Kính chào quý cô chú CTR, chú BATKHONG1985,
Xin các cô chú cho cháu được góp vài lời thô ý thiển.
1. Tâm hướng về mục đích giải thoát là tâm siêu thế không nằm trong các thiền của hữu sắc và vô sắc giới. Tâm siêu thế là do tu tập các pháp chân đế, trên tâm vương, chứ không phải tâm sở hoặc các giả định mang tính chất tục đế như trong các thiền định và thiền chỉ. Dùng bất kể "
giả định" nào từ các quy ước danh chế định hay nghĩa chế định để diễn tả là điều hoàn toàn không bao giờ nên làm, nếu hành giả chưa trải qua thực chứng các thiền siêu thế, chưa được sự cho phép của các vị thầy thiền sư. Làm như vậy rất là tội nghiệp, không những mình đi lạc còn sẽ dẫn thêm nhiều người khác lạc lối giống mình.
2. Nếu đã nói
"...chúng ta công nhận khái niệm vô thường và vô ngã,"mà còn khẳng định "thì tâm của các thực thể
tất nhiên phải ở trạng thái
vận động liên tục," thì càng lệch lạc hơn. Điều
tất nhiên ở đây có lẻ nên nói là "
sinh diệt" liên tục.
Khi nói
"trạng thái vận động liên tục" sẽ dễ đưa đến sự ngộ nhận là có cái gì đó thường hằng, hoặc tồn tại trong một thời gian lâu. Điều này đối với tâm không đúng. Nếu nói là chuỗi tâm thì còn có thể chấp nhận được. Ở mức độ tương đối, tục đế các quan sát thô thì cho là vận động. Nhưng ở mức độ bản chất chân đế tuyệt đối, mức độ sự thật thì chính là sinh diệt - đó chính là vô thường, tức Uncertainty.
Không bao giờ có một tâm nào được xem là "vận động liên tục" cả, vì bản thân tâm vi tế không tồn tại lâu trong một đơn vị thời gian nào cả. Tâm vi tế sinh ra tức khắc, diệt ngay tức thì, tương tự như sự sinh diệt ở các năng lượng của các hạt cấu thành vật chất, các quarks, ở mức độ ~ 10^20 lần trong 1 giây. Thường thì tâm sau sanh do duyên tâm trước tạo thành một chuỗi tâm. Hoặc bản thân "ta" phản ứng với các tâm ấy, tạo thành một chuỗi dây chuyền. Vì có cùng biểu hiện nên có thể gọi đơn giản là tâm này, tâm kia. Do vậy, cái tâm tham, tâm sân, tâm si dùng trong danh chế định thực ra là một chuỗi tâm vi tế hợp lại, chứ không phải một tâm. Cho dù là chuỗi tâm tham, bao gồm nhiều tâm vi tế hợp lại, cũng không bao giờ có thể tìm được một tâm vi tế nào giống hệt như tâm trước đây cả, tuy ở mức độ danh chế định có thể nói các tâm vi tế ấy có biểu hiện giống nhau, nhưng về bản chất thì không đồng do sinh diệt không đồng.
Điều này cũng giống như có một người khổng lồ lớn như là vũ trụ nhìn trên mặt đất thì thấy loài người với nhau ai cũng giống ai cả. Thực tế về bản chất, không bao giờ có thể tìm được 2 cái gì là hoàn toàn giống nhau, dù là 2 phân tử như nhau hay 2 nguyên tử cũng vẫn không thể giống nhau tuyệt đối vì năng lượng không ngừng thay đổi trong các hạt, và tâm vi tế tuyệt đối cũng vậy. Đây cũng chính là vô ngã ở mức độ sự thật. Thật ra vô ngã cũng bởi do vô thường chi phối, sự không ngừng sinh diệt ở những thời điểm vi tế khác nhau làm cho không có gì mang tính cố hữu hay giống nhau cả.
3. Tất cả những điều đó chính là cốt lõi của thực hành thiền giải thoát trong đạo Phật, do Đức Phật tìm ra và chỉ dạy.
Những điều này, bản thân hành giả sẽ lần lần trải nghiệm trong quá trình thực hành thiền quán. Tuỳ theo mỗi người, hành giả có thể đi thẳng vào quán (gọi là thiền khô hay khô quán hành giả), hoặc cũng có thể nương nhờ phương tiện của các thiền chỉ, thực hành thiền định rồi đi vào quán (thiền ướt hay chỉ quán hành giả). Đến khi thực hành thiền quán ở mỗi một tầng mức thì sẽ càng kinh nghiệm được sự sinh diệt vi tế hơn là những trực nhận ở các tuệ giác trước đó.
Học hiểu ở mức độ nào đó thì rất tốt, để tạo duyên đến với Phật pháp và pháp hành. Tạm đủ duyên rồi thì không nên cứ tiếp tục phí phạm thời gian cho các lý thuyết, không những chưa cần thiết mà còn sẽ trở nên những cản trở vô cùng to lớn khi thực hành đối trị các triền cái. Nó sẽ là chướng ngại giữ chân hành giả mãi luôn dừng ở mức tục đế của ngưỡng cửa cho dù có thiền 10 năm, 20 năm hay cả đời, hoặc cố gắng lắm thì chỉ ở mức các thiền hữu sắc, khó có thể phát triển được các thiền và tâm siêu thế, tâm vô lậu.
Đúng như chú ĐH BATKHONG1985 đã nói, đạo Phật có được là do Đức Phật tìm ra. Các thiền định không phải là thiền của đạo Phật, vì hơn hàng ngàn năm trước Đức Phật không ai có thể giải thoát được nhờ vào các loại thiền định ấy cả.
Cho nên nói về thiền định chúng ta không nên nói đây là đạo Phật, mặc dù Đức Phật có chỉ dạy tứ thiền hữu sắc làm phương tiện, nhưng Ngài luôn nhấn mạnh, con đường giải thoát chân chính chỉ là thực hành Bát Chánh Đạo. Giới Đinh Tuệ của các loại thiền định cũng không phải là Giới Định Tuệ của đạo Phật chân chính - ta không nên gọp lại cho là một.
Vì tuệ của của đạo Phật chân chính chỉ có thể phát triển được là nhờ thực hành các pháp thiền quán. Tuệ của thiền quán giúp phá bỏ vô minh do kinh nghiệm các sanh diệt sanh sắc, và các pháp chân đế. Còn định và "tuệ" của thiền định chỉ là ngăn giữ các triền cái, hoặc mượn đó để phát triển các năng lực thần thông, không cho thấy sự hiểu biết ở mức độ sự thật về sự sanh diệt của các danh sắc, cho nên cũng không thể gọi là "tuệ." Nếu thật sự hiểu và nắm rõ Vi Diệu Pháp, ta cũng nên biết rằng các loại thiền định tu tập trên cơ sở hệ quy chiếu của các loại tâm sở, dù là tâm sở thiện hay các tâm tịnh hảo. Vì vậy định của các loại thiền định càng không bao giờ được xem là Chánh Định vì tu tập trên tâm sở mà phát triển. Cũng như vàng mà còn lẫn một chút tạp chất thì dù là loại tạp chất gì, nhiều ít bao nhiêu vàng đó không thể xem là vàng tinh chất. Tâm sở chính là các tạp chất, còn tâm sở chính là còn vô minh.
Do còn vô minh, tham, bám, các tâm sở cho nên các định ấy không là chánh định mặc dù những loại định này có thể đạt được ở những mức rất sâu hoặc từ những bậc thiền vô sắc giới rất cao, có thể gọi là đại định - Maha Samadhi. Vô minh hay các tâm sở - là điểm khác biệt rất quan trọng giữa định của thiền định và định của thiền quán. Định ở các vị A La Hán không còn sự hiện diện của các tâm sở và các sắc pháp, vì ở các vị ấy vô minh đã tẩy trừ, đoạn diệt. Đây mới là định chân chính, là chánh định - Samma Samadhi - trong Bát Chánh Đạo.
Nếu tuệ chân chính có thể phát triển được do các loại thiền định thì người ta đã không cần đợi đến Đức Phật mới tìm ra con đường giải thoát. Qua những điểm liệt kê trên, chúng ta đã nắm rõ ràng định của các loại thiền định cũng không là định của thiền quán minh sát. Có thể trước Đức Phật hoặc ngày nay đâu đó, người ta vẫn còn gọi định của các thiền định là chánh định. Nhưng nếu hiểu rõ đạo Phật, nắm rõ Bát Chánh Đạo và thực hành thiền quán, ta sẽ biết các định đó cũng không phải là chánh định - vì còn nương vào tưởng của các thủ uẩn. Hay cũng vì lẻ này, mà quý cô chú CTR mới đặt chủ đề này với cụm từ "hàng nhái" chăng?
![tangbong tangbong](./images/smilies/smilies/SmiliesDTK053.gif)
Rồi phát triển bằng một loạt bàn về... "chánh định" để dẫn ý
định của thiền định không phải là chánh định mà chỉ là "hàng nhái"? Nếu đúng như vậy thì xin cô chú hãy tiếp tục trình bày phần hàng thật đúng đắn còn lại, tức nói về định của thiền quán Vipassana, tức chánh định, nên được thực hành như thế nào để hướng đến giác ngộ giải thoát?
Nếu mình nhập định chưa thành công, thì không có thể bàn chuyện Định Giải Thoát Sinh Tử hay bất cứ Định gì khác.
Nếu "nhập định" ở đây là muốn nói tới định của các thiền định hữu sắc và vô sắc thì xin quý cô chú CTR nên xem lại.
- Khô quán hành giả có thể chỉ cần ở mức cận định rồi chuyển qua quán minh sát cũng có thể đắc các đạo tuệ và đạo quả, đạt được giải thoát niết bàn. Tới tầng đạo quả sau cùng, họ vẫn có thể nhập hữu dư NB để thọ trú trong an lạc. Khi hết thọ mạng, thì các vị ấy nhập vô dư. Thiền Sư U Bakhin, thiền sư Goenka, Việt Nam thì có cố HT Hộ Pháp, HT Kim Triệu, sư Phước Nhân,... vô số các vị tăng ni, các vị thầy và nhiều thiền sinh hiện nay là những ví dụ minh chứng cho các thực hành đạt đạo quả mà không nhất thiết phải tu tập đến các mức định của Sơ Thiền, hay các thiền hữu sắc trợ duyên. Ngoài ra, thậm chí còn có vô số thiền sinh Âu Mỹ như những thiền sinh đã từng thọ học với Thiền Sư Dipa Ma (Ngài Kim Triệu cũng là một trong số này), hiện đã là những vị thiền sư đang hướng dẫn cho những thiền viện khắp mọi nơi dưới sự cho phép của các thiền sư Miến Điện. Họ đều là những người thực chứng các tầng đạo tuệ và đạo quả dưới sự xác nhận của các thiền sư.
Hiện nay thiền sư Goenka đã có mở khóa thiền tại TP HCM, với sự phụ giúp hướng dẫn của các vị thiền sư phụ tá (như thầy Thảo và cô Lan), là những hành giả Vipassana miên mật thực chứng các tầng đạo tuệ và đạo quả... Đây là duyên lành, quý hành giả có thể sắp xếp thời gian tham gia các khoá thiền này, tự mình trải nghiệm các cấp độ thực hành. Điều cần chia sẻ thêm là quý vị nên lưu ý hoàn toàn buông xả, không nên mang các tư tưởng "muốn" hay chứng đạt được bất kể cái gì khi đến tham dự khoá thiền, mà nên hướng về mục đích tối hậu là giác ngộ giải thoát. Các vị sẽ kinh nghiệm sự chướng ngại trong một thời gian dài mà không có thêm chút tiến bộ nào cả, nếu không giữ cho mình có một tâm xả hoàn toàn trong lúc thực hành. Những vị đã từng có kinh nghiệm hành thiền chỉ và thiền định, tới ngày thứ 4 sẽ không còn được kinh nghiệm sự dễ chịu như thường gặp ở các loại định. Thay vào sự dễ chịu trong hỷ lạc của thiền định, thường là sự đau nhức đi sâu từng chút một, hoặc khó thở, hoặc tức ngực, chắc đặc cứng ngắc khắp mọi nơi trên cơ thể. Nếu gặp những cảnh "khổ" này,
điều quan trọng là quý vị hãy giữ tâm xả, không nên khởi lên một chút khó chịu nào, sao không còn thấy cảm giác lâng lâng kia nữa, cũng đừng vội chán nản. Tâm càng khó chịu bao nhiêu, càng phản ứng thì các cái đau cái chắc đặc càng trở nên nặng nề hơn, cho thấy rõ "quả" sanh do phản ứng hành nghiệp ngay trong phút giây. Quy luật của thiên nhiên đã bắt đầu có tác động một khi con người muốn đi ngược lại, vượt thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Tâm xả, tâm từ trong chánh niệm sẽ dần dần giúp quý vị vượt qua, đi tiếp. Kính chúc quý vị viên mãn, gặt hái được nhiều lợi lạc.
Trở lại với quý vị CTR, nếu các cô chú có thể bằng trải nghiệm của mình ít nhất diễn tả tuệ thứ nhất - Tuệ Phân Biệt Danh Sắc, và các tuệ sau đó như thế nào, sanh diệt thực sự là gì, vô ngã diễn ra như thế nào,... thì lúc đó mới có thể nói là bắt đầu khởi bước trên con đường của đạo Phật.
Cháu xin được dừng tại đây vì không muốn lạm bàn khởi thêm những thảo luận không cần thiết ảnh hưởng đến sự thực hành của quý vị. Những điều này quý hành giả có vị đã trải nghiệm qua, có vị không trước thì sau rồi cũng kinh nghiệm trực nhận trong lúc thực hành.
Trước khi từ biệt, xin quý vị hoan hỷ từ bi với những lời lẽ thô thiển sơ sài không mấy hoa mỹ cho lắm. Với tâm lành ý thiện, cháu xin kính chúc cho quý vị luôn được an lành, dồi dào sức khoẻ, dành nhiều thời gian hơn để thực hành chánh pháp.
Cháu xin nguyện cho quý vị và khắp chúng sanh giác ngộ giải thoát, thực hành tinh tấn đúng đắn để có thể liễu ngộ được những gì Đức Phật chỉ dạy, gặt hái viên mãn.
Trân trọng và quý kính.
Trong tâm từ
Mắt thấy, thân chạm, thức tri,...
Tham, sân, si, sắc danh gì... khởi sanh.
Giữ tâm chánh niệm an lành,
Bình yên tĩnh lặng, không hành nghiệp căn.