CÀNH TRIÊU NHAN
Hòa thượng Thích Phước Tịnh
Nhà xuất bản Đông Phương
LỜI ĐẦU SÁCH
Tập sách này được tuyển từ những bài pháp thoại chia sẻ ở nhiều nơi tại các đạo tràng thiền tập. Mặc dù chúng tôi đã nhuận văn cẩn trọng, nhưng có lẽ vẫn không tránh khỏi những dòng chữ quê vụng được phiên tả từ các băng giảng.
Mong rằng sự góp mặt mộc mạc đơn sơ của tập sách này cũng giống như sự hiện diện bình dị, gần gũi của hoa triêu nhan, mà tên dân gian gọi là "hoa bìm bìm", mọc khiêm tốn bên vệ đường có thể làm thư giãn lòng người qua lại khi dừng chân chợt ngắm.
- Tu viện Lộc Uyển
Tháng đầu hạ 2009
Phước Tịnh
- Pháp thoại tại Tu viện Lộc Uyển
ngày 03-04-2005)
- Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lại giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ.
- Người đi trước ta chừ mất bóng
Người sau còn ẩn khuất chưa sinh
Giữa vùng trời đất mông mênh
Thân người cô quạnh bồng bềnh thương thay.
Chúng ta thử nhìn lại trong phạm vi hạn hẹp của một con người, thì sẽ thấy rằng mỗi người chúng ta đều đi qua con đường này. Lúc còn thanh xuân, chúng ta đều mơ ước phát triển một đời sống vật lý toàn hảo; thành đạt công danh, tiện nghi vật chất đầy đủ (nhà cửa, của tiền, xe cộ). Nhưng đến một lúc nào đó nhu yếu tình cảm phát sinh, chúng ta thương yêu, muốn được thương yêu và cần có đối tượng để thương yêu. Thế rồi từ đây mang đến nhiều hệ lụy cho một đời người, và dường như nỗi khổ lớn nhất là những hệ lụy gắn liền với tình cảm. Đến tuổi bóng chiều đổ xuống đời mình, cảm nhận cuộc sống bắt đầu co lại như cây trút lá vào mùa thu, nhựa sống thu phục lại trong thân thì con người có khuynh hướng nghiêng về đời sống tâm linh. Chính từ khía cạnh này, các nền triết học, tôn giáo đã nhận định có tính cách khái quát rằng đây là những vấn đề lớn của con người mà xã hội nào, thời đại nào cũng phải trực diện. Và tự trong thâm thức con người ai cũng có khuynh hướng muốn thăm dò, tìm kiếm vào con đường này. Điều quan trọng chúng ta muốn tìm hiểu ở đây là câu hỏi: Ta là ai? - là câu hỏi vẫn thường nảy sinh trong tâm thức chúng ta.
Ví dụ như khi đang ở chặng đường thứ nhất, ta có thể cho rằng ta là hình hài này, ta là những vật sở hữu ta đang nắm giữ. Nếu đang ở chặng đường thứ hai, chúng ta có thể loại trừ cái chấp thủ ta là hình hài, nhưng lại nghĩ ta là niềm vui, nỗi buồn nằm trong lãnh vực tình cảm rất quan trọng của đời sống con người. Cơm ăn áo mặc đôi lúc không đọa đày ta, không làm chết ta, nhưng sầu đau của một đời người, nhưng hy vọng, thất vọng có thể đã làm tổn thương, đôi khi dìm chết chúng ta trong đó. Điều này chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ trong những sinh hoạt đời thường ngoài xã hội. Đời sống tình cảm này không loại trừ một ai, dù già bảy mươi hay tám mươi tuổi thì đời sống tình cảm vẫn có những nhu yếu tất nhiên; những phiền muộn hay hân hoan bên ngoài cuộc sống vẫn đánh động vào tâm thức ta rất nhiều. Có thể những buồn vui của người lớn tuổi cường độ biểu hiện không như thời trai trẻ, nhưng vẫn có những vui buồn tất yếu của người già. Đó là những cảm nghiệm về xã hội, về đời sống tự thân như nỗi cô đơn, trống vắng, rồi nỗi sợ chết kéo đến..., tất cả đều là những dạng thức của nếp sống tình cảm. Nếu chúng ta thấy mình là niềm vui, là khổ đau, là hạnh phúc đang có mặt thì quả thật mệt mỏi, bởi vì cả cuộc đời ta chỉ biết dong ruổi xoay vần trong những tâm hành này.
Nhưng nếu ta bước sâu vào một tầng mức nữa trong đời sống tâm linh, tức bước đến tôn giáo thì vấn đề đặt ra cho những người lớn tuổi lúc bấy giờ vẫn là vấn đề muôn thuở của con người. Ta là ai? Ta từ đâu mà có mặt giữa chốn nhân gian, có mặt trong hình hài này, và đến lúc rời hình hài này ta còn hay mất? Ta đã đến đây bằng con đường nào và sẽ đi về đâu? Nếu còn trở lại sao ta không biết? Đây là những vấn đề lớn mà mọi tôn giáo đều cố gắng giải thích, tìm cách trả lời.
Tất nhiên có nhiều cách giải thích. Nhưng mọi cố gắng đều chưa đưa đến câu trả lời thỏa đáng cho khát khao tìm về nguồn cội con người. Chẳng hạn như giải thích rằng: Ta hãy có niềm tin và dâng hiến niềm tin vào một đấng thần linh, hay đấng cứu thế nào đó. Đem hết đời sống phụng sự con người, làm những điều hiền thiện, tốt lành để trong tương lai khi rời bỏ hình hài này mình sẽ được xóa sạch hết tội lỗi, sẽ được đền đáp bằng một cuộc sống giàu có, sung túc..., giống như mình đã đặt trước một tấm vé cho một chỗ ngồi tốt nơi nào đó theo ý muốn (như trong rạp hát, trên phi cơ, ở buổi trình diễn...). Đây là cách giải thích dễ chấp nhận nhất.
Thông thường chúng ta dễ dàng gắn niềm tin vào cách giải thích này, và chúng ta cũng rất dễ dàng phó thác đời mình cho một người ta cảm thấy đáp ứng cho những tiện ích mà ta đặt ra. Như trong đời sống gia đình, ta luôn nghĩ người hôn phối là người mình giao phó hết cuộc đời, là nơi vững chắc cho mình nương tựa, là cây cổ thụ cả đời cho mình bóng mát. Và ngược lại, người kia cũng cùng ý nghĩ như vậy, vô hình trung chúng ta đã ký một hợp đồng khoán trắng cuộc đời cho nhau, dù rằng hợp đồng không được viết bằng văn bản. Cả hai đều cảm thấy mình là sở hữu của nhau, sự có mặt của nhau đã thổi niềm tin vào tình yêu, vào cuộc sống. Và nhất là mỗi người là điều kiện lấp trống hố thẳm hư vô, cô liêu của bản thân người kia. Do vậy không lạ gì với nỗi đau khổ vô ngần khi một trong hai người tưởng đang yêu nhau, cần cho nhau đến hơi thở cuối cùng, nay bỗng nhiên quay lưng lại. Thứ nhất là nỗi đau vì sự phản bội làm tan nát, đổ vỡ niềm tin vào mọi thứ trong đời. Thứ hai là vì ta mất đi điểm tựa về đời sống vật chất, hụt hẫng bơ vơ về đời sống tinh thần, bởi từ lâu có thể ta chưa một lần tự chủ trong mọi tình huống. Hơn nữa, một khi người kia ra đi vĩnh viễn thì đời sống ta trở nên khủng hoảng, còn ai có thể lấp đầy cái tịch liêu, hoang vắng của tâm thức đây!
Cho nên tôn giáo có mặt là trước tiên để cho con người trao gửi niềm tin và nương tựa cuộc đời, thoa dịu, lấp đầy khoảng trống của tâm thức ở tầng thâm sâu; ở mức độ vừa phải thì có thể an ủi, khuây khỏa cuộc sống tình cảm. Như vậy, tôn giáo hiện diện ở cả hai phương diện trong đời người: Đáp ứng cho lãnh vực tình cảm, và đồng thời giải quyết đời sống tâm linh.
Tuy nhiên cách giải thích thứ nhất như vừa chia sẻ chưa làm cho chúng ta thỏa mãn, vì những hứa hẹn của tôn giáo về một cỗ tốt lành trong kiếp lai sinh để chúng ta giao phó cuộc đời là khó có thể kiểm nghiệm được. Và việc khích lệ tin tưởng vào một lời hứa mơ hồ rằng cứ làm hết sức mình hôm nay để ngày mai ở một nơi chốn biệt mù nào đó ta sẽ có một chỗ ngồi tốt, đối với đời sống văn minh, tiên tiến của khoa học thực nghiệm trên hành tinh này là rất khó có thể thuyết phục được, có khi còn tạo nhiều hoài nghi trong tâm thức con người.
Một cách giải thích khác về đời sống sau khi chết cho rằng quá khứ có mặt trong hình hài này, và lai sinh nó cũng có mặt trong hình hài này. Mình không còn nữa nhưng không phải mình mất hẳn, mà mình còn có mặt ở dòng chảy tương lai. Mình còn biểu hiện dưới một hình thái khác, một con người khác: con của mình, cháu của mình... được tiếp nối, kế thừa qua nhiều kiếp, là bản sao của chính mình. Điều này chúng ta có thể tin được không? Cũng có thể, nhưng để tin tưởng hoàn toàn thì chắc có lẽ mình vẫn chưa. Và đây là cách giải thích theo lý nhân duyên của đạo Phật.
Dĩ nhiên giáo lý nhân duyên là một giáo lý có nền tảng vững chắc, đã hiến tặng tuệ giác đạo Phật cho xã hội. Giáo lý nhân duyên bao hàm trong rất nhiều lãnh vực và khi hiểu thấu đáo sẽ thấy rằng giáo lý này trao cho chúng ta niềm tin vào đời sống con người được hình thành qua các hiện tượng thiên lưu biến dịch, từ nguyên lý tất yếu: "Cái này có nên cái kia có", có ông bà, cha mẹ rồi có con cháu tiếp nối... là bản sao của đời người. Thế nhưng chúng ta vẫn chưa tin. Tại sao?
Từ sâu trong tâm thức, ta vẫn tin là hình hài này, nếu hình hài này phải ra đi thì cũng ra đi với những phẩm chất sẵn có: nào tài ba, nào trí thức, nào học thuật... của mình. Nếu còn trở lại thì ta sẽ là một con người như vậy, chứ không thể nào chỉ vào con, cháu mình rồi bảo đó là mình thì làm sao ta có thể tin được. Vì vậy, ta vẫn chưa cảm thấy hài lòng đối với những giải đáp cho câu hỏi Ta là ai?.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Ta là ai, ta từ đâu tới đây, khi rời hình hài này ta sẽ đi về đâu? Và cái ta chính thật là gì? Đây là câu hỏi luôn khởi lên trong tâm của mỗi người. Thông thường khi chỉ vào tự thân, ta nghĩ ta là thân này, nhưng mình phải hỏi lại, nghĩ kỹ lại, mình có phải là thân này không?
Có một câu chuyện cổ sau đây có thể chia sẻ một điều ý vị và cũng thật dễ thương. Ngày xưa, có một vị hoàng tử bị bệnh hoang tưởng, tự thấy mình là con gà. Nhà vua rất đau lòng khi thấy không ai chữa trị được bệnh tình của người con trai duy nhất sau này sẽ kế vị mình. Bao nhiêu danh y đều đã được mời đến để chữa trị cho hoàng tử, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm. May mắn thay, cuối cùng có một vị đạo sĩ tìm đến và ông hứa sẽ trị lành căn bệnh này. Nhà vua tuy đã mất nhiều niềm tin, nhưng vì thương con biết đâu người này có thể làm cho hoàng tử khỏi bệnh; vả lại nếu không khỏi được thì âu đó cũng là số phận, nên chấp thuận. Vị đạo sĩ như "được cởi mở tấm lòng" tức khắc bắt tay điều trị. Ông lập tức cởi bỏ hết áo quần, luồn mình xuống dưới gầm bàn, đập hai tay vào hông và gáy lên một tràng dài ò ó o o... rền vang cung điện. Hoàng tử rất kinh ngạc bởi chiêu trò kỳ dị ấy, nhưng đạo sĩ liền bảo: "Nè, ta là bậc thầy của ngươi về loại gà, ngươi hãy bắt chước ta". Sau những lần trổ tài và chỉ cách cho hoàng tử làm theo, hoàng tử thấy ông này tài nghệ thật đáng nể, nên những lần kế tiếp, điều gì vị đạo sĩ kia làm, hoàng tử thấy đều rất có lý. Vào hôm sau, đạo sĩ gọi gia nhân dọn thức ăn lên một cái bàn, và ông lên trên đó ngồi ăn. Vị hoàng tử hỏi: "Tại sao ông lên bàn ngồi ăn, trong khi ông vốn là gà?" Vị đạo sĩ nói: "Đúng, ta là gà, nhưng ngồi ăn như con người thì đâu có sao. Mình tuy là gà nhưng cũng vào bàn ngồi ăn chứng tỏ mình có khả năng ăn như con người". Và hoàng tử bắt chước làm theo những gì đạo sĩ chỉ dạy. Vị đạo sĩ dẫn dụ lần lần từng bước, cuối cùng chữa được hoàng tử khỏi chứng bệnh hoang tưởng nghĩ mình là gà.
Câu chuyện rất hay ở chỗ, tự thân người kia vốn là hoàng tử dòng dõi vua chúa sang quí, tự nhiên cảm thấy mình là gà nên sống đời sống của loài gà, và bị mọi người cho là bệnh. Nhưng vị đạo sĩ tài trí, thông minh đã giúp anh từ bỏ ý tưởng điên đảo ấy, hồi phục lại dần đả thấy mình là một vị hoàng tử. Và có thể chúng ta cũng như vậy. Qui chiếu lại tự thân, ta vốn không phải là thân này nhưng ta thường thấy hoặc chấp mình là thân này. Ở mức độ cạn khi nhìn anh chàng kia mình có thể cho là "điên", nhưng qua cái nhìn của những bậc giác ngộ, chắc chắn các ngài thấy cũng "điên" giống như vị hoàng tử kia, vì ta cũng nhìn, cũng chấp cái thân này là mình.