201. TÍCH CHUYỆN CÁC NGƯỜI NGOẠI ĐẠO
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến các người ngoại đạo.Thuở ấy, các du sĩ ngoại đạo khi đi khất thực, thường có lời tán thán công đức các thí chủ. Sau khi nhận thực phẩm, họ thường nói: "Nguyện cho thí chủ được may mắn, giàu sang và sống lâu!" Trong khi đó, các vị tỳ kheo tuân theo lời Phật dạy, lặng lẽ nhận tặng phẩm mà chẳng nói lên lời chúc tụng nào. Dân chúng thích được nghe lời khen ngợi việc bố thí, nên bắt đầu bàn tán, so sánh hai thái độ đi khất thực và có phần thiên về phiá ngoại đạo.
Khi đức Phật được biết sự việc đó, Ngài cho phép các tỳ kheo, sau khi thọ thực nơi nhà các tín chủ, thì hồi hướng công đức họ đã bố thí đến cho gia đình của họ. Bấy giờ các du sĩ ngoại đạo lại chỉ trích, cho rằng các tỳ kheo đã lắm lời, nói dông dài, chẳng bằng họ là người biết giữ đúng hạnh tĩnh mặc của các bực Mâu Ni. Đức Phật mới bảo các vị tỳ kheo: "Nầy chư tỳ kheo, có nhiều kẻ giữ im lặng, chỉ vì họ nhút nhát và ngu dốt, cũng có kẻ chẳng chịu nói ra để chia xẻ sự hiểu biết thâm sâu của họ với kẻ khác. Như thế, chẳng phải vì im lặng mà trở thành một bực Mâu Ni. Chỉ xứng danh là bực Mâu Ni, người nào biết im lặng khi đã hoàn toàn khắc phục được mọi điều ác".
Rồi đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:
- Biết nín thinh nhưng vẫn ngu si
Đâu gọi là Mâu Ni tĩnh mặc.
Như vị cầm cân, cân nhắc
Chọn lành lánh dữ, bậc Mâu Ni.
(Kệ số 268)
Vì lẽ ấy: chọn lành, lánh dữ,
Người được xưng là bực Thánh hiền.
Nội, ngoại giới ai thông suốt đủ,
Danh vị Mâu Ni xứng đáng liền.
(Kệ số 269)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
- Ngoại đạo: Ngoại = ngoài. Chữ ngoại đạo trong Phật học dùng để chỉ các tôn giáo khác với đạo Phật, ở ngoài đạo Phật.A. NGHĨA CHỮ:
- Du sĩ: Du = đi đó đây; Sĩ = người. Du sĩ, ở đây, chỉ các vị tu hành ẩn cư, chẳng có nơi ở nhứt định, đi đó đây để khất thực.
- Tán thán: Khen ngợi.
- Thí chủ: Người bố thí; còn gọi là thí giả.
- Thiên: Thiên vị, nghiêng về một bên.
- Hồi hướng: Hồi = quay trở lại; Hướng = nhắm vào. Hồi hướng công đức là nguyện đem công đức tu hành của mình mang phước báo hướng đến cho ai.
- Tĩnh mặc: Tĩnh = yên-lặng; Mặc = nín thinh. Chữ tĩnh mặc dùng để dịch chữ Phạn Muni, bực tĩnh lặng, đã diệt trừ mọi điều ác.
- Cầm cân cân nhắc: Nghĩa bóng, chỉ sự phán đoán thiện ác rành rẽ
- Nội, ngoại giới: Nội = bên trong; Ngoại = ngoài; Giới = cảnh giới. Ở đây chữ nội giới chỉ vào thân tâm năm uẩn của chính mình, còn ngoại giới là thân-tâm năm uẩn của kẻ khác, ở bên ngoài.
B. NGHĨA ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:Tích chuyện thuật lại việc các du sĩ ngoại đạo chỉ trích khất sĩ Phật giáo nói dài dòng khi hồi hướng công đức đến các thí chủ, cho rằng các khất sĩ chẳng biết giữ hạnh tĩnh mặc của bực Mâu Ni. Đức Phật dạy, muốn xứng danh là bực Mâu Ni (= tĩnh mặc), chẳng phải chỉ im lặng suông, mà trong tâm phải diệt hết mọi điều ác.
Ý nghĩa của Tích chuyện là phải biết lúc nào nên im lặng, lúc nào nên nói, trong tâm thanh tịnh phân biệt rõ ràng điều lành và việc ác.
(2) Ý nghĩa của hai bài Kệ số 268 và 269:
Hai bài Kệ phân biệt sự tĩnh mặc (giữ im lặng đúng lúc) của bực Mâu Ni, với sự nín thinh vì dốt nát hay vì làm hiểm chẳng muốn chia xẻ sự hiểu biết của mình với kẻ khác. Ngoài ra, riêng bài Kệ sau còn dạy những đức tánh của bực Mâu-ni:
- Chọn lành lánh dữ.
- Thông suốt cả nội và ngoại giới (= hiểu rõ thân tâm năm uẩn của mình và của kẻ khác).