Thánh_Tri đã viết:Kinh Bát Nhã: "Cố Tri Bát Nhã Ba La Mật Đa thị Đại Thần Chú, thị Đại Minh Chú, thị Vô Thượng Chú, thị Vô Đăng Đẳng Chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thật bất hư".Bát Nhã Ba La Mật là đại thần chúBát Nhã Ba La Mật là đại minh chúBát Nhã Ba La Mật là vô thượng chúBát Nhã Ba La Mật là vô đẳng đẳng chúBát Nhã Ba La Mật Có thể trừ sạch tất cả khổ đau, chân thật không hư dối.Quý vị có muốn mình dứt khổ, muốn giúp cho chúng sanh dứt khổ, thì quý vị phải tu Bát Nhã Ba La Mật thôi.Không có thần chú nào bằng Trí Tuệ Bát Nhã, vì Trí Tuệ Bát Nhã đã là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú.Trí Tuệ Bát Nhã không thuộc ý thức hệ, không thông qua bộ nảo vọng tưởng điên nảo của con người. Do vậy dùng tâm để suy lường lý luận Bát Nhã thì cái đó là Ý Thức Tình Phàm Vọng Tưởng Phân Biệt Chấp Trước của con người, của bộ não, chứ chẳng phải là Trí Tuệ Bát Nhã.Do vậy Đạo Phật không phải là Triết Học dùng bộ óc để suy lường lý luận, vì chẳng thể đưa đến giác ngộ và giải thoát. Càng suy nghĩ, càng lý luận thì càng vọng tưởng điên đảo.Trí Tuệ Bát Nhã Ba La Mật chỉ có thể đạt được toàn diện khi nào chúng ta trở về với Tự Tánh Giác tìm tàng nơi chính chúng ta. Thể Tánh Giác ấy gọi là Thật Tướng Bát Nhã.Cái dụng là chiếu soi, nên gọi là Quán Chiếu Bát Nhã Như tâm gương sáng tự thể nó vắng lặng, mà dụng là chiếu soi. Người ta gọi phần thể là Tịch, phần dụng là Chiếu. Tịch Chiếu tuy hai mà một, tuy một mà hai, bất nhị.Muốn hết vọng tưởng điên đảo phải làm sao?"Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn"Muốn dứt vọng tưởng điên đảo, đạt cứu cánh Niết Bàn thì phải nương vào Trí Tuệ Bát Nhã Ba La Mật.Trở về Tự Tánh Giác (Thật Tướng Bát Nhã) thì sẽ có cái dụng Chiếu Soi (Quán Chiếu Bát Nhã) nên mới "Chiếu Kiến Ngũ Uẩn Giai Không, Độ Nhứt Thiết Khổ Ách".Khi trở về Thật Tướng Bát Nhã, có cái dụng chiếu soi Quán Chiếu Bát Nhã rồi thì quán chiếu kiến vạn pháp đều không, cho nên tâm mới không bị ngăn ngại, không có sợ hãi, xa lìa được mộng tưởng điên đảo, mà đạt được cứu cánh niết bàn, dứt tất cả khổ đau.Cái Quán Chiếu nầy là dụng của Tự Tánh, nên soi rọi các pháp không ngăn ngại, chứ không phải là nương Bộ Não, nương trí óc của con người nghĩ suy ly luận. Trí thông minh nương vào Bộ não ý thức thì trí ấy còn ngăn ngại, còn sợ hãi, còn đau khổ. Chứ Trí Tuệ Quán Chiếu Bát Nhã là sự phản ảnh của Thật Tướng Bát Nhã hay Tánh Giác nên nó chiếu soi các vật không bị ngăn ngại, nên mới thoát khổ, đạt được cứu cánh niết bàn.Hiện Tại Tu Tập Như Thế Nào?Muốn trở về được Tự Tánh Giác (Thực Tướng Bát Nhã) để có cái dụng Chiếu soi (Quán Chiếu Bát Nhã, để chiếu kiến ngũ uẩn giai không, để mà thoát khổ, được niết bàn, thì cũng phải tu tập quán chiếu mà thôi!Tu Tập Quán Chiếu ở đây tức là Thiền Quán.Trong Phật Pháp có nhiều phương pháp để tu, nhưng không ngoài Thiền Quán nầy.Mỗi người có thể tìm hiểu mà tu, nếu nó thật sự hợp với mình.Muốn Giác Ngộ Giải Thoát rốt ráo phải Tu Thiền thôi như đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy
----------------------------------
Để TTT nói thêm vài lời cho dể hiểu
Phật dạy trong Kinh Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn như thế này:
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:
- Này Di Lặc! Ta nay bảo thật cùng ông. Nếu có Bồ Tát:
- Chẳng tu các hạnh
- Chẳng đoạn phiền não
- Chẳng tu tập thiền tụng
- Chẳng cầu đa văn
[Đa Văn ở đây là ngụ ý Phật dạy Trùng Phức Đa văn chứ không phải quảng học đa văn đâu nhé
]
- Ta nói người ấy chẳng phải là xuất gia
Này Di Lặc! Nếu có ai tu siêng tu
trí đoạn hạnh, trí xuất sanh, trí thành tựu, chẳng làm việc đời, chăm lo các việc, ta nói người ấy trụ trong giáo pháp của đức Như Lai
-----------------------------------
1. Trí Đoạn Hạnh: Trí Đoạn, Đoạn là đoạn phiền não, đây là công phu cạn, được tính chung là có thành tựu. Chân trí huệ đoạn được phiền não: “Trí đoạn hạnh”. Trong nhà Thiền, công phu như thế gọi là công phu
“quán chiếu” đắc lực.
Trong pháp môn Niệm Phật, công phu này gọi là “công phu thành phiến”, tức là công phu Niệm Phật của chúng ta bắt đầu đắc lực. Trong những pháp môn khác, đạt đến giai đoạn này chưa thể tính là thành tựu. Vì chưa ra khỏi tam giới. Trong các công phu khác, phải thật sự đoạn phiền não, còn công phu này là “phục đoạn” (dẹp yên), chứ
chưa phải là “đoạn diệt” (dứt sạch). Trong Pháp môn Niệm Phật với công phu này có thể đới nghiệp vãng sanh, quyết định được sanh vào Phàm Thánh Đồng Cư Độ.
2. Trí Xuất Sanh: Trí là trí huệ Bát Nhã, trí huệ đã xuất sanh, đã tỏ lộ ra, đó là
“chiếu trụ”. Phần trên là “quán chiếu”, phần này là “chiếu trụ”. Trong Tịnh tông gọi là Sự Nhất Tâm Bất Loạn, đó là tam-muội hiện tiền.
3. Trí Thành Tựu: là
“chiếu kiến”, tức là công phu ở giai đoạn cao hơn nữa, còn gọi là
Lý Nhất Tâm Bất Loạn.
“Trí xuất sanh” đoạn được
Kiến Tư phiền não, chứ chẳng phải là chế phục. Do đó biết rằng, theo hết thảy các kinh dạy, địa vị của người chứng trí này là A La Hán. “Trí thành tựu” thuộc vào địa vị Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo và Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo.
Đó là ba thứ thành tựu trong tu học sâu cạn khác nhau, nói chung là đều có công phu.