Người đồng tính
Đã gửi: 21/09/13 03:47
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nói đến đề tài người đồng tính trong Phật giáo thì có rất ít bài viết đề cập đến. Tại sao lại như vậy ? Vì đây là một vấn đề khá nhạy cảm và chỉ mới bùng phát dữ dội trên toàn cầu khoản một thập kỷ trở lại đây. Đối với những gì còn mới mẻ và đi ngược lại với cuộc sống luân thường bấy lâu thì đều bị kì thị và khinh rẻ, cho nên, khi nói đến đề tài này, còn nhiều người e ngại trước nó.
Trước một cơn bão đồng tính và ngày càng có nhiều người công khai mình là người đồng tính luyến ái thì xã hội bây giờ cũng không còn lạ mặt với "căn bệnh" đó nữa. Nhưng định kiến của con người về vấn đề giới tính: nam cho ra nam, nữ cho ra nữ, nửa nạc nửa mỡ khó xài lắm. Thì người đồng tính luyến ái vẫn còn hoang mang và thậm chí là sống một đời sống khép kín, che giấu một sự thật cho đến lúc giã từ cõi thế.
Với một cuộc sống ngột ngạt như thế, không ít người đã tự kết liễu đời mình. Một kết cục đau buồn do chính xã hội và sự thiếu hiểu biết của chính họ gây ra. Vậy người đồng tính theo quan niệm của đạo Phật là như thế nào ? Tại sao họ lại bị như vậy ? Và có cách nào giúp họ hòa nhập vào cuộc sống hiện tại được không ? Chính những câu hỏi này, cũng khó mà có thể trả lời cho cặn kẽ được.
Thật ra, trong kinh điển, Đức Phật không có đề cập đến vấn đề giới tính thứ ba. Trong năm giới cho hàng Phật tử tại gia, có giới không tà dâm, giới này được giải thích là chỉ một vợ - người vợ phải là người nữ, một chồng - người chồng phải là người nam, và hai người sau khi kết hôn không được ngoại tình mà phải sống chung thủy. Giới không tà dâm cho hàng Phật tử là như thế. Còn đối với hàng xuất gia, Đức Phật cũng không đề cập đến giới tính thứ ba, Ngài chỉ chế giới đơn giản là cấm người xuất gia không được tà dâm với bất cứ ai, cấm hai người có cùng giới tính nằm chung một giường (trường hợp đặc cách thì cũng không quá ba ngày). Như vậy, trong hầu hết các kinh điển, ta rất khó tìm ra nguồn tài liệu nào Đức Phật có nói đến người đồng tính luyến ái.
Tuy nhiên, trong kinh điển có một câu chuyện có dính dáng đến những người đồng tính mà sau này, chính vì thế mà Đức Phật chế giới cho hàng xuất gia một điều cần tránh. Lúc Phật còn tại thế, vào một đêm, khi Tăng chúng còn đang say giấc thì có một nhóm người lẻn vào Tịnh xá và vào phòng của chư Tăng. Những người này thay nhau sờ soạn thân thể của những vị Tăng, dùng tay xoa chân rồi lên tới bắp vế và lên tới đùi... Chư Tăng phát giác được bèn đuổi những người này đi và phát hiện ra họ là những người nam. Ngày hôm sau, đại diện Tăng chúng quỳ trước Đức Phật và kể lại chuyện tối hôm qua. Đức Phật nghe xong, Ngài nói:
- Những người nam đó là những người đồng tính (danh từ có lẽ được thay đổi để phù hợp với thời đại), chư vị Tỳ khoe hãy nghe đây. Sau đây là giới luật ta chế dành cho các vị, vị Tỳ kheo nào cho phép người đồng tính xuất gia đều sẽ phạm tội Ba La Di, là một tội rất nặng.
Chính ngay thời của Đức Phật cũng đã có người đồng tính luyến ái, nhưng có lẽ do định kiến và thành kiến của xã hội phong kiến xưa nên những người giới tính thứ ba vẫn không bị phát hiện nhiều, có lẽ, họ đã sống một cách âm thầm và che giấu thân phận thật của mình một cách đau đớn. Đó là một phần kinh điển duy nhất được chính Đức Phật nói về người đồng tính, tuy nhiên lại không rõ nguồn.
Đạo Phật là đạo của từ bi và bình đẳng, thiết nghĩ, nếu có đề cập đến vấn đề giới tính thứ ba thì Đức Phật cũng sẽ dùng những lời lẽ và cử chỉ yêu thương để cho họ một lối đi hạnh phúc, nhưng tiếc rằng, không có nguồn nào đề cập đến điều đó, chỉ có là người đồng tính không được xuất gia mà thôi. Cách đây vài năm, Đức Đạt Lai Lạt Ma khi được hỏi về vấn đề hôn nhân đồng tính, Ngài đã giữ vững quan điểm của mình là không chấp thuận hôn nhân đồng tính. Lời tuyên bố của Ngài thật sự đã gây sốc cho một vài người, nhưng sự thật là, Ngài không chấp nhận hôn nhân như thế là theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng.
Quan điểm về kết hôn đồng giới còn gây ra khá nhiều tranh cãi. Điển hình như tại Pháp, Quốc hội đang xem xét về vấn đề cho phép kết hôn đồng giới, tất cả các tôn giáo trên lãnh thổ Pháp đều được mời đến dự phiên họp. Cuối cùng, tất cả Tôn giáo đều bỏ phiếu chống, nhưng riêng Phật giáo thì bỏ phiếu thuận. Và sau đó, ngày 23/4/2013, Pháp trở thành quốc gia thứ 14 trên thế giới cho phép kết hôn đồng giới.
Phật giáo có cái nhìn thông thoáng về vấn đề này, ngay cả những vị lãnh đạo Phật giáo cũng không hề chống phá hay chỉ trích những người đồng tính, mà ngược lại còn yêu thương và giúp đỡ họ. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng có những người đệ tử tại gia là người đồng tính, nhưng họ sống an lạc và hạnh phúc, vì họ được cảm thông và giúp đỡ. Người đồng tính không thể xuất gia nhưng họ có thể đường hoàng là một Phật tử tại gia, và nếu tinh tấn, họ cũng có thể giác ngộ giải thoát. Quan trọng là ở bên trong con người của họ mà thôi.
Thế giới Ta Bà này là một trong những thế giới của cõi Dục. Đã là cõi Dục thì sẽ có nhiều hình thức hoạt động và hưởng thụ tình dục ở đây, trường hợp sản sinh ra những người đồng tính cũng không là ngoại lệ. Vì không có hiểu biết về chính mình và không có thể giác ngộ được nên vấn đề nghiệp lực dẫn đến tái sanh, chúng ta rất mù mờ. Và chung quy, tất cả những quả báo và hành động của chúng ta đều không ra ngoài nhân quả, đồng tính luyến ái cũng như vậy, đó là một loại quả báo do nghiệp gây ra, sâu xa hơn là do nhận thức sai lầm nên gieo những hạt giống không được hoàn thiện.
Vì xã hội này còn có nhiều người kì thị người đồng tính, nhất là những nước có truyền thống phong kiến lâu đời, những nước theo Hồi giáo và những nước đang phát triển thì người đồng tính hầu như không có một khoản không gian riêng. Họ phải sống ẩn dật và che đi thân phận của mình. Thật khó mà thay đổi thành kiến của một con người, chỉ có thể là ta sống làm sao cho họ không thấy ta đụng chạm vào những quan niệm của họ, miễn là ta đừng làm xáo trộn nó.
Chúng ta cần phải hiểu và yêu thương những người đồng tính, là một Phật tử, chúng ta phải đem lòng từ bi và bình đẳng trong đạo Phật chan rải khắp nơi. Không kì thị người đồng tính mà phải hiểu họ, cảm thông cho họ. Có thể những lời nói, cử chỉ của họ làm cho ta khó chịu hay không mấy thiện cảm nhưng đâu phải ai sống cũng muốn mọi người ghét đâu ? Họ vốn biết như thế, nhưng họ muốn là chính họ, mặc dù cái chính họ đó nó mịt mờ và không hợp lẽ.
Điều quan trọng người Phật tử cần giúp những người đồng tính là cùng sách tấn tu hành và chỉ dẫn họ cách tu làm sao diệt được lòng khát ái. Vì ái dục là một mắt xích dẫn đến sinh tử luân hồi, nó gây tổn phước và đưa đến ba ác đạo. Phải thật thận trọng vô cùng, nếu tu hành tinh tấn thì dục vọng cũng sẽ được giảm lại, dù không dứt hẳn nhưng nó cũng sẽ khiến cuộc sống thoải mái và hạnh phúc hơn.
Nếu có thể, người đồng tính nên quay về nương tựa Phật Pháp Tăng và vững lòng tin vào Phật Pháp Tăng. Khi đã quay về nương tựa, người đồng tính cần tìm hiểu Phật giáo qua kinh điển, cần có một kiến thức căn bản và sơ bộ về đạo Phật. Điều quan trọng để tu tập giác ngộ giải thoát trong Phật pháp được Đức Phật nói qua một câu nói quan trọng: "Muốn thấy đạo cần phải dứt lòng dục, ai có lòng dục trong người thì người đó sẽ không thấy được đạo". Người đồng tính bị dục vọng chi phối rất nhiều, yêu thương chân thành có lẽ sẽ đến sau nếu họ được thỏa mãn cơn khát về thể xác.
Người đồng tính cần hiểu được tâm hồn của họ như thế nào, họ cần gì và phải khắc phục ra sao. Tất cả những điều đó sẽ được giải quyết nếu có sự tu tập. Ai cũng có lòng dục, cái khác là người đồng tính thì tính dục của họ lại quá mãnh liệt nên cần phải nổ lực tu tập thật tinh tấn mới có thể vượt khỏi dòng sinh tử luân hồi. Thật sự mà nói, hiểu được cái tâm và nắm bắt được nó thì mọi chuyện không thành vấn đề, vì nó muốn gì, cần gì, chúng ta đều giải quyết cho nó một cách hợp đạo và hướng thượng.
Người đồng tính cũng cần tu tập như thế, chỉ có hai từ dành cho họ là "tinh tấn". Tu pháp môn nào cũng được, nhưng phải tinh tấn, không tinh tấn thì sẽ bị thoái lui rất dễ dàng.
Lâm Nghĩa.
Nói đến đề tài người đồng tính trong Phật giáo thì có rất ít bài viết đề cập đến. Tại sao lại như vậy ? Vì đây là một vấn đề khá nhạy cảm và chỉ mới bùng phát dữ dội trên toàn cầu khoản một thập kỷ trở lại đây. Đối với những gì còn mới mẻ và đi ngược lại với cuộc sống luân thường bấy lâu thì đều bị kì thị và khinh rẻ, cho nên, khi nói đến đề tài này, còn nhiều người e ngại trước nó.
Trước một cơn bão đồng tính và ngày càng có nhiều người công khai mình là người đồng tính luyến ái thì xã hội bây giờ cũng không còn lạ mặt với "căn bệnh" đó nữa. Nhưng định kiến của con người về vấn đề giới tính: nam cho ra nam, nữ cho ra nữ, nửa nạc nửa mỡ khó xài lắm. Thì người đồng tính luyến ái vẫn còn hoang mang và thậm chí là sống một đời sống khép kín, che giấu một sự thật cho đến lúc giã từ cõi thế.
Với một cuộc sống ngột ngạt như thế, không ít người đã tự kết liễu đời mình. Một kết cục đau buồn do chính xã hội và sự thiếu hiểu biết của chính họ gây ra. Vậy người đồng tính theo quan niệm của đạo Phật là như thế nào ? Tại sao họ lại bị như vậy ? Và có cách nào giúp họ hòa nhập vào cuộc sống hiện tại được không ? Chính những câu hỏi này, cũng khó mà có thể trả lời cho cặn kẽ được.
Thật ra, trong kinh điển, Đức Phật không có đề cập đến vấn đề giới tính thứ ba. Trong năm giới cho hàng Phật tử tại gia, có giới không tà dâm, giới này được giải thích là chỉ một vợ - người vợ phải là người nữ, một chồng - người chồng phải là người nam, và hai người sau khi kết hôn không được ngoại tình mà phải sống chung thủy. Giới không tà dâm cho hàng Phật tử là như thế. Còn đối với hàng xuất gia, Đức Phật cũng không đề cập đến giới tính thứ ba, Ngài chỉ chế giới đơn giản là cấm người xuất gia không được tà dâm với bất cứ ai, cấm hai người có cùng giới tính nằm chung một giường (trường hợp đặc cách thì cũng không quá ba ngày). Như vậy, trong hầu hết các kinh điển, ta rất khó tìm ra nguồn tài liệu nào Đức Phật có nói đến người đồng tính luyến ái.
Tuy nhiên, trong kinh điển có một câu chuyện có dính dáng đến những người đồng tính mà sau này, chính vì thế mà Đức Phật chế giới cho hàng xuất gia một điều cần tránh. Lúc Phật còn tại thế, vào một đêm, khi Tăng chúng còn đang say giấc thì có một nhóm người lẻn vào Tịnh xá và vào phòng của chư Tăng. Những người này thay nhau sờ soạn thân thể của những vị Tăng, dùng tay xoa chân rồi lên tới bắp vế và lên tới đùi... Chư Tăng phát giác được bèn đuổi những người này đi và phát hiện ra họ là những người nam. Ngày hôm sau, đại diện Tăng chúng quỳ trước Đức Phật và kể lại chuyện tối hôm qua. Đức Phật nghe xong, Ngài nói:
- Những người nam đó là những người đồng tính (danh từ có lẽ được thay đổi để phù hợp với thời đại), chư vị Tỳ khoe hãy nghe đây. Sau đây là giới luật ta chế dành cho các vị, vị Tỳ kheo nào cho phép người đồng tính xuất gia đều sẽ phạm tội Ba La Di, là một tội rất nặng.
Chính ngay thời của Đức Phật cũng đã có người đồng tính luyến ái, nhưng có lẽ do định kiến và thành kiến của xã hội phong kiến xưa nên những người giới tính thứ ba vẫn không bị phát hiện nhiều, có lẽ, họ đã sống một cách âm thầm và che giấu thân phận thật của mình một cách đau đớn. Đó là một phần kinh điển duy nhất được chính Đức Phật nói về người đồng tính, tuy nhiên lại không rõ nguồn.
Đạo Phật là đạo của từ bi và bình đẳng, thiết nghĩ, nếu có đề cập đến vấn đề giới tính thứ ba thì Đức Phật cũng sẽ dùng những lời lẽ và cử chỉ yêu thương để cho họ một lối đi hạnh phúc, nhưng tiếc rằng, không có nguồn nào đề cập đến điều đó, chỉ có là người đồng tính không được xuất gia mà thôi. Cách đây vài năm, Đức Đạt Lai Lạt Ma khi được hỏi về vấn đề hôn nhân đồng tính, Ngài đã giữ vững quan điểm của mình là không chấp thuận hôn nhân đồng tính. Lời tuyên bố của Ngài thật sự đã gây sốc cho một vài người, nhưng sự thật là, Ngài không chấp nhận hôn nhân như thế là theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng.
Quan điểm về kết hôn đồng giới còn gây ra khá nhiều tranh cãi. Điển hình như tại Pháp, Quốc hội đang xem xét về vấn đề cho phép kết hôn đồng giới, tất cả các tôn giáo trên lãnh thổ Pháp đều được mời đến dự phiên họp. Cuối cùng, tất cả Tôn giáo đều bỏ phiếu chống, nhưng riêng Phật giáo thì bỏ phiếu thuận. Và sau đó, ngày 23/4/2013, Pháp trở thành quốc gia thứ 14 trên thế giới cho phép kết hôn đồng giới.
Phật giáo có cái nhìn thông thoáng về vấn đề này, ngay cả những vị lãnh đạo Phật giáo cũng không hề chống phá hay chỉ trích những người đồng tính, mà ngược lại còn yêu thương và giúp đỡ họ. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng có những người đệ tử tại gia là người đồng tính, nhưng họ sống an lạc và hạnh phúc, vì họ được cảm thông và giúp đỡ. Người đồng tính không thể xuất gia nhưng họ có thể đường hoàng là một Phật tử tại gia, và nếu tinh tấn, họ cũng có thể giác ngộ giải thoát. Quan trọng là ở bên trong con người của họ mà thôi.
Thế giới Ta Bà này là một trong những thế giới của cõi Dục. Đã là cõi Dục thì sẽ có nhiều hình thức hoạt động và hưởng thụ tình dục ở đây, trường hợp sản sinh ra những người đồng tính cũng không là ngoại lệ. Vì không có hiểu biết về chính mình và không có thể giác ngộ được nên vấn đề nghiệp lực dẫn đến tái sanh, chúng ta rất mù mờ. Và chung quy, tất cả những quả báo và hành động của chúng ta đều không ra ngoài nhân quả, đồng tính luyến ái cũng như vậy, đó là một loại quả báo do nghiệp gây ra, sâu xa hơn là do nhận thức sai lầm nên gieo những hạt giống không được hoàn thiện.
Vì xã hội này còn có nhiều người kì thị người đồng tính, nhất là những nước có truyền thống phong kiến lâu đời, những nước theo Hồi giáo và những nước đang phát triển thì người đồng tính hầu như không có một khoản không gian riêng. Họ phải sống ẩn dật và che đi thân phận của mình. Thật khó mà thay đổi thành kiến của một con người, chỉ có thể là ta sống làm sao cho họ không thấy ta đụng chạm vào những quan niệm của họ, miễn là ta đừng làm xáo trộn nó.
Chúng ta cần phải hiểu và yêu thương những người đồng tính, là một Phật tử, chúng ta phải đem lòng từ bi và bình đẳng trong đạo Phật chan rải khắp nơi. Không kì thị người đồng tính mà phải hiểu họ, cảm thông cho họ. Có thể những lời nói, cử chỉ của họ làm cho ta khó chịu hay không mấy thiện cảm nhưng đâu phải ai sống cũng muốn mọi người ghét đâu ? Họ vốn biết như thế, nhưng họ muốn là chính họ, mặc dù cái chính họ đó nó mịt mờ và không hợp lẽ.
Điều quan trọng người Phật tử cần giúp những người đồng tính là cùng sách tấn tu hành và chỉ dẫn họ cách tu làm sao diệt được lòng khát ái. Vì ái dục là một mắt xích dẫn đến sinh tử luân hồi, nó gây tổn phước và đưa đến ba ác đạo. Phải thật thận trọng vô cùng, nếu tu hành tinh tấn thì dục vọng cũng sẽ được giảm lại, dù không dứt hẳn nhưng nó cũng sẽ khiến cuộc sống thoải mái và hạnh phúc hơn.
Nếu có thể, người đồng tính nên quay về nương tựa Phật Pháp Tăng và vững lòng tin vào Phật Pháp Tăng. Khi đã quay về nương tựa, người đồng tính cần tìm hiểu Phật giáo qua kinh điển, cần có một kiến thức căn bản và sơ bộ về đạo Phật. Điều quan trọng để tu tập giác ngộ giải thoát trong Phật pháp được Đức Phật nói qua một câu nói quan trọng: "Muốn thấy đạo cần phải dứt lòng dục, ai có lòng dục trong người thì người đó sẽ không thấy được đạo". Người đồng tính bị dục vọng chi phối rất nhiều, yêu thương chân thành có lẽ sẽ đến sau nếu họ được thỏa mãn cơn khát về thể xác.
Người đồng tính cần hiểu được tâm hồn của họ như thế nào, họ cần gì và phải khắc phục ra sao. Tất cả những điều đó sẽ được giải quyết nếu có sự tu tập. Ai cũng có lòng dục, cái khác là người đồng tính thì tính dục của họ lại quá mãnh liệt nên cần phải nổ lực tu tập thật tinh tấn mới có thể vượt khỏi dòng sinh tử luân hồi. Thật sự mà nói, hiểu được cái tâm và nắm bắt được nó thì mọi chuyện không thành vấn đề, vì nó muốn gì, cần gì, chúng ta đều giải quyết cho nó một cách hợp đạo và hướng thượng.
Người đồng tính cũng cần tu tập như thế, chỉ có hai từ dành cho họ là "tinh tấn". Tu pháp môn nào cũng được, nhưng phải tinh tấn, không tinh tấn thì sẽ bị thoái lui rất dễ dàng.
Lâm Nghĩa.