![tangbong tangbong](./images/smilies/smilies/SmiliesDTK053.gif)
pháp này là gì?
![:) :)](./images/smilies/smilies/SmiliesDTK001.gif)
Điều hành viên: binh
Là đây DH:hlich đã viết: pháp này là gì?
tất cả những gì chúng ta có thể nói đến đều gọi là pháp, từ pháp thế gian cho đến pháp siêu thế gian cho đến pháp siêu thế gian niết bàn (niết bàn được gọi là pháp vô vi chẳng hạn)
hlich đã viết:![]()
vậy thì phi "câu nói đó" là "những câu nói khác"
Đức Phật đã khẳng định nhiều lần rằng "tất cả các pháp" đều vô ngã,ngay cả trong các kinh điển Nam tông.hlich đã viết: đ/h Luuuuuuuuuuuu à, khái niệm pháp có tự tính được khai triển sau thời kỳ khởi thủy cho nên nói bậc Thanh Văn giác ngộ pháp không có tự tính là hơi quá đà đó
Vậy nên sẽ vô lí nếu như nói rằng tất cả các vị Thanh Văn Văn chỉ giác ngộ được "nhân vô ngã",mà không giác ngộ được "pháp vô ngã".Chỉ có thể nói rằng 1 vị Thanh Văn "không nhất thiết" là giác ngộ được pháp vô ngã.Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp quyết định tánh, tức là: “Tất cả các pháp là vô ngã”. Về vấn đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ. Sau khi chánh giác tri, chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: “Tất cả các pháp là vô ngã”.
Kinh Tăng Chi Bộ - http://quangduc.com/kinhdien/tangchi/3tangchi14.html
Trong Kinh Hoa Nghiêm,phẩm Thập địa,đoạn nói về Bồ tát bực Bát địa:Trong lúc đó, Tôn giả Tu-bồ-đề đang vá y tại một mé núi, trong núi Kỳ-xà-quật nơi thành La-duyệt. Tu-bồ-đề nghe Thế Tôn hôm nay về đến châu Diêm-phù-đề, thầm nghĩ, “Chúng bốn bộ không ai là không đến gặp. Nay ta cũng nên đến thăm hỏi, lễ bái Như Lai.” Tôn giả Tu Bồ Đề liền ngưng việc vá y. Rời chỗ ngồi đứng dậy, chân phải vừa chạm đất, tức thì ngài lại nghĩ: ‘Thân hình Như Lai đó, cái gì là làm Thế Tôn, là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chăng? Người mà ta đến gặp lại là đất, nước, lửa, gió chăng? Hết thảy các pháp đều rỗng không vắng lặng, không tạo, không tác, như những gì Thế Tôn đã nói kệ:
Nếu ai muốn lễ Phật
Và các bậc tối thắng,
Uẩn, xứ, giơi1301 các loại,
Đều phải quán vô thường.
Phật quá khứ xa xưa,
Cho đến Phật tương lai,
Cùng chư Phật hiện tại,
Tất cả đều vô thường.
Nếu ai muốn lễ Phật
Quá khứ và tương lai,
Hoặc ở trong hiện tại,
Phải quán nơi pháp Không.
Nếu ai muốn lễ Phật,
Quá khứ và tương lai,
Hoặc ở trong hiện tại,
Nên xét nơi Vô ngã.
“Trong đây không có ngã, không có mạng, không có con người, không có tạo tác, cũng không hình dung, có dạy, có truyền. Các pháp thảy đều không tịch. Cái gì là ngã? Cái ta là không chủ. Nay ta quy mạng tụ chơn pháp.” Rồi Tôn giả Tu-bồ-đề liền ngồi vá y trở lại.
Để thành Phật thì cần đổ đầy ắp cả 2 bồ trí tuệ và phương tiện(công đức),không thể thiếu cái nào,vây nên người thấu triệt trí tuệ tánh không chưa chắc đã là Phật.Chư Phật tử ! Bồ tát này do sức bổn nguyện nên chư phật thế tôn đích thân hiện ra trước mặt ban cho Như Lai trí, khiến bực này được vào trong môn pháp lưu. Chư Phật bảo ! trí nhẫn này đệ nhứt thuận các Phật pháp. nhưng này thiện nam tử ! thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng của chư phật, nay ông chưa được. Ông phải vì được thành tựu những Phật pháp ấy mà phát khởi tinh tấn, chớ có bỏ nơi môn trí nhẫn này.
Lại này thiện nam tử ! ông đầu được tịch diệt giải thoát, nhưng hàng phàm phu chưa chứng được, họ còn đủ các thứ phiền não, bị các thứ giác quán xâm hại nhau.ông phải thương những chúng sanh đó.
Lại này thiện nam tử ! ông phải nhớ lại bổn thệ nguyện làm lợi ích khắp tất cả chúng sanh đều làm cho họ được vào môn trí huệ bất tư nghì.
Lại này thiện nam tử ! những pháp,pháp tánh này, hoặc phật xuất thế hay không xuất thế, luôn thường trụ không khác. Chư Phật chẳng do được pháp này mà gọi là Như Lai. Tất cả hàng nhị thừa cũng có thể được pháp vô phân biệt này.
Lại này thiện nam tử ! ông xem Chư Phật chúng ta đây : thân tướng vô lượng trí huệ vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh cũng vô lượng.Ông phải thành tựu những pháp này.
Không môn là Sanh không, Pháp không; như trong kinh Tần-bà-ta-la Vương Nghinh Phật nói: Phật bảo Ðại vương: “Khi sắc sanh chỉ là ”không” sanh, khi sắc diệt chỉ là “không” diệt, khi các hành sanh chỉ là “không” sanh. Khi diệt chỉ là “không” diệt, trong ấy không có tự ngã, không người, không thần ngã, không có người từ đời này đến đời sau, trừ nhân duyên hòa hợp danh tự là chúng sanh; kẻ phàm phu ngu si chạy theo danh để cầu thật”. Trong các kinh như vậy, Phật nói về sanh không.
Pháp không là, như Phật nói ở trong kinh Ðại Không: Mười hai nhân duyên từ vô minh cho đến già chết, nếu có người nói đó là già chết , hoặc nói ai già chết? đều là tà kiến. Sanh, hữu, thủ, thọ, ái, xúc, lục nhập, danh sắc, thức, hành, vô minh cũng như vậy. Hoặc có người nói thân tức là thần ngã, hoặc nói thân khác thần ngã; hai lời đó tuy khác nhau, song đồng là tà kiến. Phật nói: Thân tức là thần ngã, tà kiến như vậy, chẳng phải đệ tử Ta. Hoặc nói thân khác thần ngã, cũng là tà kiến, chẳng phải đệ tử Ta. Trong kinh ấy Phật nói về pháp không. Nếu nói: “ai già chết”, nên biết đó là lời hư vọng, ấy gọi là sanh không. Nếu nói: “ấy là già chết”, nên biết đó là lời hư vọng, ấy gọi là pháp không. Cho đến vô minh cũng như vậy.
Lại nữa, Phật nói về sáu mươi hai kiến trong kinh Phạm Võng: Nếu có người nói “thần ngã thường, thế gian cũng thường”, ấy là tà kiến. Nếu nói: “thần ngã vô thường, thế gian vô thường” ấy cũng là tà kiến. Nếu nói: “thần ngã và thế gian cũng thường cũng vô thường, thần ngã và thế gian chẳng phải thường và chẳng phải vô thường” đều là tà kiến. Do vậy, biết các pháp đều là không, ấy mới là thật.
(1)Một ý nghĩa khác của duyên khởi là sự tồn tại của các sự vật trong mối liên hệ[tương quan] lẫn nhau.Ví dụ như khi ta nói về một bộ phận của toàn bộ thân thể ,ta gọi nó là một bộ phận của tổng thể.Tương tự,một tổng thể chỉ là tổng thể trong mối liên hệ với các bộ phận của nó.Từ quan điểm này,bộ phận và tổng thể là tương quan và phụ thuộc lẫn nhau.Cũng vậy,các tính chất như dài và ngắn có ý nghĩa tương quan bởi vì chúng ta dùng những từ ngữ này để mô tả các đối tượng trong mối quan hệ với những đối tượng khác.(2)
Ở một cấp độ khác,các pháp cũng được gọi là duyên khởi bởi vì chúng khởi sinh phụ thuộc vào cơ sở của sự định danh và chúng phụ thuộc vào tâm thức định danh chúng.(3)
Ý nghĩa (1) của duyên khởi chỉ áp dụng với các pháp hữu vi,trong khi hai ý nghĩa (2) và (3) áp dụng với tất cẩ các pháp,pháp vô thường hữu vi cũng như pháp thường hằng vô vi.
Trích từ bài giảng Ba Điểm Tinh Yếu Trên Đường Tu Tập - Đức Dalai Lama chú giải bài kệ của ngài Tsongkhapa
Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến. và 80 khách