Chánh Kinh:
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, phát Bồ đề tâm, tu chư công đức, phụng hành lục Ba la mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc. Nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất loạn. Lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ tát Thánh chúng nghinh hiện kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngã sát, tác A Bệ Bạt Trí Bồ tát. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh giác.
- [Văn danh phát nguyện, đệ thập cửu nguyện. Lâm chung tiếp dẫn, đệ nhị thập nguyện].
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi liền phát Bồ đề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu Ba la mật kiên cố bất thoái, lại đem các thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung tôi cùng các Bồ tát chúng hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sanh cõi nước tôi, thành bậc A bệ bạt trí Bồ tát. Chẳng thỏa nguyện này, chẳng giữ lấy ngôi Chánh giác.
- [Nguyện thứ mười chín: Nghe tên phát tâm. Nguyện thứ hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn].
Giải:
"Danh hiệu" là tên hiệu. Danh để nêu rõ cái thể, hiệu là cái tên được phô ra ngoài để thiên hạ hay biết. Danh hiệu vốn được dùng để chỉ chung những tên hiệu của chư Phật, Bồ tát, nhưng trong kinh này chữ "danh hiệu" chuyên dùng để chỉ vị Giáo chủ cõi Cực Lạc A Di Đà.
"Phát Bồ đề tâm": Bồ đề là tiếng Phạn, cựu dịch là Đạo, tân dịch là Giác. Ngài Tăng Triệu bảo: "Đạo đạt đến chỗ cùng cực gọi là Bồ đề. Tàu không có tiếng nào dịch nổi. Ấy chỉ là chơn trí Chánh giác vô tướng mà thôi". Bồ đề tâm là cái tâm cầu chơn đạo, tâm cầu chánh giác. Bồ đề tâm còn có cái nghĩa là các tâm tự giác giác tha, nói tỉ mỉ thì như Vãng Sanh Luận Yếu Tập bảo có hai thứ Bồ đề tâm:
- 1. Duyên sự Bồ đề tâm: (Đây chính là hạnh nguyện Bồ đề tâm trong Mật tông). Tâm này dùng Tứ hoằng thệ nguyện làm thể:
- a. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ: Đây là Nhân của Ứng thân Bồ đề.
b. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn Nhân của Pháp thân Bồ đề.
c. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Nhân của Báo thân Bồ đề.
d. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành: Nguyện cầu chứng đắc Phật quả.
Do thành tựu trọn vẹn ba hạnh nguyện trước nên chứng được tam thân Bồ đề viên mãn rồi lại lợi ích khắp chúng sanh.
- 2. Duyên lý Bồ đề tâm: (Đây chính là tâm Thắng nghĩa Bồ đề trong Mật tông): Hết thảy các pháp vốn không tịch nên an trụ trong Trung đạo thật tướng để viên thành hạnh nguyện "Thượng cầu hạ hóa".
Tâm Bồ đề nói ở đây là Tâm Bồ đề tối thượng tức là Duyên lý Bồ đề tâm.
Trong sách Tông Yếu, sư Nguyên Hiểu người xứ Tân La luận về Bồ đề tâm như sau: "Một là tùy sự phát tâm, hai là thuận lý phát tâm".
Phiền não vô số đều nguyện đoạn cả: làm chánh nhân cho Đoạn đức của Như Lai; thiện pháp vô lượng đều tu: chánh nhân cho Trí đức của Như Lai; chúng sanh vô biên đều nguyện độ: chánh nhân Ân đức. Ba đức này gọi chung là nhân của Vô thượng Bồ đề.
Nhân quả tuy khác nhau nhưng rất rộng lớn, bình đẳng không sót, không gì mà nó chẳng bao gồm, như kinh nói: "Cả hai thứ phát tâm và rốt ráo. Trong hai thứ tâm như thế, tâm trước là khó: chưa tự đắc độ đã độ người khác. Vì vậy tôi lễ bậc sơ phát tâm". Quả báo của tâm này tuy là Bồ đề (thành Phật), nhưng Hoa báo lại là Tịnh Độ (vãng sanh). Vì sao thế? Bồ đề tâm lượng rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn nên cảm được y báo Tịnh Độ rộng lớn vô tận, chánh báo thọ mạng dài lâu vô lượng. Ngoại trừ Bồ đề tâm không thứ gì khác có khả năng làm được như thế. Vì vậy bảo tâm này là chánh nhân cho Bồ đề.
Là tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng có, chẳng không, dứt nói năng, bặt suy lường. Dùng lòng tin hiểu đó để phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy có phiền não hay thiện pháp, nhưng chẳng bác rằng không có gì để tu, để đoạn. Vì vậy, tuy nguyện đoạn tất cả, tu tất cả, nhưng chẳng trái nguyện với Vô nguyện Tam muội (Không, Vô tướng, Vô nguyện). Tuy nguyện đều độ vô lượng hữu tình, nhưng chẳng có quan niệm người độ và kẻ được độ, nên có thể tùy thuận Không, Vô tướng như kinh dạy: "Diệt độ vô lượng chúng sanh như vậy, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ" v.v... Phát tâm như thế chẳng nghĩ bàn. Đây là nói về Thuận lý phát tâm. Tùy sự phát tâm còn có thể bị thoái chuyển, kẻ bất định tánh (Bất định tánh Thanh văn) cũng có thể phát được tâm này. Thuận lý phát tâm thì chẳng bị thoái chuyển, chỉ căn tánh Bồ tát mới phát nổi. Phát tâm như thế công đức vô biên. Giả sử chư Phật trong suốt kiếp nói các công đức ấy còn chẳng thuật đủ được].
Trong đoạn văn trên của ngài Nguyên Hiểu, "Tùy sự phát tâm" chính là Duyên sự Bồ đề tâm; "Thuận lý phát tâm" là Duyên lý Bồ đề tâm.
Bài Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn cũng viết: "
Phát Bồ đề tâm là vua trong các điều lành". Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận lại nói:
Nên biết rằng Bồ đề tâm là nguồn cội của chư Phật, là huệ mạng của chúng sanh. Vừa phát tâm này đã thành Phật đạo vì đã tương ứng với Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xứng trí, trí Đại thừa rộng lớn, trí tối thượng không gì sánh tày như vậy". Hơn nữa ba bậc vãng sanh trong kinh này đều đo "
Phát Bồ đề tâm, Một lòng chuyên niệm", đủ thấy phát Bồ đề tâm thật là điều quan trọng hàng đầu.
Xét ra, vì nguyện thứ hai mươi sáu "Nghe Hồng danh được phước" và nguyện thứ bốn mươi bảy "Nghe Hồng danh đắc Nhẫn", thì nguyện thứ mười chín "Nghe hồng danh phát tâm" này phải nên được hiểu là:
Do nghe Danh hiệu của Phật, được Phật gia bị nên phát Bồ đề tâm. Hiểu như vậy liền thấy rõ công đức của danh hiệu Phật A Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, sức hoằng thệ nguyện của đấng Nguyện vương chẳng thể nghĩ bàn.
"
Tu các công đức... ngày đêm chẳng ngớt" là đại hạnh sẽ làm sau khi phát tâm. Câu này và câu trước đó hợp lại thành toàn văn của nguyện thứ mười chín: do nghe danh hiệu Phật A Di Đà nên phát tâm và tu các đại hạnh.
Trong lời nguyện, chữ "
sáu Ba la mật" chỉ cho lục độ. "Độ" là vượt qua được biển sanh tử đạt đến bờ Niết Bàn. Sáu độ là:
- - Bố thí.
- Trì giới.
- Nhẫn nhục.
- Tinh tấn.
- Thiền định.
- Bát nhã.
Lục độ bao trùm vạn hạnh.
"
Kiên cố bất thoái", nghĩa là các đại nguyện, đại hạnh trên quyết định chẳng lay động, vĩnh viễn chẳng lùi. Như phần kệ tụng nói: "
Hạnh tôi sức kiên cố quyết định, chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi, dẫu thân ở các chốn khổ, nguyện tâm như vậy trọn bất thối".
Trong câu "
nhất tâm niệm tôi", chữ "nhất tâm" là
tín tâm kiên định, chẳng bị các tâm khác não loạn. Sách Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại nói: "
Tín tâm chính là nhất tâm. Nhất tâm chính là lòng tin chân thật". Sách Thám Huyền Ký, quyển 3 cũng nói: "
Nhất tâm là tâm không dị niệm". Sách Chỉ Quán, quyển 4 lại viết: "
Nhất tâm là tu pháp này, một dạ chuyên chí, tâm chẳng duyên theo điều gì khác".
Hơn nữa nhất tâm có hai thứ: Sự và Lý nhất tâm.
Không xen lẫn niệm nào khác là Sự nhất tâm, nhập Thật tướng là Lý nhất tâm.
Theo
kinh Di Đà Sớ Sao của ngài Liên Trì đại sư thì: (trang 342-348):
-
Sự nhất tâm: "
Nhớ niệm danh hiệu Phật, mỗi niệm mỗi niệm nối nhau, không có niệm thứ hai; Tín lực thành tựu thì là Sự nhất tâm; nhiếp thuộc về môn Định, vì chưa có Huệ vậy".
Nhớ niệm là nghe danh hiệu Phật, thường nhớ thường niệm, mỗi chữ mỗi câu rõ ràng, câu trước câu sau nối nhau không dứt; đi, đứng, nằm, ngồi chỉ một niệm Phật này, không có một niệm thứ hai, không bị các niệm: tham, sân, phiền não làm rối loạn. Như trong
kinh Thành Cụ Quang Minh Đinh Ý nói: "
lúc ở chỗ vắng lặng mà vẫn nhất tâm, dù khi ở chỗ đông đảo rộn ràng cũng nhất tâm, cho đến các chỗ khen, chê, đắc lợi, thất bại, thiện, ác cũng vẫn đều được nhất tâm. Thế nên trên Sự thì đặng, còn trên Lý chưa xong; chỉ mới đặng Tín lực, vì chưa thấy Đạo nên gọi là Sự nhất tâm.
Sở dĩ nói thuộc về môn Định là vì đã dẹp được vọng niệm; nói chưa có Huệ là vị chưa phá được vọng niệm.
-
Lý nhất tâm:
Thể cứu niệm Phật, tự thấy đặng Phật tánh trong bổn tâm mình cho nên gọi là Lý nhất tâm. Ở đây có hai nghĩa:
- 1. Rõ biết tâm năng niệm và vị Phật sở niệm không là hai, chỉ là nhất tâm.
2. Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải cũng có cũng không, chẳng phải không có không không. Lìa cả bốn câu, chỉ là nhất tâm.
Nói thể cứu có nghĩa là nghe danh hiệu Phật, chẳng những nhớ niệm mà thôi, còn là vừa niệm vừa quán tưởng thể xét tìm tòi, cùng tột nguồn gốc của nó. Thể xét cùng tột, tự nhiên trong bản tâm của mình, thoạt vậy khế hợp.
Đối với nghĩa thứ nhất: tức là Như và Trí không hai, nghĩa là ngoài tâm năng niệm của ta, không có vị Phật bị niệm đối với ta, thế là ngoài Trí không có Như. Ngoài vị Phật bị niệm không có cái tâm nào là tâm năng niệm đối với Phật, thế là ngoài Như không có Trí, cho nên chỉ là nhất tâm.
Về nghĩa thứ hai: tức là Tịch và Chiếu khó nghĩ, khó bàn.
Nếu nói rằng là có, thì cái tâm năng niệm bản thể nó tự không, với vị Phật bị niệm hoàn toàn không thể có.
Nếu nói rằng là không, thì cái tâm năng niệm làu làu không muội, vị Phật bị niệm cũng rành rành rõ ràng.
Nếu nói rằng cũng có cũng không, thì cái có niệm, cái không niệm đều mất.
Nếu nói rằng không phải có không phải không, thì cái Có niệm và cái Không niệm đều còn.
- - Chẳng phái Có: Thời thường vắng lặng.
- Chẳng phái Không: Thời thường chiếu soi.
- Chẳng phải cả hai cũng Có, chẳng phải cả hai cũng Không: Thời không Tịch, không Chiếu, mà Chiếu mà Tịch, bặt đường nói, nghĩ, không hình dáng, kêu gọi, diễn tả được (Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt), vì chỉ là nhất tâm. Thế thì tính Năng, Sở tiêu; cái chấp Hữu, Vô hết, vẫn chỉ là cái bản thể - nhiên thanh tịnh, còn có vật gì mà làm cho tạp loạn. Do vì chỗ thấy Đạo chắc chắn, nên gọi là Lý nhất tâm vậy.
Sớ còn viết: "
Lại trong kinh giáo phân bốn pháp niệm Phật, từ thấp đến cao, mà pháp xưng danh đây lại ở trước hết. Tuy hai pháp sau cao hơn hai pháp trước; thật thời hai pháp trước thấu đến hai pháp sau, do vì Lý nhất tâm tức là vị Phật Thật tướng".
Bốn pháp niệm Phật: Xưng danh, Quán tượng, Quán tưởng và Thật tướng.
-
Xưng danh: tức là pháp Trì danh ở kinh đây nói.
-
Quán tượng: tức là thiết lập một hình, tượng Phật rồi chăm chú ngắm nhìn. Như trong kinh Pháp Hoa nói: "
Đứng dậy chắp tay, nhất tâm xem Phật, tức là quán tưởng tướng hảo quang minh của Phật hiện tại vậy. Như vua Ưu Điền, dùng gỗ chiên đàn chạm hình tượng đức Thế Tôn để lễ bái và chiêm ngưỡng hằng ngày.
-
Quán tưởng: dùng tâm của ta quán tưởng đức Như Lai kia, như kinh Quán Phật Tam Muội và Thập Lục Quán đều nói.
-
Thật tướng niệm Phật: tức là niệm vị Phật thiên chơn trong tánh của ta, không sanh không diệt, chẳng có chẳng không, không năng không sở. Với các tướng cũng đều lìa tướng, ngôn thuyết, ly tướng danh tự, ly tướng tâm duyên, thế gọi là vị Phật Thật tướng. Nên có câu: "
Ta muốn thấy Cực Lạc thế giới, tùy ý liền thấy, thật vậy".
Bốn pháp trên đây tuy đồng tên là pháp niệm Phật, trước thấp sau cao, pháp Trì Danh tuy ở về pháp ban đầu, kỳ thật ý trùm vô tận. Vì sao? Vì Sự nhất tâm thời thấp, Lý nhất tâm thời cao, tức Sự tức Lý, thời tức Thấp tức Cao, nên nói thấu trước thấu sau.
Lý nhất tâm ấy tức là Lý Thật tướng, thời trước hết tức là sau hết.
Nói thật tướng đây, chẳng phải là diệt hết các tướng, số là chính nơi các tướng và vô tướng vậy. Trong kinh nói: "
Lời nói trị đời, đều cùng Lý Thật tướng, không trái nghịch nhau". Thế thì Vạn đức Hồng danh của Phật mà chẳng bằng một lời nói trị thế hay sao? Kinh Pháp Hoa nói: "
Một tiếng xưng niệm Nam Mô Phật, đều đã thành Phật đạo" (Nhược nhơn tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất niệm Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo). Huống chi kinh đây nói Trì danh niệm Phật đặng Lý nhất tâm.
- Vả lại Lý nhất tâm đây chính là pháp Nhất Hạnh Tam Muội trong kinh Văn Thù và là pháp Nhất Hạnh Niệm Phật trong kinh Hoa Nghiêm.
Câu "
nhất tâm niệm tôi" trong kinh này gồm cả Sự và Lý; người tu học Tịnh nghiệp hiện tại chỉ cần Tin Sâu, Nguyện Thiết, xứng niệm danh hiệu thì đã là "Nhất Tâm Niệm Tôi".
Hành được như Thiện Đạo đại sư dạy: "Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần, niệm niệm chẳng bỏ thì chính là nhất tâm niệm Phật". Từ Sự nhập Lý, nhưng toàn thể của Sự lại chính là Lý vậy.
Nguyện thứ mười chín là Nhân, nguyện thứ hai mươi là Quả. Nếu ai phát tâm niệm Phật đúng như nguyện thứ mười chín dạy thì khi lâm chung, Phật Di Đà cùng Thánh chúng ở Liên trì Hải hội sẽ hiện trước mặt tiếp dẫn; trong khoảnh khắc người ấy liền sang Tịnh Độ làm bậc A Bệ Bạt Trí Bồ tát.
Nguyện thứ hai mươi thể hiện sâu xa diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn của phương tiện Tha lực trong Quả Giáo. Kẻ phàm phu nghiệp chướng chất chồng lại có thể mang nghiệp đi vãng sanh; đấy toàn bộ là do nguyện này của Phật A Di Đà; do sức từ bi đại lực nhiếp thọ của Thánh chúng hiện diện trong lúc lâm chung.
Ngài Linh Chi (Nguyên Chiếu) đời Tống nói: "
Phàm người lâm chung thức thần vô chủ, không một thứ nghiệp chủng thiện hay ác nào lại không phát hiện hoặc khởi ác niệm, hoặc khởi tà kiến, hoặc sanh quyến luyến, hoặc phát điên rồ, chẳng phải chỉ một thứ ác tướng..., đều là điên đảo cả". Rõ ràng là phàm phu nghiệp nặng, lúc lâm chung lắm nỗi điên đảo, lại bị tứ đại bức bách khổ sở, đau đớn khó tả nổi, làm sao mà chánh niệm trì danh được! Chẳng thể trì danh làm sao vãng sanh nổi.
Vì vậy, phàm phu vãng sanh chẳng phải do tự lực mà toàn là cậy vào sức gia bị của đại nguyện của Phật Di Đà giữ cho chẳng điên đảo, nên mới được vãng sanh như sách Viên Trung Sao nói: "
Chúng sanh cõi Ta Bà tuy có thể niệm Phật nhưng kiến hoặc còn rối bời chưa thể đoạn trừ được. Khi lâm chung chẳng bị điên đảo thì vốn nào phải do sức mình chủ trì nổi, mà toàn là cậy vào Di Đà đến cứu vớt thôi. Tuy không có chánh niệm mà giữ nổi chánh niệm nên tâm chẳng điên đảo liền được vãng sanh".
Ý tưởng trên càng được diễn tả rõ hơn trong hai kinh Tiểu Bổn và kinh Bi Hoa.
Kinh Tiểu Bổn bản Đường dịch còn mang tên là
Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, có nói: "
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền. Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ".
Kinh Bi Hoa cũng chép:
Lúc lâm chung, ta cùng các đại chúng vây quanh hiện trước mặt người ấy. Người ấy thấy ta liền đối trước mặt ta sanh lòng hoan hỷ. Do thấy ta nên lìa các chướng ngại, liền xả thân sanh về cõi ta".
"
A Bệ Bạt Trí" Tàu dịch là "bất thoái". Bất thoái có ba thứ:
- 1. Vị bất thoái: vào dòng Thánh, chẳng đọa địa vị phàm phu.
2. Hạnh bất thoái: luôn luôn độ sanh, chẳng đọa địa vị Nhị thừa.
3. Niệm bất thoái: tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhã (Nhất thế chủng trí).
Trong cõi Ta Bà này:
- Bậc Sơ Quả của Tạng giáo, Kiến Địa của Thông giáo, Sơ Trụ của Biệt giáo, Tín Địa của của Viên giáo gọi là Vị bất thoái.
- Bồ tát của Thông giáo, Thập Hướng của Biệt giáo, Thập Tín của Viên giáo gọi là Hạnh bất thoái.
- Sơ Địa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên giáo mới gọi là Niệm bất thoái.
Như vậy, chúng ta thấy nếu tu thông thường theo Tạng, Thông, Biệt và Viên giáo không dễ gì chứng được A Bệ Bạt Trí. Nhưng trong nguyện này Phật lại nói: mười phương chúng sanh nghe danh phát tâm, nhất niệm ta, liền sanh trong cõi ta, thành bậc A Duy Việt Trí Bồ tát. Kinh Tiểu Bổn cũng dạy: "
Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí...".