"abeo"]
Dòng tư tưởng Phật giáo
Trong Phật giáo, một người có thể đạt đến giải thoát một cách tiệm tiến qua sự thăng tiến của tâm linh như trong Ấn giáo (xem thêm chữ Tâm). Tuy nhiên, điểm hệ trọng hoàn toàn khác biệt giữa Phật giáo và Ấn giáo đó là Phật giáo phủ nhận Tiểu Ngã (cái tôi của mỗi người) lẫn Đại Ngã. Sự phủ nhận đó được thể hiện trong chính câu nói của Thích Ca nói với các đệ tử nhằm phản bác niềm tin về Ngã và Đại Ngã trong Ấn giáo: "Hỡi các Tỳ Kheo, khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không có, thì quan điểm tư duy này: Vũ trụ là linh hồn, ta sẽ là linh hồn sau khi chết, sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh viễn bất biến, và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian - quan điểm ấy có phải là hoàn toàn điên rồ chăng?" (Trung Bộ Kinh)
Trước hết tác giả nầy nói có điểm rất đúng, nhưng có điểm còn chưa thông bởi tác giả giới hạng Phật Pháp chỉ ở Nam Tông, và đôi khi lầm lẫn cái tư tưởng của Bắc Tông sang Nam Tông. Song, tôi cũng khen tin thần học hỏi của vị tác giả nầy. Theo bài viết thì có lẽ Tác Giả là người Phật Tử nhưng đăng bài ở trang Thiên Chúa giáo.
Học Thuyết Vô Ngã chính là nhắm vào học thuyết Hữu Ngã để phản biện. Bởi thời xưa tới giờ ai cũng tin rằng cái Ngã (thân, linh hồn và tâm) là thật có. Cho nên bây giờ muốn phá kiến chấp thật có thì phải dùng pháp Vô Ngã. Do được Vô Ngã nên giải thoát một it phần, xong chỉ mới phá được Ngã Chấp mà chưa phá được Pháp Chấp. Phá Ngã Chấp là giới hạng ở Phật Giáo Nam Truyền. Tiến lên nữa là phải phá Pháp Chấp. Do vậy Phật Giáo Bắc Truyền hình thành. Khi Ngã và Pháp chấp đều phá sạch thì lúc đó mới giác ngộ giải thoát thật sự, mới được gọi là Phật, Chánh Biến Tri.
Do vậy có thể nói rằng Phật Pháp chỉ là thuyền bè đưa người qua bến giác, nếu chấp vào thuyền bè quá thì dù tới bến giác cũng chưa bước xuống được bờ. Cũng thế, Phật thuyết pháp để phá chấp, chúng ta lại chấp vào cái pháp ấy cho là cứu cánh thì chúng ta bị pháp ấy trối buộc mình. Thế thì cũng chưa thật giải thoát bởi còn pháp chấp. Do vậy Kinh Kim Cang, Phật nói:
"Phật Pháp còn phải buông xuống, huống gì là không phải phật pháp", lại nói
"ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", lại nói
"ai nói Như Lai có đắc có thuyết là phỉ báng Như Lai".
Những lời nói ấy chứng minh rằng Phật dạy chúng ta
"Đừng Trụ Chấp vào bất kỳ cái gì". Nhưng chúng ta lại không hiểu, đem tâm bám chấp vào thì chúng ta bị trối buộc không giải thoát được.
Cốt tủy của Phật Pháp là dạy chúng ta phải buông xuống cái tâm bám chấp của mình đi. Tại sao chúng ta còn bám chấp?
Quan điểm nói trên dẫn đến kết luận: Vạn vật vô ngã, đã vô ngã thì không có tự tánh (không có bản thể). Vì vạn vật đều là vô ngã, không có tự tánh nên vạn vật là KHÔNG. Bản tánh chân thật của vạn vật là KHÔNG. Mọi hiện tượng thấy được và không thấy được (vật lý và tâm lý = sắc tướng và vô sắc tướng) đều liên tục biến đổi cho đến khi chúng trở về trạng thái thật, tức là KHÔNG. Cho nên, chỉ cần thấy được tánh không của vạn vật sẽ ý thức được vạn vật vô ngã và lập tức dứt mọi phiền ưu lao khổ, hội nhập Niết Bàn, tỉ như người vừa choàng tỉnh ra khỏi cơn ác mộng, trở về với đời sống thực tế. (Đây chính là điểm "hốt nhiên giác ngộ" trong Phật giáo mà Ấn giáo không có.) Người chưa giác ngộ cũng ví như người còn ở trong cơn ác mộng, vì tâm cứ bám víu vào những hiện tượng xảy ra trong cơn ác mộng nên giấc ngủ càng say và ác mộng càng nhiều, ác mộng này kết nối và sinh ra ác mộng khác…
Câu "hốt nhiên giác ngộ" là câu nói của Thiền Tông. Tức ám chỉ nghi tình bùng vỡ của người tham thiền, nay đập nát khối nghi, minh tâm kiến tánh (trạng thái không còn bị lệ thuộc bởi thức, vì vậy không thể dùng ý thức suy lường vì nằm ngoài cái hiểu biết của bộ óc, chỉ khi nào chứng thật mới biết, do vậy ngài Duy Ma Cật im lặng ở thành Tỳ Da Ly, bởi không thể dùng lời nói hay ý thức mà được minh tâm kiến tánh, và vì tâm tánh vượt ngoài óc suy lường).
Như đã nói trên, được Nhân Vô Ngã thì giải thoát một phần nào thôi, còn Pháp chấp thì chưa xong. Do vậy Pháp Hoa Kinh dụ cái chỗ ấy chỉ như
"Hóa Thành Giả Tạm" trên con đường giác ngộ giải thoát thành Phật.
Phật Thích Ca dạy rằng có 84,000 pháp môn (con đường tu tập để giác ngộ). Không một kinh sách nào liệt kê hay phân loại 84,000 pháp môn mà Đức Phật khẳng định. Tuy nhiên, có thể tin rằng con số 84,000 chỉ là một con số tượng trưng chỉ về số nhiều đếm không xuể như phương ngôn "hằng hà sa số" (số lượng cát ở sông Hằng=vô lượng pháp môn tu). Khi nói có 84,000 pháp môn tu tập để đạt đến giải thoát, hoặc nói có 84,000 sinh mạng trong một ly nước chỉ là một cách nói biểu tượng. Điều có thể chắc chắn đó là những pháp môn tu tập mà không một pháp môn nào giống pháp môn nào (về điểm này thì Ấn giáo và Phật giáo giống nhau). Pháp môn mà qua đó Đức Thích ca giác ngộ thành Phật là Pháp môn Thiền Định. Nhờ thiền mà Phật Thích Ca giác ngộ được Vô Ngã.
Đúng rồi, 84,000 pháp môn là ý nói có nhiều pháp đưa đến giác ngộ giải thoát chứ không phải giới hạng hay chỉ có 84,000 mà thôi. Tuy trên hình tướng tu tập có khác, nhưng vẫn đưa đến một mục đích là "Phá chấp để giác ngộ giải thoát".
Trong Thiền Tông thì có nhiều câu thoại đầu và công án cho thiền giả tham. Mỗi thoại đầu và công án là một pháp môn tu rồi.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có nêu ra 25 pháp viên thông, cũng phải nhờ Nghi mới Ngộ.
Giá trị Triết học
Thuyết Vô Ngã của triết Phật tự làm cho mình mâu thuẫn với chính mình. Trên cơ sở và phương pháp lý luận, Thuyết Vô Ngã rất dễ bị phản biện, vì Vô Ngã luôn luôn có chung một mẫu số với Hữu Ngã: Nếu không có Ngã thì "cái gì" đau khổ? "cái gì" tạo nghiệp và chuyển nghiệp? "cái gì" suy tư? ”cái gì" đi tu? "cái gì" giác ngộ? "cái gì" nhập Niết Bàn? "cái gì" giảng dạy và viết ra thiên kinh vạn quyển tràn lan? Một câu hỏi khác cũng rất "hóc búa": Nếu con người của Đức Thích Ca là "không thật" thì chân lý Vô Ngã do Ngài tìm ra "có thật" hay không? Bởi vì thuyết Vô Ngã là một sản phẩm tối cao, cuối cùng, và chân thật của trí tuệ mà trí tuệ đó ở trong một chủ thể tên là Thích Ca, nếu Thích Ca vốn là Vô Ngã, tức là không có thật; thì cái trí tuệ "của" Thích Ca cũng không có thật, suy ra chân lý Vô Ngã mà trí tuệ không có thật ấy nhìn thấy cũng chỉ là ảo ảnh. Lý lẽ rõ ràng nầy đã đánh bại thuyết Vô Ngã dễ dàng.
Phải biết, thuyết Vô Ngã chỉ là phương tiện giúp người phá Ngã Chấp. Đừng chấp vào thuyết ấy nếu không lại bị cái chấp trối buộc, bao giờ mới giải thoát. Chính do chấp vào thuyết vô ngã, nên sanh ra mâu thuẫn.
Cho nên khi lên đến Đại Thừa thì phá luôn cả hai pháp Hữu Ngã và Vô Ngã. Bởi hai pháp ấy là tương đối. Muốn chứng pháp môn Bất Nhị như trong Kinh Duy Ma Cật thì phải dẹp cái tâm bám chấp về Hữu Vô, Chánh Tà, Thiện Ác. Phải hoàn toàn thoát khỏi pháp tương đối thì mới giải thoát giác ngộ. Bởi Tâm Tánh vượt ngoài ý thức tương đối suy lường.
Lục Tổ hỏi ngài Huệ Minh rằng:
"Trong lúc ông không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bộ mặt thật của ông xưa nay?" ngài Huệ minh do dứt cái tâm Thiện Ác, Có Không, tất cả pháp tương đối v.v... liền giác ngộ tự tâm.
Nói thuyết vô ngã để phá chấp, nếu ta chấp cho đó là pháp tối cao, thì không những chúng ta không hiểu gì vô ngã mà cũng chẳng được vô ngã. Buông xuống đi!
Những câu hỏi như "Cái gì đau khổ, tạo tác, suy tư giác ngộ v.v..." ở trong Kinh Lăng Nghiêm ngài Anan cũng từng hỏi, Phật bảo
"Cái đó là tâm hư vọng.... nhưng ta không bảo cái đó không phải là tâm của ông nếu rời tiền trần mà cái tâm ấy vẫn còn thì tạm gọi đó là tâm củ ông. Còn nếu rời tiền trần mà các tâm ấy không có thì đó không phải là tâm ông."
Nói tóm lại, đừng chấp vào bất cứ pháp gì. Nếu chấp cho pháp Hữu Ngã là thật thì bị pháp Hữu ngã trói buộc. Nếu chấp pháp Vô Ngã là thật thì bị pháp Vô Ngã trói buộc. Đã bị trói vậy rồi còn nói gì là Vô Ngã hay Hữu Ngã nữa?
Trên một phương diện khác, các bậc trí thức Phật giáo cho rằng thuyết Vô Ngã gặp khó khăn về mặt lý luận bởi vì ngôn ngữ không đủ để chuyên chở những điều vi diệu của tư duy. Người xưa từng nói: "Ý tại ngôn ngoại" nghĩa là cái ý tứ nằm ở ngoài lời nói, lời nói không sao diễn đạt được những điều mà tư duy chứng nghiệm. Nhưng nói thế khác nào bảo rằng tất cả giáo lý Phật giáo đều chưa nói lên được chân lý, ai bám vào nó là sai lầm! Bởi, Đức Thích ca xưng nhận mình là người chỉ đường cho chúng sinh đến với chân lý mà chân lý không được giải bày minh bạch, khúc triết thì làm sao thế nhân có thể lãnh hội được, nhất là thế nhân đã u mê tăm tối từ vô lượng kiếp? Phải chăng đây chính là nguyên cớ khiến cho xưa nay chưa có ai khác ngoài Đức Thích Ca đắc đạo thành Phật?
Chấp vào thuyết Vô Ngã là thật có, là tối cao, cho nên mới bị dính mà thấy mâu thuẩn bởi không hiểu ý PHật. Chính trong Kinh Kim Cang Phật còn nói
"ai cho Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Như Lai". Trong Tâm Kinh lại nói
"Vô tất cả pháp thanh văn duyên giác bồ tát phật".
Nói cho đúng thì chỉ có chư Tổ Thiền Tông mới đích thật là chư Phật. Tại sao? Bởi Phật nghĩa là Giác, Chánh Biến Tri. Chư Tổ Thiền Tông đã giác ngộ triệt để cái tâm tánh của các ngài và sống thật với tâm tánh ấy. Cái biết của các ngài cùng khắp bởi không là cái biết của bộ óc ý thức mà là của chân tâm tự tánh. Sự Giác của các ngài không khác của PHật Thích Ca, bởi tâm tánh là tương đồng.
Sự vi diệu của thuyết Vô Ngã là ở chỗ: ngay cả Niết Bàn cũng Vô Ngã! Tuy nhiên, khi tìm hiểu các khái niệm về Niết Bàn hay Bản Ngã, người ta cũng có thể cho rằng Phật giáo không hề chối từ các chủ thể có thật và vĩnh cửu như: Hư vô, Niết bàn, Tâm, Phật, Chúng sinh, Tứ đại… (Thật ra, khi dùng các danh từ chủ thể, Hư vô, Niết bàn, Tâm, Phật, Chúng sinh, Tứ đại… thì cũng đã chấp ngã rồi!) Trong tư duy của Đức Thích Ca, một chủ thể là một chủ thể, nó có thật, vốn không sanh, không diệt, thường hằng, vĩnh cửu… đối chiếu với sự không có thật, vốn cũng không sanh, không diệt, thường hằng, vĩnh cửu. Một chủ thể như vậy không có bản ngã, không có tên gọi, vượt ngoài nghị luận, chỉ có thể chứng nghiệm qua tư duy, bằng trí tuệ. Cho nên, để trả lời cho các câu hỏi: "Nếu không có Ngã thì "cái gì" đau khổ? "cái gì" suy tư? "cái gì" giác ngộ? "cái gì" nhập Niết Bàn?" một nhà Phật học chân chính chỉ mĩm cười, im lặng; họ gọi là thái độ niêm hoa vi tiếu, bất khả tư nghị.
Giá trị Tôn giáo
Từ khởi thủy, Phật giáo không phải là một tôn giáo theo ý nghĩa đích thực của danh từ tôn giáo, bởi Phật giáo phủ nhận Một Đấng Thần Linh Tuyệt Đối và không hề có các hình thức, nghi lễ thờ phượng, cũng không sùng bái một ai cả. Trong quá trình trôi chảy của dòng triết Phật, hàng trăm, hàng ngàn những dòng chảy của các nguồn triết học, tín ngưỡng (kể cả mê tín dị đoan), và tôn giáo thế tục đã gặp gỡ và hoà nhập vào dòng triết Phật trước khi tách trở ra chảy theo dòng riêng của chúng. Những dòng chảy này đã đem lại nhiều mầu sắc không hề có trong Phật giáo và khi chúng tách trở ra, chảy theo dòng riêng của mình thì chúng đã để lại ảnh hưởng của mình trong triết Phật đồng thời mang theo ảnh hưởng của triết Phật trong chính giáo lý của chúng.
Các môn đồ của Đức Thích Ca và về sau, những người ái mộ Phật pháp, ngày càng tôn giáo hóa triết Phật, đồng thời tùy ý diễn đạt những sự dạy dỗ của Phật Thích Ca, nhiều khi thực hành sai lạc ý nghĩa của Phật pháp, và dung nạp các trào lưu tư tưởng, triết học, tín ngưỡng, tôn giáo khác… mà khiến cho triết Phật biến dạng thành Phật giáo với nhiều tông, nhiều phái như ngày nay.Thuyết Vô Ngã dù là một cột trụ trong giáo lý của Phật giáo nhưng không phải người tín đồ hoặc tu sĩ Phật giáo nào cũng am tường về thuyết này. Hầu hết các tín đồ Phật giáo tôn thờ Phật Thích Ca như là một vị thần linh tuyệt đối có quyền ban ơn, giáng phúc và cứu họ khỏi những khổ đau, bất hạnh trong cuộc đời. Đại chúng Phật tử tin rằng cứ làm lành, lánh dữ, đi chùa, niệm Phật, tụng kinh… để kiếp này đời sống được an nhàn, sung túc hơn và kiếp sau được đầu thai vào một cảnh sống tốt đẹp hơn còn khi nào đắc đạo thành Phật, thoát vòng sinh tử là điều ít có ai nghĩ đến.
Đúng rồi, Phật pháp không phải là tôn giáo.
Đúng rồi, trải qua ngàn năm, phật pháp bị pha trộn nhiều.
Đúng rồi, Phật tử không có mấy ai nghĩ đến sinh tử mà tu hành, chỉ đi chùa, cúng dường, tụng kinh niệm phật, cầu xin cho đời sống tốt đẹp và chết thì tái sanh đời sống tốt hơn thôi. Đáng buồn! Nhưng Phật pháp nói đến Nhân Duyên. Có Nhân Duyên thì mới độ được, không nhân duyên thì không độ được. Bởi thế "Thân người là khó, phật pháp khó được nghe" Nếu dễ có dễ nghe thì ai cũng giác ngộ giải thoát hết rồi.