật từ cung Trời Đao Lợi trở lại thế gian: Sau khi giảng pháp ở trên cõi Trời Đao Lợi cho mẹ nghe, đức Phật trở lại chùa Kỳ Viên, ở thế gian nầy. Xin xem lại Tich chuyện số 149, trang 464, Tập 3.
-
Tráng lệ: Thật hết là đẹp đẽ.
-
Thành Ta Xi La: Tên thành nầy ở nước Xá Vệ, tiếng Pali là Taxila.
-
San Kha, Sử Sĩ Mã: Các tên nầy, tiếng Pali là Sankha, Susīma.
-
Thiên văn: Khoa học khảo sát các vị tinh tú trong không gian.
-
Kiến thức: Kiến = thấy; Thức = biết; Kiến thức là sự hiểu biết.
-
Bích chi Phật: Vị tu hành tự mình giác ngộ và giải thoát vào thời chẳng có Chánh pháp của một đức Phật nào. Tiếng Pali là Pacceka Buddha, còn được dịch là Duyên giác. Vị Bích chi Phật chỉ có sự tự giác, chẳng có sự giác tha (giúp cho kẻ khác giác ngộ theo).
-
Dục lạc: Dục = ham muốn; Lạc = vui; Dục lạc là ham các thú vui về vật chất, về thân xác; vì dục lạc chỉ là tạm bợ.
-
Phước lạc: Niềm vui chơn thật và bền vững về tinh thần; Phước lạc ở đây là hạnh phước thoát được mọi khổ, tự tại trong Niết Bàn.
B. NGHĨA Ý:
(1)
Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện rất dài, có thể chia ra làm ba phần:
- Nạn chết đói vì hạn hán ở Tỳ Da Ly.
- Đức Phật cứu độ dân chúng ở Tỳ Da Ly.
- Trong một tiền kiếp làm người Bà la môn, đức Phật có công xây tháp và kính lễ một vị Bích chi Phật.
Ý nghĩa của Tích chuyện là sự tiếp đón long trọng của Trời, Người trong dịp đức Phật đến thành Tỳ Da Ly để cứu nạn cho dân chúng, chẳng phải vì công đức cứu độ đó mà được hưởng phước báu, mà chính là do trong một tiền kiếp làm người Bà la môn, Ngài đã xây tháp thờ cúng một vị Bích chi Phật, nên nay Ngài mới được sự cung kính của Nhơn, Thiên. Ý đức Phật muốn khuyên ta đừng bỏ qua các việc thiện nhỏ, phải dứt bỏ các thú vui nhỏ mà tìm phước báu lớn là được chứng nhập cảnh Niết bàn.
(2)
Ý nghĩa của Bài Kệ số 290:
Tuy bài Kệ chỉ có bốn câu ngắn, gọn, dễ hiểu, nhưng tầm quan trọng đối với người tu tại gia rất là to lớn. Tại sao? Vì bài Kệ vạch rõ hai con đường: một đường chạy theo các thú vui vật chất, thoả mãn các nhu cầu thể xác, tạm thời; còn một đường nêu rõ phước báu to lớn, được thoát khỏi vĩnh viễn cảnh khổ đau của cuộc đời, ra khỏi vòng sanh tử, tử sanh lẩn quẩn của cõi Luân hồi lận đận và chứng được cảnh giới an vui, tự tại của Niết Bàn. Bài Kệ dạy rõ: từ bỏ các thú vui nhỏ, để cố tìm lo chứng được Niết Bàn là phước báu to lớn, bền chặt nhứt. Bằng cách nào? Học tập và ứng dụng Chánh pháp trong cuộc sống hằng ngày.
Nói cách khác, bài Kệ chỉ ra hai con đường: sống buông trôi theo thú vui vật chất tạm bợ, để phải chịu khổ triền miên trong cảnh tái sanh, và lối sống tu hành, biết khước từ các dục lạc (ham muốn về thể xác), tìm theo các lạc thú tinh thần, dẹp hết phiền não, dứt mọi lậu hoặc, để sớm chứng đắc cảnh an nhiên, tự tại của Niết Bàn. Con đường nào đưa tới Niết Bàn? Đó là con đường thánh đạo, tức là Bát Chánh Đạo.
HỌC TẬP:
- (1) Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ sự so sánh giữa hai việc: dục lạc nhỏ và phước báu lớn.
(2) Tập dứt bỏ các thói quen nhỏ mà xấu, như: mỗi sáng, khi tỉnh giấc, hay "nằm nướng" trên giường; nay hăng hái ngồi dậy rửa mặt, lo đi ngồi thiền hay niệm Phật ngay.
(3) Tập khước từ vài thú vui nhỏ như ngồi nán xem thêm phim Chưởng, nên tắt sớm Tivi, lên giường xem qua vài đoạn Kinh rồi dỗ giấc ngủ.
(4) Chứng được Niết Bàn là điều cao xa đối với người tu tại gia, nhưng nhường nhịn nhau một câu khiến cho gia đình khỏi rầy lộn, từ chối lời mời của bạn ghé quán rượu "nhậu sơ ba sợi", để về nhà sớm phụ vợ dọn cơm cho vui, thì sẽ khỏi bị ... cằn nhằn, lỗ tai khỏi phải "nhức nhối", tâm khỏi hờn mát, tránh được những cái khổ... nho nhỏ đó, đấy là đang bước đến ngưỡng cửa của Niết Bàn ở thế gian!