A DI ĐÀ SỚ SAO

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

SỚ:
Lại Kinh Ðại Bổn nói: “Cây Bồ Ðề nơi Ðạo Tràng của Phật A Di Ðà cao 16 ức do tuần. Bốn phía cành lá 8 ức do tuần, gốc cây cao lên 5 nghìn do tuần, tất cả các báu tự nhiên hiệp thành, lại rủ các ngọc báu dùng làm chuỗi Anh Lạc; lại có lưới báu, giăng phủ trên cây”. Căn cứ theo đây thời ngoài hàng cây, riêng có cây Ðạo Tràng của Phật mà văn nầy bớt gọn, tức là gồm trong hàng cây. Lại trong luận nói: “Cỏ công đức cũng nhiếp trong hàng cây”. Kinh Ðại Bổn nói: “Cây kia có mùi hương” cũng nhiếp trong món báu.
SAO:
Cây Ðạo Tràng tức là cây Bồ Ðề, như Phật Thích Ca cũng ngồi dưới gốc cây nầy mà thành ngôi chánh giác, phải vậy. “Mười sáu ức do tuần” là kinh Ðại Bổn ngài Vương Thị nói: “Một nghìn sáu trăm do tuần”. Vả hàng cây còn được 8 nghìn thay, huống cây của Phật đâu lại kém ư? Lời Sớ đây gốc dẫn trong kinh Bảo Tích vậy. “Tức nhiếp trong hàng cây” là: Do cây Ðạo Tràng cũng là: gốc, chồi, cành, lá, bông, trái, mỗi hàng mỗi hàng kế nhau. Cho nên nói hàng cây đủ dùng nhiếp hết. Thế nào là “cỏ công đức”? Trong Luận nói: “Cỏ Bảo Tánh công đức, nhu nhuyễn quanh chìu theo hai bên. Hễ ai đụng nhằm thì sanh tâm vui sướng hơn cái thích ý ôm chim Ca Chiên Lân Ðà” (29). Văn đây không nói đến cỏ là do vì nói cây gồm cỏ. “Mùi hương của cây ấy” là: Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, hoa cây trong nước đều dùng vô lượng các món tạp bảo, trăm nghìn món hương mà cộng hiệp thành. Hương kia phổ huân cả 10 phương thế giới; chúng sanh nào có duyên được nghe đến, đều nhớ tu đạo Phật”. Văn đây không nói đến là vì hễ nói các thứ báu lạ thì lẽ cố nhiên ắt có mùi hương lạ. Do vì nói báu lạ nó gồm hương lạ.

TỔNG KẾT

Thế cho nên nước kia gọi là nước Cực Lạc.

SỚ:
Kết văn trước dể sánh văn sau.
SAO:
“Kết văn trước” là gì? Do lan can, lưới giăng, hàng cây mỗi mỗi đều thanh tịnh trang nghiêm ấy. Sở dĩ cõi địa cầu bằng vàng ròng, nó khác với địa cầu bùn cát, cây ngọc báu khác với cây chông gai. Không tất cả sự khổ, có tất cả sự vui nên gọi là nước Cực Lạc. Ðể “sánh văn sau” là gì? Văn sau dưới mỗi câu “công đức trang nghiêm”, tuy không câu “danh vi Cực Lạc”, nhưng nghĩa thời có đó. Trong văn đây, dưới câu “danh vi Cực Lạc”, tuy không câu: “Công đức trang nghiêm nhưng nghĩa cũng có; vì lối hành văn bằng cách bày thấy lẫn nhau.

SỚ:
Xứng lý thời tự tánh đủ muôn đức dọc ngang là nghĩa lan can. Tự tánh rỗng rang bao la pháp giới là nghĩa lưới báu. Tự tánh nuôi lớn các căn lành là nghĩa hàng cây.
SAO:
“Dọc và ngang” là gì? Cả pháp lục độ vạn hạnh không lìa tự tánh như: tự tánh vốn không xan tham, ấy gọi là Bố Thí độ, lấy Bố thí làm bề dọc. Bố thí mà tâm không nhiễm trước thời bề ngang thành pháp Giới Ðộ (trì giới). Bố thí mà tâm không kiêu ngạo thời bề ngang thành pháp Nhẫn Ðộ (nhẫn nhục). Bố thí mà tâm không nhàm mỏi thời bề ngang thành pháp Tấn Ðộ (tinh tấn). Với pháp Thiền Ðịnh, Trí Huệ, cũng lại như vậy. Năm độ kia, so như trên nên biết. “Các món nhiệm mầu trọn đủ” tức là nghĩa xem cho tốt. Các vọng không phạm (nhiễm) tức là nghĩa ngăn trâu, dê làm hư hại. “Bao la” là gì? Tự tánh khắp đầy, thanh tịnh vì trùm bao cả pháp giới. “Nuôi lớn các căn lành” là chi? Như kinh Hoa Nghiêm phẩm Ly Thế Gian nói: “Cây diệu pháp của ông Bồ Tát sanh nơi đất Trực Tâm, hột giống bằng đức Tín, gốc bằng Từ Bi, Trí Huệ làm thân cây, Phương Tiện làm nhành cội, năm độ làm rùm rà, lá bằng Ðịnh, hoa bằng Thần Thông, Nhứt Thiết Trí là trái hột”. Lại kinh Tịnh Danh phẩm Phật Ðạo nói: “Pháp vô lậu là rừng cây, Giác Ý Tịnh Diệu là hoa giải thoát, Trí Huệ là trái, đều là cội gốc ở nơi đất Trực Tâm mà phát sanh ra vô tận ấy vậy”. Ngặt vì lan can đã hư mà lại va rìu búa vào, lưới giăng đã lủng mà lại bóng che mát thưa! Còn khô héo đến cả gốc nhánh là khác, huống mong gì nở nang hoa trái?! Song mà rừng Giác (tánh giác) vẫn như xưa, hột giống đạo (Phật tánh) chẳng xa, sao chẳng mau vun bồi, lại thêm sửa soạn, liền thấy cây Bá ở trước sân, hoa Dược Lan ngoài rào. Mỗi hàng, mỗi hàng đều là Bát Nhã Chơn Như, mỗi phía mỗi phía toàn là Bồ Ðề Phật Tánh!
(105) Q2C


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TRÌ CÁC LIÊN HOA (phân ra làm bốn phần)
1. TRÌ THỦY (ao nước)
2. GIAI CÁC (Thềm lầu)
3. LIÊN HOA (hoa sen)
4. TỔNG KẾT (chung kết)

TRÌ THỦY
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bằng thất bảo, 8 thứ nước công đức, dẫy đầy trong đó; dưới đáy ao, dùng ròng thứ cát bằng vàng lót đất.

SỚ:
“Lại nữa” là: Noi theo văn trên, chẳng những trên đất liền trang nghiêm có những lan can, lưới giăng, hàng cây như thế, mà dưới ao nước cũng trang nghiêm, cũng lại thắng diệu không chi kịp vậy.
“Ao thất bảo” là gì? Do bảy món ngọc báu làm thành; chất nước trong ao, cũng dùng 7 thứ ngọc báu.
SAO:
“Bảy món ngọc báu làm thành” là: Vì lựa khác với phương nầy, dùng đất đá làm thành. Kinh Ðại Bổn nói: “Trong ngoài, đôi bên có những ao tắm, hoặc 10 do tuần, hoặc 20, 30, nhẫn đến trăm nghìn do tuần cũng như biển lớn. Hoặc dùng một món báu, hai món báu, nhẫn đến 7 món báu, hiệp cộng làm thành”.
Lại nói: “Như cái ao của đức Phật kia, tư vuông bội hơn cái ao bằng trăm ngàn do tuần ấy, toàn dùng 7 món báu làm nên”. Nay kinh nầy (Di Ðà tiểu bổn) không nói ao của Phật là vì gồm chung trong cái nghĩa ao rồi. Nước cũng dùng các món báu như kinh Thập Lục Quán nói: “Nước trong mỗi ao do 7 món báu làm thành. Báu kia nhu nhuyến từ ngọc Như Ý Châu Vương (thanh tịnh tâm) sanh ra, phân ra 14 dòng nước, ngời ra màu tốt của 7 món báu. Vàng ròng làm bờ ao”.
Lại nói: “Nước bằng chất ngọc Ma Ni (tâm chánh định) kia, chảy rót trong hoa. Nước chảy chuyền theo cây lên, xuống”. Nay kinh nầy chỉ nói ao báu, không nói nước cũng do ngọc báu làm thành và chảy rót lên xuống, là vì chung gồm trong nghĩa nước vậy. Nước bản tánh nó thì chảy xuống, mà trái lại từ dưới thấp chảy lên trên cây cao. Vì phương ta đây không có (dù có cũng mắc công bơm). Như kinh Hạ Sanh nói: “Cõi trời Ðẩu Suất Ðà thiên của Phật Di Lặc ở, có thứ nước chảy đi trong rường cột”, tức là đồng loại nước đây vậy.
CHÚ THÍCH
29). "Ca chiên lân đà": Sách Pháp Uyển Châu Lâm chép rằng: “Chim Ca Chiên Lân Ðà, sanh trưởng ở cù lao biển; ôm đụng đến, thân tâm sướng lạ hơn cái sướng của trời Lục Dục”. Kinh Chánh Pháp Niệm chép: “Ca Chiên Lân Ðà dịch Khả Ái điểu (chim khá yêu), sanh ở trong bể, chạm đến rất vui sướng. Tại thế giới này, đến thời kiếp tăng, mỗi người đều sống đủ 8 vạn 4 ngàn tuổi, có Chuyển Luân Vương ra đời, tức có thứ chim ấy cũng sanh ra vì là vật quí báu trong thất bửu, mà do nơi hạnh phúc của Luân Vương mới xuất hiện. Chim ấy hình như chim oan ương, cũng loài thủy điểu. Tuy vậy nhưng mà không bằng đụng thứ cỏ công đức bên cõi tịnh độ, sự vui sướng bội thắng hơn.
(106) Q2C
Sửa lần cuối bởi binh vào ngày 20/08/17 16:10 với 1 lần sửa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

SỚ:
Nước có tám thứ công đức là: Bản kinh dịch đời nhà Ðường nói:
1. Lóng trong;
2. Mát mẻ;
3. Ngọt ngon;
4. Nhẹ mềm;
5. Nhuần láng;
6. An hòa;
7. Trừ đói khát;
8. Nuôi lớn các căn lành.
Ðủ tám món công đức đây để lợi ích cho chúng sanh vậy. Lời kinh Thập Lục Quán nói phân tích tám món công đức, với kinh nầy có khác một chút. “Dưới đáy ao cát vàng” là do lấy cát vàng làm đáy ao, cho khỏi bùn cặn vậy.
SAO:
Lóng trong là:
1. Lóng trong sạch sẽ không ô trược;
2. Mát mẻ: Trong trẻo mát mẻ, không nóng nảy;
3. Ngọt ngon: ngọt ngào ngon đẹp, đủ chất vị rất quí;
4. Nhẹ êm: nhẹ nhàng, êm ái, chảy lên xuống đều vừa ý;
5. Nhuần láng: được nhuần trơn láng, không khô rít;
6. An hòa: An tịnh hòa huỡn, không gấp tràn;
7. Trừ đói khát: Nước này đã đỡ khát mà nay lại thêm đỡ đói, có sức thù thắng;
8. Nuôi lớn các căn lành: Nuôi dưỡng thêm lớn cho cả trong tâm ngoài thân vậy.

Trong Quán Kinh lời Sớ nói: “Tám món công đức là:
1. Nhẹ.
2. Trong.
3. Mát.
4. Êm.
5. Ngon.
6. Không hôi.
7. Khi uống hòa đẹp.
8. Uống rồi không bệnh.
Ðối với trên, chỗ đại khái thì đồng, nhưng có khác một chút. Vì sao? Do kinh đây, nhẹ và êm hiệp một; còn kinh kia lại chia làm hai. Kinh đây, không nói “không hôi”. Kinh kia lại thiếu “nhuần láng” và “hòa an”. Song nghĩa lẫn nhau thấy đủ. Vì hễ lóng trong mát mẻ thời ắt không hôi hám; đã nhẹ lại dịu êm, đâu chẳng an hòa, lược bớt nghĩa nhuần láng; cho nên nói: “Có khác một chút”. Lại kinh kia phối với nghĩa Lục Nhập, kinh đây thời lóng trong là căn Sắc nhập. Ngọt ngon là căn Vị nhập, cho đến nói: “Nuôi lớn các căn lành” là Nhĩ nhập, Tỷ nhập, Thân nhập và Ý nhập đều thâu nhiếp cả. Lại kinh Ðại Bổn nói: “Dưới sông lớn, cát vàng lót đất, có hương chư Thiên, hương đời không sánh được, theo nước tan ra bát ngát, hòa với nước trôi thơm” đều là chứng rõ có căn hương nhập vậy. Văn sau nói thuyết pháp ấy là chứng rõ: Căn Thinh nhập và căn Pháp nhập.
Hỏi: Với ngọt, ngon, nhẹ, êm, trừ đói, nuôi lớn căn lành, phương đây không hẳn thiệt đúng như vậy, nhưng mà phàm nước thì thảy đều mát mẻ, thảy đều nhuần láng, nay vì sao nước cõi kia cũng có đủ hai tánh đó mà lại riêng xưng là nước công đức?
Ðáp: Nước ở phương ta mặc dầu cũng mát mẻ, nhưng gặp nắng thì nóng, gặp lửa thì sôi, còn nước cõi kia dầu kiếp lửa đến nó cũng mát mẻ tự như, trọn không nóng và sôi. Nước ở phương ta tuy cũng nhuần láng, nhưng nắng quá thời khô, lửa đốt thời cạn. Còn nước cõi kia dầu kiếp lửa đốt đó, nó cũng vẫn nhuần láng tự như, không khô và cạn.
“Kim sa” (cát vàng), trong Quán Kinh nói: “Vàng ròng làm bờ ao. Dưới bờ ao, có những thứ ngọc Kim Cang làm cát dưới đáy ao”. Kinh Ðại Bổn nói: “Ao, ròng một món báu, cát dưới đáy cũng ròng một món báu”. “Ao vàng ròng” là: Cát dưới đáy ao bằng chất bạc trắng, như ao thủy tinh, cát dưới đáy bằng ngọc Lưu Ly. Hai món báu làm ao thời cát dưới đáy, cũng hai món, cho đến 7 món báu làm ao cũng lại như vậy. Nay kinh nầy chỉ nói một thứ cát vàng là vì bớt văn gọn lại.

SỚ:
Lại kinh Ðại Bổn nói ao nước, các món báu đã kể rồi, nay lại phân ra ba món diệu dụng thù thắng:
1. Nước hay tùy ý;
2. Nước hay thuyết pháp;
3. Tắm rồi tấn tu đạo nghiệp.
SAO:
“Tùy ý” là gì? Kinh Ðại Bổn nói: “Các người bực Thượng Thiện vào trong ao Thất Bảo tắm sạch thân thể, ý muốn cho nước ngập chưn, nước liền ngập tới chưn; muốn cho tới gối, nước liền ngập tới gối; muốn cho tới lưng, tới nách, tới cổ và xối lên trên thân thể, đều được như ý muốn. Muốn cho nó trở lại, nước liền trở lại, điều hòa ấm, mát, không chút nào mà chẳng thuận thích. “Nới thần sướng vóc, rửa sạch tình lự (30), trong ngần lóng sạch, tịnh như vô hình. Nước ấy thiệt là vô tâm mà hay tùy tâm ý người muốn vậy” (không như nước máy cõi nầy, cần người ra sức bơm, vặn, nhận nút trong khi tắm). “Thuyết pháp” là gì? Kinh Ðại Bổn nói: “Pháy dợn xoay vòng, chuyển nhau rỏn rẻn, không chậm không mau, êm đềm rỉ rả. Sóng xao vô lượng, tự nhiên kêu ra những tiếng nhiệm mầu. Hoặc nghe tiếng Phật, hoặc nghe tiếng Pháp, hoặc nghe tiếng Tăng, tiếng tịnh, tiếng không, tiếng vô ngã, tiếng đại từ bi, tiếng ba la mật, tiếng thập lực, tiếng vô úy, tiếng bất cộng pháp, tiếng chư thông huệ, tiếng vô sở tác, tiếng bất khởi diệt, tiếng vô sanh nhẫn, cho đến tiếng cam lồ, quán đảnh, tiếng chúng diệu pháp, xứng tâm sở dục (vừa theo ý muốn). Không phút nào chẳng nghe, phát tâm thanh tịnh, thành thục các căn, hằng không lui đạo vô thượng Bồ Ðề. Thiệt là nước ấy vốn vô tình, nhưng có thể nói được các diệu pháp vậy.
“Tắm rồi tấn tu đạo nghiệp” là: Kinh Ðại Bổn nói: “Cùng nhau tắm rồi, hoặc mỗi người ngồi trên hoa sen”. Lại nói: “Có người ở dưới đất giảng kinh; người tụng kinh; người tự thuyết kinh; người dạy kinh; người nghe kinh; người niệm kinh; người nghĩ đạo; người tọa thiền nhứt tâm; người đi kinh hành; có người ở giữa hư không giảng kinh; nhẫn đến người tọa thiền rồi đi kinh hành; mỗi người đều tùy theo tánh của mình muốn mà có đặng chỗ sở đắc”. Người chưa chứng tứ quả nhơn tắm rồi đặng tứ quả; chưa đặng bực Bất Thối Chuyển địa Bồ Tát thời đặng bực Bất Thối Chuyển. Nước ấy chẳng những chỉ có cái công năng dùng để tắm được mà lại sau khi tắm rồi, được nhiều lợi ích quí lạ. Sắp về trước, ba món thù thắng đều nhiếp về trong nước bát công đức, và ao thất bảo. Lại Hậu Xuất Kinh lời Kệ nói: “Chỉ có nước sông chảy, tiếng vang như thuyết pháp”, thật vậy.
CHÚ THÍCH
30). "Tình lự": Tình là tình cảm, Lự là tư lự, là tất cả những hỉ, nộ, ái, ố... tư duy vọng tưởng mà trong kinh sách Phật gọi là kiến hoặc, tư hoặc, cả 8 vạn 4 nghìn phiền não chướng. Nước ở thế giới Ta Bà, người ta tắm chỉ sạch được cái bụi phiền não ngoài thân nhưng chỉ được một chập lát mà thôi vì là uế độ. Nước bên cõi Thanh Tịnh hễ tắm rồi là sạch luôn bụi phiền não trong tâm nữa là khác nên gọi “tâm tịnh, độ tịnh”, vì là tịnh độ, cả y báo, chánh báo đều thanh tịnh trang nghiêm.

(108) Q2C


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

SỚ:
Xứng lý thời tự tánh sâu rộng đằm thắm là nghĩa ao báu. Tự tánh đều đủ tất cả công đức là nghĩa nước bát công đức.
SAO:
“Sâu rộng đằm thắm” là gì? Chữ Uông là dạng thẩm sâu là vì tự tánh sâu mầu vô tận như đáy ao vậy. Chữ Dương là dạng rộng khơi, là vì tự tánh rộng xa không tột như lượng lớn của ao vậy.
“Ðằm thắm” là dạng trung hòa; vì tự tánh chẳng phải chơn, chẳng phải tục, thuần túy chí thiện như ao thuần dùng ngọc báu làm thành.
“Ðủ các món công đức” là tự tánh không nhiễm, tức đức lóng sạch. Tự tánh không phiền não tức đức mát mẻ. Tự tánh không hung ác, tức đức ngọt ngon. Tự tánh vô ngã, tức là đức nhẹ êm. Tự tánh không dứt mất tức là đức nhuần láng. Tự tánh không bạo tàn tức là đức an hòa. Tự tánh không thiếu thốn, tức là đức trừ đói khát. Tự tánh sanh ra tất cả muôn điều lành, tức là đức nuôi lớn. Lại tự tánh thuận muôn vật mà vô tình, đi lên thời vào bực Thánh, nhưng bực Thánh cũng không tăng; đi xuống thời làm bực phàm nhưng bực phàm cũng chẳng giảm. Bất biến mà tùy duyên, khắp cùng cả pháp giới. Cho nên nói chảy rót thấm trong các thứ hoa và chảy lên trên những cột rường ấy vậy.
Ngài Vĩnh Minh nói: “Vì nước có 10 đức đồng với chơn tánh”, chính ý như đây. Nước định lặng, nhẫy đầy, người tắm nước đây không nhơ cũng không sạch, ấy là nước bát công đức.

GIAI CÁC
Ðường đi bốn bên thềm ao thành bằng bốn chất báu là: kim, ngân, lưu ly, pha lê. Trên có lầu các, cũng dùng kim, ngân, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não để kiến trúc, điểm tô nhà lầu ấy.

SỚ:
“Bốn bên” là: Giữa là ao nước, giáp vòng bốn bên là thềm đường vậy.
Kim: tiếng Phạm (suvarna) Tô Phạt La.
Ngân: Tiếng Phạm (Rupya) A Lộ Ba.
Lưu Ly đây dịch: Thanh Sắc Bảo (viên ngọc màu xanh).
Pha Lê đây dịch: Thủy Ngọc (ngọc thủy tinh).
Xà Cừ đây dịch: Ðại Bối (con ốc lớn).
Xích châu, tiếng Phạm: Bát Ma La Già.
Mã não tiếng Phạm: Bát ma la già lệ.
Dùng 7 món báu đây để trang nghiêm trau dồi.
SAO:
“Giai đạo” (thềm đường) là: Cao khỏi mặt đất gọi chữ Giai (thềm). Ðường bằng phẳng gọi chữ Ðạo.
Chữ “lầu các” là: Chồng nóc gọi là Lầu, lầu cao nói là Các. Như trong Quán Kinh nói: “Trên đất vàng ròng, trong mỗi mỗi món báu, năm trăm sắc hào quang. Hào quang như hoa thành đài quang minh. Nghìn muôn lầu các, trăm món báu hiệp thành”. Kinh Ðại Bổn nói: “Nhà giảng đường tinh xá và cung điện lầu các của Phật A Di Ðà đều dùng 7 món báu, tốt hơn gấp trăm ngàn muôn bội chỗ của trời thứ 6 trong thế giới nầy. Và chỗ ở của các vị Bồ tát, cũng hơn như vậy. Còn cung điện, lầu các của các vị chư thiên và người thì xứng theo hình sắc cao, thấp, lớn, nhỏ; hoặc dùng một món báu, hai món báu, nhẫn đến vô lượng món báu”. Lại luận Phật Ðịa nói: “Vả nói 7 món báu, nhưng kỳ thực cõi Tịnh Ðộ, vô lượng món báu nhiệm mầu”. Cho nên biết rằng nói bốn báu là bớt văn. Lại kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới nói: “Lầu cao dãy dọc, đường đi quanh trên gác gie ra hai bên, cột nhà liên tiếp, song, cửa lẫn nhau ánh chói, thềm sân, hiên rào, món món đầy đủ, tất cả đều dùng ngọc tốt trang nghiêm”, tức là nghĩa đây vậy. Lại kinh Ðại Bổn nói: “Các nhà lầu nhà gác đây, có cái tùy ý người mà nổi lên cao lớn ở giữa hư không như vừng mây vậy. Có cái chẳng tùy ý người thời chỉ cao lớn ở trên mặt đất. Do người khi cầu đạo, đức có dày, mỏng, chỗ tự mình gây tạo”.
Lại nói: “Lầu quán, lan can, có ngọc anh lạc phủ lên trên, đều trỗi lên tiếng nhạc ngũ âm”. Lại trong Quán Kinh nói: “Hai bên lầu các đều có những cái tràng hoa, vô lượng đồ âm nhạc ấy diễn reo những tiếng pháp: Khổ, không, vô thường, vô ngã”; lấy đây nghiệm xét thời kinh chỉ nói lầu các, không phân của Phật và Bồ tát, trời, người, cũng chẳng phân ở trên không, ở dưới đất cũng chẳng nói âm nhạc diễn pháp đều là bớt văn vậy. Kim (vàng) có 4 nghĩa:
1. Sắc không biến đổi;
2. Thể không nhơ bẩn;
3. Chuyển làm vô ngã;
4. Hay khiến người giàu.
Ngân (bạc) có 4 nghĩa đồng với đây, nhưng công dụng nó có thua một chút.
Lưu ly chính dịch là sắc xanh, lại có tên là Bất Viễn. Bất Viễn là cái tên một hòn núi vì cái núi sanh ra ngọc báu này (lưu ly) ở gần thành Ba La Nại.
Thủy ngọc là ngọc Thủy Tinh bấy giờ.
Xà Cừ mà nói con ốc lớn là vì con ốc này là loài ốc có vỏ, ở trong biển, thứ lớn gọi là bảo (báu). Một thuyết nói không phải tiếng Phạm (xà cừ). Do vì nó giống vành bánh xe, chữ Cừ là vành bánh xe vậy.
Chữ xích châu là: Luận Phật Ðịa nói: “Loài trùng đỏ sanh ra ngọc này” (xích châu). Song có ngọc xích châu trên trời, tên là Nhơn Ðà la, chẳng phải vật sở hữu ở dưới thế này. Trong Ðại Luận gọi ngọc Trân châu, hoặc trong bụng con cá sanh ra, hoặc trong óc con rắn sanh ra, hoặc trong thai con Trai sanh ra, hoặc trong cây tre sanh ra, thời sắc nó cũng chẳng nhứt định là đỏ; cho nên theo bản dịch trước là đúng hơn.
Ngọc mã não: Hoặc có thuyết nói: Chất máu con quỷ ở ngoài đồng nội xứ Ðơn Kỳ hóa ra, có một thuyết khác nói: Ví như cái sọ con ngựa.
Chữ “Trang nghiêm” có nghĩa là chỉnh tề.
Chữ “giảo sức” có nghĩa là rực rỡ.
Do những loại nghiêm sức đây, như văn trước, hoặc dùng một món báu, hai món báu, nhẫn đến bảy món báu. Lại bảy món báu đây chỉ mượn cái tên đồng với phương nầy, chớ thật ra chất nó chẳng giống, như vàng trời và bạc trời người đời không có thể có được, huống chi cõi Tịnh Ðộ kia.
(109) Q2C


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

SỚ:
Lại bảy món báu là thường dụ: Dùng nghĩa quí trọng như trong kinh Phạm Võng nói.
SAO:
“Quí trọng” là kinh Phạm Võng phẩm Bồ tát Tâm Ðịa nói: “Xả bỏ kinh luật Ðại thừa chẳng học mà lại học sách vở của ngoại đạo, Nhị thừa tà kiến v.v.. Khác nào như bỏ của bảy báu, trở lại dùng ngói sạn”. Ðối ngói sạn mà nói, nên biết chữ bảo ấy là lấy nghĩa quí trọng. Chính là nói hai cõi, uế và tịnh chẳng đồng, vì khiến cho người đời sanh ưa cõi Tịnh nhàm cõi Uế.
Hỏi: Vua Nghiêu ở nhà tranh, ông Cơ Tử can vua Trụ dùng chén ngọc đũa ngà, những bực vua tôi trong đời còn chuộng điều chắc thiệt; vị Bồ tát cõi Tịnh Ðộ sao lại còn quí vật báu để làm trang nghiêm?
Ðáp: Ðây có hai nghĩa:
1. Những người bực thượng trí biết tâm minh tịnh thời cõi tự tịnh, chánh báo thù thắng, thời y báo ắt hùng cường; lẽ cố nhiên vậy, nhưng tâm thiệt không nhiễm. Dụ như: Vua Thuấn ở chốn ruộng nương, mình vác cày bừa. Một khi chịu vua Nghiêu truyền ngôi thì với cảnh cửa nghiêm ra vào, mão ngọc tua thả, chẳng cầu mà tự đủ, vua Thuấn nào ham vui ư? Cho nên nói: “Có thiên hạ mà chẳng màng” vậy.
2. Chiều theo kẻ phàm phu độn căn, phải chỉ cõi khổ cõi vui khiến cho sanh tâm ưa và nhàm. Trước lấy sự ưa muốn mà kéo dắt, sau khiến tỏ vào được trí Phật. Dụ nước đang gặp nạn đói rét, chợt nghe có xứ no cơm ấm áo; đang rớt dưới đầm đen tối, thoạt thấy cảnh quang minh, há chẳng thân tâm chẳm hẳm, bỏ cũ theo mới, miễn đặng vãng sanh, quyết thành người giải thoát; phương tiện tiếp dẫn, lẽ phải như vậy.

SỚ:
Xứng lý thời sự tánh bằng thẳng là nghĩa thềm đường. Tự tánh cao xa là nghĩa lầu các. Tự tánh cụ túc cả công đức tài, pháp, là nghĩa bảy món báu.
SAO:
- “Bằng thẳng” là gì? Tự tánh giải thoát tự tại, lìa các cấu ô, rộng rãi thẳng bằng, không có thiên lệch, ấy gọi là “thềm đường”.
- “Cao xa” là gì? Tự tánh vượt khỏi cảnh lục trần, xét soi không sót, bao quát chốn hư không thinh thang vô tận, ấy gọi là “lầu các”.
- “Công đức tài và pháp” là chi? Tự tánh Thường mà không đổi; Tịnh mà không nhiễm; Ngã mà tùy duyên không ngại;
- Lạc mà giàu có không thiếu; ấy gọi là “kim ngân”.
- Tự tánh trong ngoài sáng suốt, không chướng không ngại, ấy gọi là “lưu ly”.
- Tự tánh bản thể trong sạch lìa Tứ Quá, tuyệt Bách Phi, ấy gọi là “xà cừ”.
- Tự tánh quang minh chói lọi, ấy gọi là “xích châu”.
- Tự tánh chắc thật không đổi, ấy gọi là “mã não”.
Các vẻ đẹp đều đủ giúp thành pháp thân; ấy gọi là “nghiêm sức” vậy.
Vả chăng ngài Thiện Tài khắp trải nhiều thành, rộng cầu các thánh, rốt sau đến lầu các đức Di Lặc, đờn chỉ mà lên.
Nay kinh nầy: Chỉ trì danh, không lặn lội đường quanh liền được ở cảnh tốt. Kìa như trọn ngày đi trên thềm báu mà tự nói là đứa lạc đường! Khá gọi rằng: “Dựa cửa khảy móng, chẳng biết thân mình ở trong lầu ngọc”, tiếc thay!

(110) Q2C


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LIÊN HOA
Hoa sen trong ao, lớn bằng bánh xe, sắc xanh, hào quang xanh, sắc vàng hào quang vàng, màu đỏ chiếu ánh đỏ, màu trắng tia sáng trắng, nhiệm mầu thơm sạch.

SỚ:
Văn trước nói vật tốt ở ngoài ao, văn đây nêu vật tốt trong ao. Hoa sen tiếng Phạm: Phân Ðà Lợi, cũng nói Ưu Bát La, hay Bát Ðặc Ma, hoặc Câu Vật Ðầu.
SAO:
Tiếng Phạm Phân Ðà Lợi, Tàu dịch Bạch Liên Hoa (hoa sen trắng). Khi chưa nở tên là Quật Ma La. Khi sắp rụng tên là Ca Ma La. Khi đang nở tên là Phân Ðà Lợi. Ưu Bát La là hoa sen xanh. Bát Ðặc Ma là hoa sen hồng. Câu Vật Ðầu: hoa sen vàng vậy.

SỚ:
“Bánh xe” là nói cái hình của nó, lớn nhỏ không nhứt định. Luận Bà Sa và các thuyết nói nhiều thứ chẳng đồng, mỗi mỗi đều tùy cơ mà thấy.
SAO:
“Bánh xe lớn nhỏ” là luận Bà Sa nói bánh xe vàng của vị Luân Vương nghìn bức, vòng tròn 15 dặm.
Kinh Hoa Nghiêm lời Sao nói: “Bánh xe vàng lớn một do tuần”, trong Quán Kinh nói: “Mỗi mỗi trong ao có 60 ức hoa sen bằng thất bảo, tròn vìn vừa đúng 12 do tuần”. Kinh Ðại Bổn nói: “Hoa sen trong ao, hoặc một do tuần, nhẫn đến 100 do tuần, nghìn do tuần”, mà bánh xe của người đời, lớn chẳng quá một trượng, không nên chấp đấy mà cho là mực chắc. Lại nói: “Hoa sen bằng các chất báu, châu biến cả pháp giới. Mỗi mỗi hoa báu có vô lượng trăm nghìn ức cánh”. Xét trong kinh phân biệt hoa sen có thắng có liệt, ba thứ: 10 cánh, 100 cánh, 1.000 cánh. Nay kinh nầy nói: “Vô lượng trăm nghìn ức cánh”, cánh đã vô lượng thời hoa kia sức lớn cũng vô lượng vậy. Lại kinh Như Lai Tạng nói: “Bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong nhà Chiên Ðàn Lầu Các, đang ngồi chốn Ðạo Tràng mà hiện pháp thần biến ra có hoa sen nghìn cánh, lớn như bánh xe. Trong sen, hóa các vị Phật. Mỗi Phật phóng vô số trăm nghìn hào quang”. Cho nên biết bánh xe không thể nghĩ bàn. Ðâu đặng chấp theo bánh xe của người ở đời thường đi mà làm hạn lượng. “Tùy cơ” là: Hoặc nhỏ, hoặc lớn, do chỗ tu nhơn mỗi người, công phu niệm Phật, có thắng, có liệt, cơ cảm tự nên như thế. Có người chấp hoa bằng bánh xe chê kinh nầy là tán thiện, ấy là người chưa xét được nghĩa bánh xe.

SỚ:
Lớn như bánh xe, vả dụ hình thể. Lấy bánh xe dụ đức, cũng có nhiều nghĩa.
SAO:
“Hình thể” là thể bánh xe bao tròn, có giống hình hoa sen vậy.
“Nhiều nghĩa” là: lại bánh xe có nghĩa xoay chuyển là: Hoa sen nầy chúng sanh gá thai, đổi phàm thành Thánh, tức là nghĩa “xoay chuyển”. Lại bánh xe có nghĩa lăn nghiền là: Hoa sen nầy không nhiễm sự ô trược, phá trừ phiền não, tức là nghĩa “nghiền lăn”. Lại bánh xe có nghĩa bay đi là: Bánh xe vàng của vị Thánh Vương trong một ngày bay giáp bốn châu thiên hạ, là ý nói: Hoa sen nầy khắp đến 10 phương, tiếp những chúng sanh niệm Phật kia về đến nước Cực Lạc, tức là nghĩa “bay đi”. Còn nhiều nghĩa nữa đây không nói.

SỚ:
Xanh, vàng, đỏ, trắng là nói màu sắc của nó vậy; chẳng những nói màu sắc mà nói hào quang nữa vì hoa sen cõi nầy vẫn có màu sắc, nhưng không hào quang. Chỉ nói bốn sắc là rút văn gọn lại.
SAO:
“Bốn sắc”: giải thấy lời sớ văn trước. Hào quang ấy từ sắc mà chiếu ra, như viên ngọc trong bóng thời hay chói ánh sáng. Hoa sen cõi kia rất là thanh tịnh, cho nên có hào quang sáng chiếu. Kinh Ðại Bổn nói: “Sắc xanh hào quang xanh, sắc trắng hào quang trắng; sắc đen, sắc vàng, sắc đỏ, sắc tía, hào quang kia cũng vậy, rực rỡ ánh ngời, sáng lạn như mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi mỗi cái hoa chiếu ra 36 nghìn ức tia sáng. Trong mỗi mỗi tia sáng, hiện ra 36 trăm nghìn ức đức Phật. Mỗi mỗi đức Phật lại phóng ra trăm nghìn hào quang sáng để khắp vì chúng sanh trong 10 phương mà thuyết pháp vi diệu”. Cứ theo đây thời xanh, trắng, đen, vàng, đỏ, tía đã thành 6 sắc mà Luận Phật địa lại nói bảy báu, cho nên biết bốn sắc là vì bớt văn. Kỳ thật hoa sen đủ vô lượng sắc, đủ vô lượng hào quang vậy. Lại không nói hoa sen thuyết pháp cũng vì bớt văn.

(111) Q2C


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

SỚ:
Vi diệu hương khiết là nói cái đức kia vậy. Nói bốn đức là cũng vì bớt văn.
SAO:
Bốn đức là: Ly cấu là nghĩa chánh của hoa sen. Suy rộng nghĩa kia, lược nói có bốn:

I). Nói chữ “Vi” là cũng có bốn nghĩa; hai nghĩa đồng và hai nghĩa biệt.
1. Rễ nó ngầm dưới đáy ao, không ngó thấy được, ấy là nghĩa u vi.
2. Không sanh nơi gò cao đất cồn, không cùng các thứ hoa sánh nhụy mà tranh phần tốt xinh, ấy là nghĩa ẩn vi.
3. Trong Quán Kinh nói: “Trên mỗi mỗi cành hoa có tám vạn bốn nghìn gân mạch, cũng như thợ trời khéo vẽ”, ấy là nghĩa tế vi.
4. Bảy báu làm thành quí lạ ròng tốt, ấy là nghĩa tinh vi.
Hai nghĩa trước chung với phương này; hai nghĩa sau nước kia riêng có, cho nên hai nghĩa đồng, hai nghĩa biệt.

II). Nói chữ “Diệu” là cũng có 12 nghĩa: Bốn nghĩa đồng, tám nghĩa biệt:
1. Mới có hoa liền có quả, chẳng đợi hoa rụng, ấy là nghĩa “Nhơn Quả đồng thời diệu”;
2. Nhiễm mà không nhiễm, không nhiễm mà nhiễm, ấy là nghĩa “cấu tịnh song phi diệu”;
3. Một hoa khắp vòng ở ngoài hột, các hột sắp hàng ở trong hoa; ấy là nghĩa “tổng biệt tề chương diệu”;
4. Ngày thời nở đủ, đêm thì búp lại, ấy là nghĩa “ẩn hiển tùy nghi diệu”;
5. Hoa lớn ở giữa, có trăm nghìn vạn ức hoa sen, dùng làm quyến thuộc, ấy là nghĩa “chủ bạn tương tham diệu”;
6. Thượng, Trung, Hạ phẩm, mỗi phẩm phân ba thành chín, chín nhân chín, cho đến vô lượng tùy theo nhơn trước của mỗi người tu, không lầm lộn nhau, ấy là nghĩa “thắng liệt phân minh diệu”;
7. Lớn một do tuần cho đến trăm nghìn vạn ức do tuần, ấy là nghĩa “đại tiểu vô định diệu”;
8. Chẳng do mùa xuân sanh, chẳng vì mùa thu héo, luôn luôn thường mới, ấy là nghĩa “hàn thử bất thiên diệu”;
9. Ðỏ, tía, đen, vàng hoặc là thuần trắng, hay tạp sắc, tạp quang, cũng lại như vậy, ấy là nghĩa “thể tố giao huy diệu”;
10. Sanh ở nước kia mà từ hư không bay đến cõi nầy để rước người đáng sanh, ấy là nghĩa “động tịnh nhứt nguyên diệu”;
11. Chư Phật Bồ tát ngồi kiết già trong đó, những chúng sanh niệm Phật cũng gá thai ở trong đó, ấy là nghĩa “phàm thánh kiêm thành diệu”;
12. Người phương này niệm Phật, hoa liền nêu danh (tên người đó trong hoa sen) siêng, biếng, vừa phân, thời tươi khô liền khác, ấy là nghĩa “cảm ứng minh phù diệu”. Bốn nghĩa trước, 8 nghĩa sau, đồng và thua khá biết.

III). Nói chữ “hương” là phương đây (Ta Bà) nước kia (Cực Lạc) sánh nhau thắng và liệt cũng có hai nghĩa:
1. Phương đây thời từ trong bùn mọc ra, tuy là chỗ nhơ nhưng vẫn thơm tho ngào ngạt, ấy là nghĩa “Ở giữa uế mà vẫn thơm”;
2. Nước kia thời như kinh Ðại Bổn nói hào quang màu sắc đã khác thì mùi hương cũng khác, thơm tho bát ngát không thể kể xiết. Cho nên bài kệ: Thanh liên hoa hương, bạch liên hoa hương. Người tụng bài kệ đây, còn được trong miệng bay ra mùi hương hoa sen (31), hơn tất cả các hương khác không sánh kịp, ấy là nghĩa “hương thơm hơn hết giữa các món hương”. Thời biết hương sen ở phương nầy đã hơn các hoa khác, huống nước kia đã hơn mà lại hơn ấy vậy.
IV). Nói chữ Khiết là phương nầy, nước kia, thắng và liệt cũng có hai nghĩa:
1. Phương nầy thời từ trong bùn lầy mọc ra thì đáng lẽ bị lấm nhơ, nhưng mà lại sáng sạch thanh tịnh, ấy là nghĩa “giữa nhơ riêng sạch”.
2. Vì nước kia thời gốc nó từ nơi cát vàng mọc lên, khác với cõi trược nầy. Vì sanh từ nước công đức khác với nước thường, bởi chất do các báu hiệp thành khác với hoa sen ở cõi phàm; cho nên sạch hơn tất cả món sạch, sạch không chi sánh bằng, ấy là nghĩa: “Sạch hơn hết ở giữa các món sạch”.
Hơn mà lại càng hơn lệ theo trên nên biết, nhẫn về trước từ chỗ thiết cận, lược nêu bốn đức. Nếu rộng diễn đó cũng đến vô lượng.
Hỏi: Có người bảo: “Sanh về hạ phẩm hạ sanh là sanh trong hoa sen bằng sắt”, thuyết ấy phải không?
Ðáp: Chưa thấy Phật nói. Như trên đã nói, sắc nó chẳng những bốn mà có hoa sen bằng bảy báu nữa. Thời biết hoa sen vàng là nhiếp trong sắc vàng; hoa sen bằng pha lê, xà cừ, với hoa sen bằng bạc nhiếp trong sắc trắng; hoa sen bằng xích châu, mã não nhiếp trong sắc hồng. Nhẫn đến hoa sen bằng lưu ly cũng nhiếp trong sắc xanh. Suy cho rộng ra thời hoa sen xanh như ngọc xanh của Thiên Ðế cũng nhiếp về trong sắc xanh, như hoa sen bằng chân châu v.v... cũng nhiếp về trong sắc trắng. Lấy đây sánh hiệp, chắc không có hoa sen bằng sắt. Vả chăng sắt cũng thuộc về trong 5 loại kim khí mà là loại kim khí rất hèn, huống sắt đối với bảy món báu ấy không có thứ sắt nầy. Sanh trong 9 phẩm, về phẩm hạ nước kia còn hơn cung trời. Mà cung trời đều dùng 7 báu làm thành, chớ chưa nghe có sắt, huống ở Tây phương nào đâu có thứ đó!!

CHÚ THÍCH
31). "Miệng ra mùi thơm của sen": Truyện chép: “Ông Âu Dương Vĩnh Thúc ra làm quan Tri Châu tại đất Dĩnh. Ở đó có một quan ủy (nghĩa là đĩ nhà quan) vì chỉ có quan lớn nhứt trong châu mới được, bởi nàng có sắc hơn hết, lại miệng và mồ hôi đều phưởng phất tươm ra hơi liên hương. Có nhà Tăng biết túc mạng của nàng: Kiếp trước cũng làm thân phụ nữ, thường tụng kinh Pháp Hoa suốt 30 năm. Giờ rảnh lại thường ngâm luôn mấy câu: “thanh liên hoa hương”... Nhưng ngài Tri Châu cũng chưa chịu tin; nhà Tăng thí nghiệm cho biết rằng cách đọc trước vài câu thì nàng ấy tiếp ứng khẩu đọc luôn trọn bộ bằng cách thuộc lòng; còn đọc kinh khác thì nàng chả biết một chữ nào ráo. Chừng đó quan Tri Châu mới tin chắc rồi hỏi rằng: “Kiếp trước đã tu trì đến bực đó, sao đã chẳng siêu lại đọa như vậy?” Bởi một niệm sai lầm, nên đến nông nỗi!
(113) Q2C
Sửa lần cuối bởi binh vào ngày 25/08/17 16:27 với 1 lần sửa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

SỚ:
Loại hoa sen là chỗ gá thai cho người vãng sanh về nước kia. Vậy người niệm phật, chỉ phải biết đó.
SAO:
“Gá thai” là người chưa chứng quả vô sanh, hễ sanh về đó, ắt có chỗ gá. Chúng sanh trong sáu đường thời thân trung ấm, tự tìm cha mẹ, bực Thiện Sĩ vãng sanh thời trong một khảy móng tay hoa sen hóa sanh. Văn sau nói: “Nhứt tâm bất loạn liền đặng sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Ðà”, tức là sanh trong hoa sen đây vậy. Hoa sen đây chính là cung mầu cởi xác phàm, nhà thần an huệ mạng. Với nước để về đến gọi là nước Liên Bang. Bạn đồng tu gọi là bạn Liên xã. Với phân giờ thiền tụng gọi là đồng hồ Liên Lậu. Ðịnh chỗ tột xu hướng gọi là phái Liên tông, trọng về sự kia vậy. Người tu Tịnh Ðộ, hoặc khi lễ Phật phải tưởng mình ở trong hoa sen làm lễ, Phật cũng ở trong hoa sen chịu mình kỉnh lể. Hoặc khi niệm Phật, phải tưởng mình ở trong hoa sen ngồi kiết già, Phật cũng ở trong hoa sen tiếp dẫn mình; như vậy rồi sau mới nhứt tâm trì danh. Xưa có hai ông thầy chỉ tưởng hoa sen nở ra rồi tưởng hoa sen búp lại mà còn đặng vãng sanh thay, huống lại thêm nhứt tâm trì danh mà chẳng đặng vãng sanh sao?
Hỏi: Kinh đây chẳng gồm sự quán tưởng sắc tượng, vì lẽ gì nay lại nói thế?
Ðáp: Vì có chỗ chuyên chú, gồm cũng không ngại. Vì sao? Kìa như vị Bồ Tát khi tu đủ lục độ, nhưng như riêng lấy bố thí độ làm chỗ chuyên chú. Các độ kia không phải là không tu, miễn tùy sức, tùy phận. Nay pháp niệm Phật cũng thế. Người chuyên chú pháp quán tưởng, ít trì danh; người chuyên chú pháp trì danh thời ít quán tưởng, cũng là nói tùy sức tùy phận vậy. Câu nói: Không gồm sắc tướng ấy, số là, e nhứt tâm chấp trì danh hiệu, lại nhứt tâm quán tưởng sắc tượng, chẳng những tâm không hai tác dụng mà hai sự đồng thời đều làm, khinh trọng chẳng phân, đều không thành tựu đó thôi. Nếu rõ đặng nghĩa chánh và trợ thời nhứt tâm trì danh lấy làm chỗ chánh, ít quán tưởng làm trợ. Trợ cũng qui về nơi chánh như lửa thêm củi, lại có ngại gì?!

SỚ:
Xứng lý thời tự tánh thanh tịnh quang minh là nghĩa hoa sen.
SAO:
“Thanh tịnh” là nêu sắc và tự tánh mảy trần chẳng dính. “Quang minh” là nêu hào quang vì tự tánh có muôn pháp đành rành vậy. Luận Phật Ðịa nói: “Các sắc giả và thật như thế đều chẳng ngoài tâm tịnh của Phật”, tức tâm tịnh ấy hay hiển hiện các sắc giả và thật. Cho nên trong kinh nói: “Sắc xanh hào quang xanh, sắc vàng hào quang vàng v.v... Sắc nào hào quang nấy chẳng hai, tịch đâu chiếu đó đều dung thông vậy”.
Lại tự tánh tịch là nghĩa hoa búp, tự tánh chiếu là nghĩa hoa nở, tự tánh cụ túc tất cả thiện pháp, ấy là nghĩa vi diệu hương khiết. Thế thời chẳng lìa cảnh trần, chưa tắm ao báu mà thường ở trong hoa sen, đi kinh hành và tọa ngọa.
(114) Q2C


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TỔNG KẾT
Xá Lợi Phất: Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

SỚ:
Như văn trước: lan can, lưới giăng, hàng cây, ao, lầu, hoa sen, món món trang nghiêm đều là do đức Phật A Di Ðà, trong nhân Ngài phát đại nguyện và nguyện rồi lại tu đại hạnh, vô lượng công đức mới được thành tựu như vậy? Như lời nguyện hạnh trong kinh Hoa Nghiêm cũng đồng ý đây.
SAO:
Do Ðại Nguyện khởi ra Ðại Hạnh. Nhờ có Ðại Hạnh mới đúng lời Ðại Nguyện. Chỗ tu nhơn của ông Bồ tát đâu chẳng phải thế? Hạnh đủ nguyện xong kêu là “thành tựu”. Trong chỗ tu nhơn là: Khi Phật Di Ðà còn làm ông tỳ kheo tên Pháp Tạng.
Lời Ðại Nguyện là: Ngài phát 48 lời nguyện. Có lời nguyện Ngài nói rằng: “Khi ta thành Phật, những người sanh về cõi ta, đều ở trong ao thất bảo, nước bát công đức ở trong hoa sen hóa sanh”. Lại nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, trong cõi ta, từ dưới đất sắp lên, đến hư không, đều có cung điện lầu các, ao, suối, hoa, cây, đều dùng vô lượng các ngọc báu, trăm nghìn món hương mà hiệp cộng thành”.
Lại nguyện rằng: “Nếu khi Ta thành Phật khắp cùng nước đủ các món trang nghiêm không có chúng sanh (người nào) mà có thể diễn tả cho hết được”. Thế gọi là lời Ðại Nguyện. Nói Ðại Hạnh là: Kinh Ðại Bổn nói: “Ngài Tỳ kheo Pháp Tạng đối chỗ Phật Thế Tự Tại Vương, nhiếp thủ các hạnh thanh tịnh 21 ức cõi Phật, y như hạnh đó mà tu trì”.
Lại nói: Ngài Tỳ kheo Pháp Tạng phát 48 lời nguyện rồi, trụ nơi trí huệ chơn thiệt, dũng mãnh tinh tấn, cả kiếp a tăng kỳ tu hạnh Bồ Tát, giữ thân, miệng và ý, tu hành lục độ, rõ đặng lý không, vô tướng, vô tác, thi hành giáo hóa đến vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ Ðề. Thế gọi là Ðại Hạnh.
Nói “công đức ấy” tức là Ðại Hạnh, Ðại Nguyện, đây gọi là: “Công đức”. Kinh Ðại Bổn nói: “Tích công bồi đức như thế, vô lượng nghìn muôn ức kiếp, công đức trọn đủ mới đặng thành tựu lời Ðại Nguyện ấy mà vào ngôi vị Phật”.
“Lời Ðại Nguyện Ðại Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm” là kinh Hoa Nghiêm phẩm Thế Giới nói: “Cõi Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải đây là do Phật Tỳ Lô Giá Na thuở trước, ở chỗ vi trần số Phật tu vi trần số Ðại Nguyện, mới đặng thành tựu cõi nghiêm tịnh đây vậy”.
Lời văn sau nói: Ðều thành tựu Trí Ðịa và Hạnh của đức Phổ Hiền thời tất cả cõi trang nghiêm, từ đây mà sanh ra.
Lệ như lời Nguyện Hạnh của Ngài Pháp Tạng, cũng in như vậy.

SỚ:
Lại công đức là công đức tánh vô lậu, lại có thắng và liệt, nay đây là công đức thắng.
SAO:
“Công đức vô lậu” là đức Sơ Tổ nói: “Gây làm phước trong đời là cái nhơn hữu lậu (32), chẳng gọi là công đức”. Lại nói: “Công đức ở trong pháp thân” thời đại hạnh, đại nguyện đây đều là công đức vô lậu trong tánh mình, chẳng phải là cái nhơn hữu lậu tiểu quả cõi Nhơn Thiên nói trên vậy.
Thắng liệt là: Hàng Thanh Văn, bực Bồ Tát nhẫn đến bực Phật đều có công đức, nhưng lớn nhỏ khác nhau. Nay là nhơn địa của Phật kia (Di Ðà) tu vô lượng nguyện hạnh mới đặng thành tựu, công cao đức tột không thể nghĩ bàn, cho nên nói Thắng.

SỚ:
Hỏi: Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Trang nghiêm cõi Phật ấy thiệt chẳng phải trang nghiêm, thế mới gọi là trang nghiêm”. Nay kinh nầy rộng bày y chánh; vì sao hai kinh, ý nghĩa trái nhau?
Ðáp: Vì tánh và tướng chẳng riêng, nhưng vì chỗ lập tông có khác.
SAO:
“ Tánh và Tướng chẳng riêng” là: Toàn tánh khởi ra tướng, toàn tướng qui về tánh. Tánh, Tướng vốn chẳng phải hai vật, nhưng chỗ lập tông của mỗi kinh chẳng đồng. Như kinh kia (Kim Cang) lấy lý vô tướng lập Tông, cho nên chỉ nói tướng Ðệ Nhứt Nghĩa, không dùng hình tướng, thiệt thời trong tâm thanh tịnh, thân cõi đều hiện; dụ như lau gương, bụi hết, hình tượng bày ra. Còn những kinh mà chuyên nói về tánh đó, số là tánh tức tướng, chẳng phải bỏ tướng riêng dùng tánh. Nay kinh nầy, do khuyên cầu sanh tịnh độ làm Tông cho nên với cõi Cực Lạc y chánh, mỗi món trang nghiêm tráo trở phân rành, khiến người khởi ham mộ; thực ra thời tướng vốn tự không, chỉ là duy tâm, duy thức mà thôi. Kinh nầy (Di Ðà) rộng bày tướng đó, số là cái tướng tức tánh, chứ chẳng phải lìa tánh ra mà chỉ nói tướng đâu. Vì chỗ lập tông của mỗi kinh có khác, chớ chỗ cứu cánh cũng vẫn đồng; cho nên biết hai kinh, nghĩa chẳng trái nhau.

SỚ:
Hỏi: Cung diện, vườn hoa của chư thiên cũng dùng bảy báu trang nghiêm thì sánh với cõi Phật kia có khác gì?
Ðáp: Vì xấu và tốt có khác nhau.
SAO:
“Xấu và tốt” là: như châu ngọc trong đời, tuy đồng tên là ngọc báu, nhưng mà chất nó có thứ xấu có thứ tốt, giá có khinh, có trọng; cho nên các cõi trời, từ cõi thấp đến cõi cao, y báo, chánh báo trang nghiêm của mỗi cõi từ xấu lần đến tốt, có thắng, có liệt khác xa. Huống gì nước Cực Lạc vượt ngoài ba cõi, đâu chẳng phải với trong bảy báu trang nghiêm, riêng cõi Phật là tốt hơn hết. Trong kinh nói: “Vị Luân Vương, cũng có 32 tướng tốt, nhưng không bằng Phật”, tức là ý đây vậy.

SỚ:
Lại công đức đây, tuy là do nguyện lực đức Phật thành tựu, nhưng cũng gồm nhờ chúng sanh. Do tâm kia tịnh thời cõi mới tịnh.
SAO:
“Gồm nhờ chúng sanh” là: kinh Duy Ma nói: “Trực tâm là tịnh độ của ông Bồ Tát. Bồ Tát khi thành Phật, những chúng sanh không dua vạy mới sanh về trong nước Ngài. Thâm tâm là tịnh độ của ông Bồ Tát. Bồ Tát khi thành Phật những chúng sanh cụ túc công đức mới sanh về trong nước ngài”, nhẫn đến muôn hạnh cũng đều như vậy. Cho nên người ở phương nầy niệm Phật, cõi kia hoa sen thành, thời nước Cực Lạc món món thanh tịnh trang nghiêm. Tuy rằng Phật kia (Di Ðà) khi làm Bồ tát chỗ tu thành tựu, cũng nói được là do chúng sanh siêng tu tịnh nghiệp tạo thành. Cho nên nói: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”.

SỚ:
Xứng lý thời tự tánh hay sanh ra muôn pháp là nghĩa trang nghiêm.
SAO:
Ðức Lục Tổ nói: “Nào dè tự tánh hay sanh ra muôn pháp”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả những cái bảo linh, lưới báu do tâm hiểu "Nhứt Thế Pháp Như Huyễn" sanh ra. Tất cả lầu các bằng bảy báu cũng do thiện căn vô trước, thiện căn vô sanh sanh ra”, nhẫn đến y phục, bảo cái, tràng phan, bửu tòa v.v... đâu chẳng từ nơi ấy sanh ra vậy? Kinh Hoa Nghiêm lại nói: “Trong cõi Hoa Tạng trang nghiêm thế giới Hải đây, hoặc từ sơn hà nhẫn đến cây rừng, bụi bặm, mảy lông các xứ, mỗi mỗi đều là xứng cõi Chơn Như pháp giới đủ đức vô biên”, cho nên phải biết: Tịnh độ tại trong tâm, ngoài tâm không có cảnh.

CHÚ THÍCH
32). "Tu phước đời là nhơn hữu lậu": Lương Vũ Ðế hỏi đức Sơ Tổ rằng: “Quả nhơn dựng chùa, lên cốt Phật, tu đủ việc phước thiện, sẽ được bao công đức?” Sơ Tổ đáp rằng: “Hẳn không công đức”. “Vì sao không công đức?” “Nó chỉ là cái quả phúc nhỏ của trời và phú quới của nhơn gian, vì là cái nhơn hữu lậu như bóng theo hình, dù có nhưng không thật”. “Thế nào là công đức chơn thật?” “Dẹp hết vọng tâm, lòng không chấp trước, thí tài, thí pháp, phước huệ đều tu, người tức là ta, không phân bỉ thử, không nghĩ như trồng cây mong sau ăn trái, tâm cảnh như thế, mới là công đức”. Vũ Ðế hiểu được khen phải và than: “Với việc làm mà tâm được như thế, thật là khó làm. Nhưng nếu không làm, cũng chưa phải là người biết học Phật!”
(116)
Hết Q2C


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

QUYỂN THỨ BA
Quyển 3 A Ðất Cổ Hàng chùa Vân Thê Sa Môn Chu Hoằng thuật lại.

THIÊN NHẠC VŨ HOA (phân ra làm bốn phần)
1. Thiên nhạc (nhạc trời)
2. Kim địa (đất vàng)
3. Vũ hoa (tuôn hoa)
4. Tổng kết (tóm kết)

THIÊN NHẠC
Lại nầy nữa Xá Lợi Phất! Cõi nước của Phật kia thường trỗi nhạc trời.

SỚ:
Văn trước kể ao báu, văn đây nói trên đất bằng vàng, có hoa trời, nhạc trời xen lẫn chói hực. “Nhạc trời” là khác với nhạc đời vậy.
“Thường trỗi” là không hở dứt vậy.
SAO:
“Khác với nhạc đời” là kinh Ðại Bổn nói: Cõi trời thứ nhứt có 4 vua Trời và các vị Thiên nhơn đem trăm ngàn món hương hoa, trăm ngàn tiếng âm nhạc để cúng dường Phật và các vị Bồ Tát, chúng Thinh Văn.
Cõi trời thứ hai, trời Ðế Thích (đức Chúa Trời) và 32 vua trời, với cả các đức Chúa Trời ở Dục giới cho đến trời thứ bảy là cõi trời Phạm (Phạm Thiên), tất cả các trời đều đem hoa thơm, nhạc hay của mỗi cõi lần lựa gấp bội phần, đem dâng cúng Phật và đại chúng.
Lại nói: “Cũng có tự nhiên muôn món kỹ nhạc, không món nào là chẳng phải tiếng nói pháp, thanh tao thảnh thót, rõ hay thanh nhã; tất cả các tiếng tăm khác không thể sánh kịp”.
Quán Kinh nói: “Có vô lượng các vị trời và thần trỗi tiếng nhạc trời. Lại có các món đồ âm nhạc, như treo tòn ten ở trên hư không, tợ hồ các bửu tràng của trời Ðế Thích, không ai khảy mà nó tự kêu”. Vì thế những tiếng nhạc của các vị thiên nhơn đánh kia, không phải trong nhơn gian này có được. Cho nên nói “khác với nhạc đời” vậy.
“Không hở dứt” là: Nhạc đời cần người, có đánh, có nghỉ. Nhạc Trời tự kêu, cho nên nói “thường trỗi” vậy.
Nay người niệm Phật, ngày lâm chung, có nhạc trời rước trên không, chính cõi Tịnh Ðộ mới có nhạc trời thường trỗi vậy (Trời: thiên nhiên, tự nhiên, nghĩa là sẵn sàng).

SỚ:
Xứng lý thời tự tánh có muôn đức dung hòa là nghĩa thiên nhạc.
SAO:
Tự tánh như thật không thời chẳng dính một mảy trần; như thật chẳng không thời lẫn bày muôn đức, điều hòa và xuôi thuận chẳng trái, đằm thắm một mực không sai. Mức nhẫn tấn (nhẫn nhục, tinh tấn) vừa chừng cao thấp như tiếng quyên reo, tiếng trì trỗi. Chỉ Quán đều thành Ðịnh Huệ thời tiếng khánh dứt, tiếng chuông khua. Giọng từ bi thương mà không hại, nhịp hỷ xả, vui mà không đắm (1). Thiên nhạc như thế, chẳng những không khua, lại còn không tiếng. Tiếng Võ lặng, tiếng Cung trầm nhưng vang cả trời, rền cả đất.

KIM ĐỊA
Kim Ðịa Vàng ròng làm đất.

SỚ:
Văn đây noi theo trước để khởi văn sau, nói Cực Lạc thế giới trên thời có nhạc trời, dưới đất có vàng la liệt. Mà ở trên đất vàng ròng ấy, chẳng những tai nghe tiếng nhạc trời, mắt cũng được thấy hoa trời nữa.
“Vàng ròng” là nói trên đất bằng ngọc lưu ly xen thêm thứ vàng ròng. Song cũng nhiều thứ báu, không nhứt định (vì tùy công đức tu niệm Phật đến đâu được đến đó).
SAO:
“Xen thêm vàng ròng” là gì? Như trong Quán kinh nói: “Thấy đất lưu ly trong ngoài ánh suốt. Dưới có trụ kim tràng bằng ngọc kim cang thất bảo, đỡ đội trái đất lưu ly. Hình tràng có tám khía, bằng trăm món báu hiệp thành. Mỗi thứ ngọc báu phóng ra hàng nghìn tia sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có tám vạn bốn nghìn màu sắc, chói hực trên quả đất lưu ly như ức nghìn mặt nhựt. Trên quả đất lưu ly, có các dây bằng vàng ròng, lộn lạo xen nhau. Lại có bảy thứ ngọc báu làm giới hạn chừng ngằn rành rẽ”.
Cứ đây thời quả đất vốn là lưu ly mà vàng ròng lại là món trang nghiêm để cản lót, ngăn ranh trên mặt đất vậy.

Kinh Ðại Bổn nói: “Cõi kia tự nhiên (sẵn có) bảy món báu, thể tánh nó mềm mại ấm áp, xen nhau làm đất. Hoặc chỗ thì thuần một món báu, ánh hòa quang chói vọi, vượt khỏi mười phương, rộng rãi, thênh thang không thể cùng tột. Ðất đều bằng phẳng không có núi Tu Di và các non, biển, hầm, hố, giếng, hang và các chỗ u ám”. Cứ đây, thời cũng có thể nói: Cõi đất kia chỉ toàn là bằng vàng ròng. Bởi vì nước kia rộng lớn, chẳng những một góc vàng ròng hay lưu ly. Ðó là chỉ nói một, hoặc hai món báu đó thôi. Thật ra cả các món báu hợp thành cõi đất, thế thì sẽ còn ngọc báu nhiều đến vô cùng!

SỚ:
Xứng lý thời tự tánh chơn như bình đẳng là nghĩa đất vàng.
SAO:
Chơn Như thời không tạp, không uế, không đổi, không dời, trải muôn kiếp mà thường mới. Bình đẳng thời chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng thấp là chỗ nghìn bậc thánh, chung nơi (đi). Phật Tỳ Xá Như Lai nói: “Trước phải bình cái tâm địa thời thế giới mới bình” (2). Như ông Xá Lợi Phất tâm có cao thấp mới thấy rõ cõi này gò nổng, hầm hố. Cho nên chỗ đi của mỗi người là vàng ròng, đâu đợi đức Như Lai lấy ngón chơn nhấn dưới đất (3).

CHÚ THÍCH
1). "Vui mà không đắm": Sách Luận Ngữ, đức Phu Tử nói: "Thơ Quan Thơ vui mà không đắm, thương mà chẳng hại". Lời chú: Ðắm: vui quá độ mất điều chánh đáng. Hại: vì quá ưu thương mà hại nơi hòa.
2). "Thế giới mới bình": Ðương đời đức Phật Phổ-Quang, ông Trì Ðịa Bồ Tát tu hành: bồi đắp che bằng mặt đất trên đường lộ. Ðến thuở đức Tỳ Xá Như Lai, có nhà vua trong nước rước Phật chứng tiệc chay. Bấy giờ Bồ Tát vẫn đương bình trị địa giới để đợi Phật đi qua. Như Lai đến rờ đầu Bồ Tát và dạy rằng: Phải lo bình lấy tâm địa thì tất nhiên thế giới sẽ bình theo, vì cảnh không ngoài tâm.
3). "Tâm có cao thấp": Kinh Duy Ma chép: Xá lợi Phất nói: Tôi thấy thế giới đây có gò nổng, hầm hố, gai góc, cát sạn, các núi đất đá, nhơ nhớp đầy nhẫy”. Trời Phạm Vương phê bình: “Ðó là tự Nhơn-giả tâm còn cao thấp, không nương nơi Phật huệ; thành thử thấy thế giới nầy bất tịnh thế thôi”. Nhơn đó, Phật dùng ngón chơn bấm xuống đất tức thì đại thiên thế giới hiện thành cõi tịnh bửu nghiêm.
(125) Q3 AB


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

VŨ HOA (phân ra làm ba phần)
1.- Thiên vũ diệu hoa (Trời rải bốn thứ hoa quí)
2.- Trì dĩ cúng Phật (chúng đem hoa cúng Phật)
3.- Cúng dĩ tự thích (cúng rồi tự vui sướng)

THIÊN VŨ DIỆU HOA
Ngày đêm sáu thời trời rải hoa Ðà-La.

Sớ:
Nói trên quả đất vàng ròng đây thường rải hoa tốt đẹp vậy. Cõi kia không núi Tu Di và mặt nhựt, mặt nguyệt mà nói sáu thời là lấy hoa nở chim kêu làm chừng vậy. Hội niệm Phật ở non Lô Sơn dùng cái đồng hồ hình hoa sen là phỏng theo ý kinh này.
SAO:
Cõi này mặt nhựt, mặt nguyệt xoay vòng quanh núi Tu Di mà phân ra ngày đêm. Như vị trí Châu Thiệm Bộ chính ngay phía Nam núi Tu Di, ban ngày, lúc hừng sáng là mặt nhựt đi đã đến phân nửa Ðông Châu; kế nó vòng qua Nam Châu. Lúc cuối ngày là mặt nhựt đi đã đến phân nửa Tây châu. Ban đêm, lúc đầu hôm là mặt nhựt nó đi đã đến phân nửa Tây châu; kế nó vòng qua Bắc châu; lúc cuối đêm là mặt nhựt đi đã đến phân nửa Ðông châu. Mặt nhựt đi giáp một vòng như thế là phối với 12 giờ, 6 giờ ban ngày, 6 giờ ban đêm là một ngày vậy. Nước kia đã không núi Tu Di, lại không mặt nhựt, mặt nguyệt, sáng mãi không tối, ngày đêm không phân biệt, chỉ lấy hoa nở, chim kêu làm ngày; hoa xếp, chim đậu (nghỉ) làm đêm vậy.
Song với mặt nhựt, mặt nguyệt có hay không? Thì các bản dịch nói chẳng đồng, như bản dịch đời nhà Hán nói: “Mặt nhựt mặt nguyệt ở giữa hư-không”. Bản dịch nhà Ngô cũng như nhà Hán. Nhưng ngài Vương Nhựt Hưu lại nói: “Ở giữa hư không mà không vận chuyển”. Bản dịch nhà Tào Ngụy chẳng nói có hay là không. Còn bản dịch nhà Ðường và nhà Tống quyết định rằng không có. Nếu hòa hợp lại để nói thì là mặt nhựt, mặt nguyệt tuy có, nhưng do vì hào quang của Phật và thánh chúng che lấp ánh sáng thì dù có cũng như không vậy.
Song mà xét cho tột lý, không có là phải hơn. Vì sao? Từ cõi trời Ðao Lợi sắp lên, còn không cần ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt, huống chi nước Cực Lạc? Hay là bản dịch đời nhà Hán, trên hai chữ "nhựt nguyệt" thiếu hai chữ "không có" cũng chưa biết được?! Vậy nhờ bậc cao minh giải rõ cho!!

“Ðồng hồ hình hoa sen” là: Tổ Huệ Viễn lập hội nhóm chúng niệm Phật tại non Khuôn Lô, chạm cây làm hình hoa sen đủ 12 cánh, dẫn giọt nước chảy vô ao hồ, chia phiên niệm Phật. Mỗi một giờ là nước ngập một cánh; ngày đêm 6 thời, thiền tụng không trễ. Các bậc hội viên tu niệm Phật được vãng sanh rất nhiều. Người đời nay phân thời tu Tịnh nghiệp là gốc của tổ Huệ Viễn căn cứ nơi kinh này.

SỚ:
“Mạn Ðà La” là tên hoa trên trời, đây dịch là Thích Ý, lại dịch Bạch Hoa. Trời rải hoa là khen ngợi đạo đức như sự tích ông Không Sanh (Tu Bồ Ðề) và trời Ðế Thích.
SAO:
“Bạch hoa” là gì? Hoa trời nhiều thứ, như Mạn Thù Sa là thứ hoa đỏ; nay chỉ nói có một thứ hoa trắng là bớt văn cho gọn. Cũng có thể nói phương Tây thuộc Kim, lấy nghĩa là nghiệp trắng sạch.
“Thích ý” là gì? Hoa trời xinh tốt, làm vui đẹp ý người vậy. Kinh Ðại Bổn nói: “Tất cả chư thiên đều đem trăm nghìn hoa thơm trên cõi trời, đến cúng dường đức Phật kia, các vị Bồ Tát, cùng chúng Thinh Văn”.
“Khâm khen” là gì? Người đời làm lành, các vị trời hoan hỷ, huống chi nước kia đức Như Lai, các vị Bồ Tát và Hiền Thánh toàn là bậc Thượng Thiện cùng nhau nhóm hợp nên trời, thầm khen ngợi rải hoa, lẽ cố nhiên, phải vậy.
“Như ông Không Sanh (Tu Bồ Ðề) và trời Ðế Thích”: ông Không Sanh (Tu Bồ Ðề) yên ngồi, trời Ðế Thích rải hoa. Ông Tu Bồ Ðề hỏi: “Ai ở trên không rải hoa đó?” Ðáp: “Tôi là Thiên Ðế. Do vì tôn giả nói pháp Bát Nhã rất hay!” Xem đây nên biết, những người vãng sanh về Tịnh Ðộ là bực đều đặng nhứt tâm bất loạn thời các vọng niệm chẳng sanh, muôn pháp vắng lặng, tức là khéo nói pháp Bát Nhã, cảm động đến các trời, còn nghi chi nữa?

SỚ:
Lại hoa có hai thứ:
1) Hoa trời,
2) Hoa cây.
Nay chỉ nói hoa trời là vì hoa trời gồm cả hoa cây vậy.
SAO:
“Hoa trời” là từ trên trời rải xuống, nghĩa như văn trước đã giải.
“Hoa cây”: Kinh Ðại Bổn nói: “Bốn phương tự nhiên nổi gió, reo ra năm trăm thứ tiếng thổi các hoa cây. Hoa tiết ra mùi hương lạ theo gió bay khắp bốn phương, bay đến chỗ các vị Bồ tát, Thinh Văn đại chúng. Hoa rơi xuống đất, chứa dày bốn tấc, sáng ngời chói mắt, thơm tho không chi bằng. Ðến lúc hoa hơi héo, tự nhiên gió thổi cuốn đi”. Thế thì cõi kia cũng có rải hoa cây, cho nên nói “hoa trời đã gồm có hoa cây” là thế.

(127) Q3A


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: A DI ĐÀ SỚ SAO

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

SỚ:
Xứng lý thời tự tánh mở tỏ nghĩa là hoa đẹp.
SAO:
Tự tánh còn mê như hoa còn búp; tự tánh thoạt ngộ, như hoa nở xòe. Lại màu sắc rực rỡ, không vẽ mà thành, mùi thơm bát ngát, chẳng đi mà đến. Hoa rải tự nơi không, chẳng trồng mà mọc, chẳng hái mà tự nhiên rơi xuống. Tự tánh thần linh thông đạt cũng lại như thế!
Trì Dĩ Cúng Phật Chúng sanh cõi kia thường mỗi bữa sáng sớm, mỗi người lấy cái y kích, hứng đựng các thứ hoa đem đi cúng dường 10 muôn ức Phật ở phương khác. Ngay trong giờ ăn sớm, về đến nước mình.

SỚ:
Văn đây nói trời rải hoa, chúng sanh lấy đi cúng Phật. “Chúng sanh” là chừa Phật ra, còn thì đều là chúng sanh. “Sáng sớm” là một trong sáu giờ vậy.
“Y kích” là cái đựng hoa. Cúng Phật rồi trở về nước còn trong thời ăn sớm là vì bay đi bằng phép thần túc thông vậy.
SAO:
“Chừa Phật ra” là duy có một mình Phật, riêng xưng là bậc Ðại Giác, còn từ bực Bồ Tát sắp xuống, nhẫn đến kẻ sơ tâm phàm phu vãng sanh về nước kia đều kêu là “chúng sanh”, với Phật tương đối.
“Một trong sáu thời” là sáng sớm là thời trước nhứt trong một ngày. Lấy buổi sáng sớm đi cúng Phật là để tỏ lòng chí kỉnh vậy. Lại lúc sáng là lúc khí đêm còn thảnh mảnh (tươi vui). Sáng sớm cúng Phật là dùng tâm còn trong sạch vậy. Chúng sanh nước kia, tuy ngày đêm nhứt tâm (bất loạn) vốn không thanh trược; nhưng người chưa chứng lên bực Phật còn có chút vô minh, chạm việc gặp duyên, chi cho khỏi xúc động; cũng lấy lúc vừa rạng sáng, gọi là tâm thảnh mảnh. Cũng có thể là tùy thuận phương này mà tạm nói là sáng sớm vậy.
“Thường” là gì? Vì mỗi bữa vẫn thường như vậy, vì không nhàm mỏi.
“Mỗi người” là vì mỗi người đều như thế, vì không ai siêng năng, không ai lười biếng.
“Ðồ đựng hoa”: Ngài Chơn Ðế nói: “Y kích là cái đồ đựng hoa của người ngoại quốc; hoặc nói cái y khâm (giỏ lam), cũng như lấy vạt áo đựng hoa”. Nói “phương khác” là từ nước mình đến phương khác; đây không nói nước mình là bớt văn.
“Mười muôn ức đức Phật”: Mỗi một đức Phật là một cõi Ðại Thiên, 10 muôn ức là nói chỗ rộng xa vậy.
“Thời ăn” là bữa ăn sớm mai; sáng sớm đến bữa ăn buổi mai là thời rất ít. Lấy thời rất ít cúng Phật rất nhiều là nói sự đi rất chóng vậy. Như Kinh Ðại Bổn nói: “Các vị Bồ Tát nương oai thần của Phật chừng trong một bữa ăn khắp đến 10 phương vô lượng thế giới cúng dường các vị Phật. Ðồ hoa hương, kỹ nhạc, y phục bảo cái, tràng phan, vô số đồ cúng. Hoặc muốn dưng hoa thời ở giữa hư không hóa thành cái bửu cái bằng hoa. Khắp 40 dặm nhẫn đến sáu trăm, tám trăm dặm, đều y theo ý muốn lớn nhỏ, đứng dừng giữa hư không. Cái thế nó đều xủ xuống, dùng thành pháp cúng dường. Lại dùng tiếng rất hay để khen ngợi đức Phật, nghe lãnh kinh pháp. Ðã cúng dường xong, thoạt nhiên bay bổng, về đến nước mình còn chưa đến giờ ăn sớm. Cứ đây, thời có đủ thứ những đồ cúng dường, lại hóa tràng hoa thành những tán cái và cúng rồi nghe pháp nữa. Văn đây chỉ nói dùng hoa cúng dường đều là bớt văn vậy.
Thế nào là thần túc? Như kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, người trong cõi của ta đều đặng pháp Thần Túc Thông, trong một phút trải qua trăm nghìn vạn ức số na do tha thế giới”. Lại nguyện rằng: “Liền đặng pháp túc mạng thông”. Lại nguyện rằng thiên nhãn thông. Lại nguyện rằng thiên nhĩ thông. Lại nguyện rằng tha tâm thông. Thế thì biết, người sanh nước kia, sáu phép thần thông tự tại không những bay đi mà thôi; nhưng đây không nói cũng là bớt văn vậy.

SỚ:
Xét pháp thần túc thông đây, các vị Bồ Tát về bực Thập Trụ, Thập Hạnh mới có như trong kinh Hoa Nghiêm nói.
SAO:
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bực Bát Trụ Bồ Tát trong một giây phút dạo đi giáp vô số thế giới”. Lại trong kinh Thập Hạnh, lời tụng nói: “Cõi Phật vô biên không có số đếm, vô lượng chư Phật ở trong đó. Các vị Bồ Tát ở trong đó thân cận cúng dường sanh tâm tôn trọng”. Thế thời với pháp thần túc nay đây hàng Tiểu thừa đâu dễ kịp ư?
Hỏi: Thế thời ba món ý sanh thân sẽ thuộc về bực nào?
Ðáp: Kinh Lăng Già nói ba món chia ra thuộc Thinh Văn, Bồ Tát và bực Ðại Thánh (4). Thời biết người sanh về nước kia, tùy chỗ tu của mình đều có chỗ sở chứng, lệ như trong văn cửu phẩm.

CHÚ THÍCH
4). "Ba thứ ý sanh thân":
1. Chánh thụ ý sanh thân: cái thân nầy sống bằng cái vui pháp tam muội, thân này thuộc về các thánh Thanh Văn.
2. Tánh ý sanh thân: sống bằng cách biết tự tánh của các pháp, thân nầy thuộc về các thánh Bồ Tát.
3. Vô hành tác ý sanh thân: sống bằng cách đều sống với các chủng loại, thân nầy thuộc về của các đức Phật.

(128) Q3AB


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.53 khách