Chân Đế - Tục Đế

Mời các bạn thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì Phật giáo Nam truyền.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CHÂN ÐẾ VÀ TỤC ÐẾ
Hòa thượng Thondara giảng
Hòa thượng Kim Triệu hiệu đính và chú thích
Tỳ kheo Khánh Hỷ soạn dịch
Này các thầy Tỳ khưu,

Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc (Tâm) chúng sinh, chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm, đạt Thánh Ðạo và chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Tứ Niệm Xứ (bốn nền tảng chánh niệm).

Bốn nền tảng Chánh Niệm đó là gì?

Này các thầy tỳ khưu, ở đây (theo lời dạy này).
  • Thầy tỳ khưu trú trong Thân quán sát Thân, tinh cần, ý thức sáng suốt và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền trong Thân.

    Thầy tỳ khưu trú trong Thọ quán sát Thọ, tinh cần, ý thức sáng suốt và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền trong Thọ.

    Thầy tỳ khưu trú trong Tâm quán sát Tâm, tinh cần, ý thức sáng suốt và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền trong Tâm.

    Thầy tỳ khưu trú trong Pháp quán sát Pháp, tinh cần, ý thức sáng suốt và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền trong trong Pháp.
LỜI NÓI ĐẦU

Năm 1988, chúng tôi được dịp đọc những bài pháp ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hành về Chân Đế và Tục Đế của Hòa thượng THONDARA, một thiền sư có đủ thẩm quyền và năng lực của thiền viện Mahasi Miến Điện, giảng tại Malaysian Buddhists Meditation Center, Pe-Nang, Malaysia. Nhận thấy đây là những bài pháp rất hữu ích, giúp thiền sinh hiểu rõ mục đích và phương pháp hành Thiền Minh Sát nên chúng tôi cố gắng soạn dịch ra tiếng Việt và đọc vào băng nhựa để phổ biến đến các thiền sinh mới hành thiền cũng như đã hành thiền lâu ngày.

Khi hành Thiền Minh Sát nếu thiền sinh biết chút ít về Vi Diệu Pháp, biết thế nào là Chân Đế và Tục Đế thì sẽ đi đúng hướng đi của mình, nghĩa là sẽ hành Thiền Minh Sát đúng, biết cái gì cần phải chú tâm, cái gì không cần chú tâm. Vì đối tượng hay đề mục của Thiền Minh Sát là những gì bị chi phối bởi sự sinh diệt; bởi thế, nếu không biết phân biệt được Chân Đế và Tục Đế sẽ hành Thiền Minh Sát sai lạc vì không biết đề mục nào sinh diệt, đề mục nào không sinh diệt, đề mục nào là đối tượng của Thiền Minh Sát đề mục nào là đối tượng của Thiền Định.

Nhiều thiền sinh nghĩ rằng chỉ cần phát triển tinh tấn, niệm, định và ý thức sáng suốt là đủ mà không biết chọn đề mục minh sát cho mình thì việc hành thiền Minh Sát cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Nếu không biết Chân Đế và Tục Đế thì trong khi hành Thiền Minh Sát thay vì chú tâm vào đề mục sinh diệt (Chân Đế) lại chỉ chú tâm vào đề mục không sinh diệt (Tục Đế) nên dầu có chánh niệm tốt đẹp, đạt được tâm định cao đi nữa thì cũng không thấy được chân tướng của sự vật, đó là không thấy được tam tướng: Vô Thường, khổ và Vô Ngã, do đó không diệt trừ được tham ái, và không thoát khổ.

Do vậy, hiểu biết Chân Đế và Tục Đế là điều quan trọng và thiết yếu trong việc hành Thiền Minh Sát. Chẳng hạn như khi chú tâm vào hơi thở ra vào ở mũi, nếu thiền sinh chỉ đơn thuần chú tâm vào ý niệm ra vào của hơi thở, đạt được định tâm cao, nhất tâm bất loạn, an lạc tĩnh lặng thì đó cũng chỉ là tạm thời đè nén phiền não chứ không đưa đến chỗ nhổ tận gốc rễ phiền não. Vì chỉ chú tâm vào ý niệm ra vào mà không chú tâm vào các yếu tố vật chất biểu hiện qua tứ đại ở cửa mũi nên thay vì hành Thiền Minh Sát, thiền sinh lại hành Thiền Định.

Chú tâm vào ‎ý niệm ra vào của hơi thở là chú tâm vào Tục Đế trong Thiền Định chứ không phải hành Thiền Minh Sát. Khi hành Thiền Minh Sát, nếu chú tâm vào hơi thở thì thiền sinh phải chú tâm vào Chân Đế tức là chú tâm vào cảm giác ở cửa mũi, chú ý đến đặc tính Chân Đế của vật chất: cứng mềm, dính hút, nóng lạnh, và chuyển động nơi hơi thở tiếp xúc vào cửa mũi để thấy được sự sinh diệt của các yếu tố này. Chú tâm vào Chân Đế mới thấy được bản chất thực sự của sự vật. Khi đã thấy bản chất thực sự của sự vật là Vô Thường, bất toại nguyện, trống không, vô vị, vô nghĩa lý, không cốt lõi, không quan trọng, không đáng để nắm giữ, dính mắc vào... thì đâu còn tham ái dính mắc vào sự vật nữa. Không còn tham ái dính mắc thì đâu cần trừ tham ái dính mắc nữa. Đây là cách để trừ nguồn gốc của tham ái, dính mắc, hay diệt tận nguồn gốc của phiền não.

Một thiền sinh ở Miến Điện hành thiền hơn hai mươi năm, nhưng không biết gì về Chân Đế nên mặc dầu hành thiền rất tinh tấn mà chỉ đi lòng vòng không đến đâu. Về sau vào Thiền Viện Mahasi được chỉ dẫn hướng tâm vào đề mục Chân Đế đúng phương pháp nên không bao lâu sau đạt kết quả tốt đẹp.

Từ năm 1988 chúng tôi đã từng chia xẻ các bài pháp về Chân Đế và Tục Đế của Hòa thượng Thondara này với các thiền sinh tại các trung tâm thiền ở Hoa Kỳ, Canada, Úc châu, Mã Lai, Singapore, Thái lan, Việt Nam, nhất là thiền sinh tại Thiền viện Panditārāma và Mahasi ở Miến Điện, và nhận thấy rằng những thiền sinh nào biết chút ít về Chân Đế và Tục Đế sẽ biết hành thiền đúng đắn và tiến bộ hơn.

Kiến thức về Chân Đế và Tục Đế rất quan trọng trong việc hành Thiền Minh Sát. Nhưng nếu thiền sinh phải học cho biết đầy đủ về Chân Đế và Tục Đế hay Vi Diệu Pháp mới hành thiền thì phải cần một thời gian dài. Thật ra, khi hành Thiền Minh Sát, thiền sinh chỉ cần biết một số căn bản về giáo pháp và Vi Diệu Pháp đủ để hành thiền thôi chứ không cần học nhiều. Nên nhớ rằng những kiến thức về Vi Diệu Pháp hỗ trợ cho việc hành Thiền Minh Sát, nhưng điều quan trọng là phải thực hành. Nếu chỉ học Vi Diệu Pháp thôi mà không thực hành Thiền Minh Sát thì cũng không giải thoát, giác ngộ.

Hòa thượng Thondara, qua những bài pháp ngắn gọn sẽ giúp các bạn có đủ kiến thức căn bản về Chân Đế và Tục Đế, và về Vi Diệu Pháp để hành thiền. Muốn hành thiền, ít nhất phải biết những căn bản này.

Đọc những bài pháp của Ngài Thondara, thiền sinh có thể hiểu được thế nào là Chân Đế và Tục Đế, và áp dụng sự hiểu biết Vi Diệu Pháp cơ bản này vào việc hành thiền của mình.

Nhận thấy sự ích lợi của các bài pháp này, chúng tôi cho đăng lên mạng để phổ biến rộng rải hơn nhằm giúp các thiền sinh đang hành Thiền Minh Sát có hướng đi đúng đắn. Một số thiền sinh khi nghe xong các bài pháp này đến gặp chúng tôi và tỏ vẻ vui mừng vì nhờ những bài pháp này họ hiểu rõ hơn về phần lý thuyết và cách hành Thiền Minh Sát.

Sư Tuệ Thắng nói: "Nhận ra Chân Đế là một bước tiến quan trọng đối với người hành thiền. Chính lúc này mới thực sự khởi đầu thiền minh sát và từ đó mới có những bước tiến xa hơn". Sư Cô Sunanda nói: "Con rất thích những bài pháp về Chân Đế và Tục Đế này vì giúp con biết rõ ràng mục đích tối thượng của Thiền Minh Sát là thấy rõ sự sinh diệt của các pháp, để diệt tận tham ái. Và muốn thấy rõ sự sinh diệt của các pháp thì phải quán sát sự thật tuyệt đối hay Chân Đế chứ không quán sát sự thật chế định hay Tục Đế của các pháp". Đạo hữu Hộ Pháp Trần Minh Lợi nói: "Qua suy nghĩ đúng đắn ta thấy rõ phiền não, thấy rõ tai hại của tham, sân, hại để nhẫn nhục, chịu đựng, khoan dung tha thứ, trở thành người hiền lương đạo đức; đây là một bước tiến bộ tâm linh tốt đẹp. Nhưng không nên dừng lại tại đó mà phải tiến xa hơn nữa, quán sát sự vật để phát triển trí tuệ, thấy rõ trên thế gian này chẳng có gì quan trọng, chẳng có gì có giá trị đáng để ta phải tham đắm dính mắc vào. Giác ngộ điều này thì tham ái sẽ không còn và các phiền não khác sẽ bị nhổ tận gốc rễ. Nhưng muốn thấy rõ sự vật không quan trọng, không đáng bám víu vào thì không phải chỉ suy nghĩ là đủ mà phải thấy rõ chân tướng của sự vật, nghĩa là phải nhìn thấu suốt "Chân Đế của sự vật" qua Thiền Minh Sát. Biết rõ Chân Đế và Tục Đế của sự vật là điều quan trọng và thiết yếu trong Thiền Minh Sát". Đạo hữu Diệu Pháp nói: "Nếu con được đọc những bài pháp này sớm hơn thì việc hành thiền của con nay đã tiến bộ rất nhiều, xin Sư in ra để giúp bà con thiền sinh". Đạo hữu Tâm An Đổ văn Học nói: "Những bài pháp về Chân Đế và Tục Đế này đã giúp tôi hiểu rõ cách thực hành, cách hướng tâm vào đề mục minh sát, hiểu rõ mục tiêu hướng đến của Thiền Minh Sát là quán sát vật chất và tâm, không còn phân biệt đề mục tốt xấu, thấy rõ thực chất của các pháp là Vô Thường, khổ, Vô Ngã, trống không, vô vị, vô chủ, nhờ thế mà loại trừ được tâm tham luyến, dính mắc vào chúng". Đạo hữu Trí Tâm nói: "Lúc trước tôi hiểu lầm nên cho rằng mục đích của hành thiền là chỉ đạt đến nhất tâm bất loạn hay theo dõi tâm để thấy rõ tâm tham, sân, thấy rõ sự tai hại của chúng mà ngăn ngừa không cho chúng phát sinh, tạo cho mình thành người biết nhẫn nhục, tạo mình thành người có đạo đức. Nay nhờ hiểu biết được Chân Đế và Tục Đế, tôi hiểu rõ tôi hành Thiền Minh Sát để làm gì, đâu là đề mục tôi phải chú tâm chánh niệm để phát triển trí tuệ thấy rõ chân tướng của sự vật, diệt tận phiền não chứ không phải chỉ tạm thời chế ngự chúng là đủ". Bác Siêng nói: "Từ khi con hiểu rõ Chân Đế và Tục Đế, con lấy đề mục Chân Đế làm đối tượng của Thiền Minh Sát nên việc hành thiền của con trở nên thông thoáng lạ thường, việc trình pháp trở nên rõ ràng, sắc nét. Con có Chân Đế để ngắm nhìn, có khoảng cách giữa Chân Đế và Tục Đế để canh giữ, không còn lo lắng và ngần ngại đi sai đường nữa. Điều này giúp con có nhiều tin tưởng và quyết tâm hơn trong việc hành Thiền Minh Sát".

Vì đây là những bài pháp giảng cho thiền sinh hằng ngày trong khóa thiền nên có nhiều chỗ lặp đi lặp lại, nhưng sự lặp lại này rất cần thiết nên chúng tôi vẫn giữ nguyên.

Bằng những lời dạy rất đơn giản, dễ hiểu, hòa thượng Thondara đã phân tích cho thiền sinh biết thế nào là Chân Đế Tục Đế, và áp dụng những lời dạy này vào việc thực hành. Có nhiều Phật Tử khi nghe đến Chân Đế Tục Đế, nghe đến Vi Diệu Pháp đã thấy ngại ngùng vì nghĩ rằng đây là một môn học khó lãnh hội, đòi hỏi người học phải có nhiều trí tuệ; nhưng sau khi nghe những lời giải thích giản dị, dễ hiểu về Chân Đế và Tục Đế áp dụng vào việc hành thiền họ có cái nhìn mới về Vi Diệu Pháp và có phấn khởi trong việc tìm tòi học hỏi môn học này.

Thật ra, giáo pháp nào của đức Phật thuyết ra cũng đều vi diệu, vì đều đưa đến giải thoát. Nhưng chữ vi diệu trong từ Vi Diệu Pháp ở đây nói đến cách phân tích, thâm cứu tỉ mỉ, chia chẻ của môn Vi Diệu Pháp. Mục đích của Vi Diệu Pháp là để minh chứng cho ta thấy đặc tính Vô Ngã của các pháp qua sự phân tích thâm cứu và tỉ mỉ về các pháp. Tuy nhiên chỉ cần biết chút ít về Vi Diệu Pháp qua các bài giảng ngắn gọn về Chân Đế và Tục Đế này, bạn có đủ kiến thức cần thiết để hành Thiền Minh Sát.

Để các bạn hiểu biết thêm về Giáo Pháp, trong phần phụ lục, chúng tôi thêm vào các bài: Con đường duy nhất, Vấn đáp Thiền Minh Sát, Hướng dẫn hành Thiền, Thử tìm hiểu tôn giáo này.

Mặc dầu đã soạn dịch cuốn Chân Đế và Tục Đế từ lâu, nhưng hơn hai mươi năm sau, chúng tôi mới có thuận duyên để in thành sách khiến một số thiền sinh và Phật Tử không được chia xẻ những bài pháp thực hành quí báu này sớm hơn, xin quí vị hỷ xả cho sự chậm trễ này.

Chúng tôi xin chân thành cám ơn quí vị đã bỏ công sức vào việc hoàn thành bản soạn dịch Chân Đế và Tục Đế này. Xin quí vị hoan hỷ với phước báu cao thượng này. Đầu tiên chúng tôi xin dâng quả phước đế Hòa thượng Thondara, Ngài đã không ngại thân già yếu đuối và bệnh hoạn từ Miến Điện sang Mã lai để hướng dẫn thiền và giảng giải những bài pháp giản dị dễ hiểu và súc tích này. Tiếp đến Hòa Thượng Kim Triệu đã thận trọng hiệu đính và chỉ dẫn những khiếm khuyết. Sư Cô Tịnh An và chú Tiên đã giúp phần đánh máy, Sư Tuệ Thắng, Sư cô Tịnh Như, Tịnh Nguyên, Các đạo hữu Nguyên Khiêm, Thiện Trí, Thanh Đạo, Trần Minh Lợi, Vũ đình Long, Đổ văn Học, Đặng Trần Vinh, Phù Đổng, Bội Khanh, Sỉ Vân, Hạnh Hoa đã sửa chữa những sai sót về chính tả và kỹ thuật, cô Vũ thị Xuân trình bày phần bìa. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn quí chư Phật Tử bốn phương đã khuyến khích, đóng góp tịnh tài để cuốn sách sớm đến tay thiền sinh và Phật Tử.

Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì bận tu học và chia xẻ Giáo Pháp với thiền sinh và Phật Tử nhiều nơi, nên chúng tôi không có đủ thì giờ để sửa chữa thật chu đáo, do đó bản soạn dịch này chắc chắn còn nhiều khuyết điểm. Chúng tôi chân thành xin các bậc trưởng thượng hoan hỉ chỉ điểm cho những chỗ sai lầm và rất hân hoan đón nhận những ý kiến xây dựng của Phật Tử bốn phương để lần tái bản được hoàn hảo hơn.
  • Tỳ kheo Khánh Hỷ
    (Aggasāmi Trần Minh Tài)
(Nguồn: http://www.kyvientudc.org)
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 30/08/12 05:03 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Phần Một

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI PHẬT TỬ HIỂU BIẾT
Người Phật Tử cần biết những điều căn bản như sau:
  1. Phật là ai? Tại sao ta phải nương nhờ và theo gương lành trong sạch của đức Phật?
  2. Pháp là gì? Chân lý hay sự thật là gì? Tại sao phải nương nhờ hay qui y Pháp?
  3. Tăng là gì? Tại sao phải nương nhờ hay qui y Tăng?
  4. Thế nào là Chánh Kiến?
  5. Những điều người Phật Tử không nên làm, và sự tai hại nếu làm những điều đó.
  6. Những điều người Phật Tử nên làm, và sự lợi ích khi làm những điều đó.
  7. Làm thế nào để có một đời sống tại gia an vui hạnh phúc?
  8. Những điều cần biết liên quan đến nghiệp.
  9. Thánh Tu Đà Hoàn.
I. PHẬT (Buddha)
Đức Phật là người đã tự mình giác ngộ bốn sự thật cao quí (Tứ Diệu Đế: khổ, nguyên nhân của sự khổ, sự chấm dứt khổ và phương pháp thực hành để chấm dứt khổ). Và sau khi tự mình giác ngộ các sự thật trên, đức Phật đem những điều mình đã hiểu biết ra dạy dỗ kẻ khác. Rất dễ dàng để nói chữ Phật. Nhưng ít ai biết cách thực hành để trở thành một vị Phật. Muốn trở thành một vị Phật phải thực hành mười pháp Ba La Mật.

Người nào nỗ lực thực hành các pháp Ba La Mật để trở thành một vị Phật được gọi là Bồ Tát. Ba La Mật tiếng Pāḷi là Pāramī có nghĩa là hoàn thiện.

Có mười Ba La Mật hay mười đức tính hoàn hảo mà một vị Bồ Tát cần phải thực hành tròn đủ để trở thành một vị Phật. Đó là:
  1. Bố thí: Cho ra mà không hề lưu giữ lại một chút nào, như lật úp hũ đựng nước, không còn giữ lại một giọt dư sót.
  2. Trì giới: Có phẩm hạnh, giới luật trong sạch, duy trì kỷ cương, làm tròn bổn phận.
  3. Khước từ: Từ bỏ đời sống gia đình, khước từ tham ái, những lạc thú trần gian.
  4. Trí tuệ: Phát triển trí tuệ giải thoát, thấy rõ chân tướng sự vật, đồng thời trong đời sống thường nhật luôn luôn tìm tòi học hỏi những điều cần thiết và hữu ích.
  5. Tinh tấn: Luôn luôn nỗ lực tinh tấn trong việc hành đạo giải thoát, quyết tâm thành đạt mục tiêu, và trong mọi công việc, không chây lười biếng nhác.
  6. Nhẫn nhục: Chịu đựng những phiền não do người khác hay hoàn cảnh bên ngoài gây ra cho mình, luôn luôn thấy cái tốt của người khác.
  7. Chân thật: Chánh trực, thành thật và trong sạch, không giả dối, luôn luôn giữ tròn hạnh nguyện hay lời hứa, nói sao làm vậy, làm sao nói vậy.
  8. Quyết định hay nguyện lực: Lập tâm vững chắc, ý chí kiên cường không hề lay chuyển. Tâm cương quyết cứng chắc vững bền như kim cương. Rất dễ khuyên vị Bồ Tát làm điều thiện, nhưng không thể nào xúi Ngài làm điều ác. Có lúc Ngài mềm mại như một cánh hoa, nhưng có khi cứng chắc như một tảng đá.
  9. Tâm từ: Là tình thương vô hạn, bao la rộng lớn, lòng thành thật mong muốn cho tất cả chúng sinh không phân biệt ta, người, thân, sơ đều được an vui hạnh phúc.
  10. Tâm xả: Thăng bằng, không thiên vị, bình thản, an nhiên tự tại trước mọi tốt xấu, hơn thua, được mất, trước mọi thăng trầm của thế gian. Cố gắng giúp đỡ mọi người, mọi loài; nhưng biết rõ mọi chúng sinh đều có nghiệp riêng của họ nên luôn luôn giúp đỡ chúng sinh, nhưng vẫn an nhiên tự tại nếu chúng sinh không đủ duyên để hưởng những gì mình giúp.
Muốn tròn đủ, vị Bồ Tát phải tích lũy nhiều đời nhiều kiếp, nhiều thời gian chứ không phải chỉ một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời mà phải là bốn A Tăng Kỳ kiếp trái đất và một trăm ngàn kiếp trái đất. Một chu kỳ quả đất kéo dài vô số năm. Bạn có thể tưởng tượng một vị Bồ Tát thực hành Ba La Mật trọn vẹn để trở thành một vị Phật phải lâu đến chừng nào?

(A tăng kỳ là một số đếm gồm số 1 và 140 số 0. Kiếp trái đất là thời gian từ lúc trái đất khởi sinh cho đến khi hoại diệt).

Có ba hạnh Bồ Tát:
  1. Trí Tuệ Bồ Tát (Paññādhika)
  2. Đức Tin Bồ Tát (Saddhādhika)
  3. Tinh Tấn Bồ Tát (Vīriyādhika)
Mỗi hạnh Bồ Tát đều phải thực hành trọn vẹn mười Ba La Mật.

Nếu vị Bồ Tát chọn Trí Tuệ làm trọng thì Ngài là Trí Tuệ Bồ Tát. Vị này phải hoàn thiện Ba La Mật trong một thời gian dài bốn A Tăng Kỳ Kiếp trái đất và 100,000 Kiếp trái đất.

Nếu vị Bồ Tát lấy Đức Tin làm trọng thì Ngài là Đức Tin Bồ Tát. Vị này phải hoàn thiện Ba La Mật trong một thời gian dài tám A Tăng Kỳ Kiếp trái đất và 100,000 Kiếp trái đất.

Nếu vị Bồ Tát lấy Tinh Tấn làm trọng thì Ngài là Tinh Tấn Bồ Tát. Vị này phải hoàn thiện Ba La Mật trong một thời gian dài 16 A Tăng Kỳ Kiếp trái đất và 100,000 Kiếp trái đất.
II. PHÁP (Dhamma)
Pháp tiếng Pāḷi là Dhamma. Dhamma có rất nhiều nghĩa. Mọi hiện tượng trên thế gian, tốt hay xấu đều là Pháp. Nhưng Pháp ở đây là những lời dạy của đức Phật. Người nào thực hành những lời dạy này thì sẽ thoát khỏi bốn ác đạo (Apāya) (cõi không hạnh phúc) và thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Apāya (Ác đạo) có nghĩa là những cảnh giới thấp chịu nhiều đau khổ.

Có mười loại Pháp mà chúng ta cần phải biết. Đó là bốn Đạo, bốn Quả, Niết Bàn và Giáo Pháp (Pariyatti). Đạo (Magga) có nghĩa là Tuệ Đạo, đoạn trừ phiền não, ô nhiễm. Quả (Phāla), có nghĩa là làm cho thanh tịnh các loại phiền não đã được đạo loại trừ. Niết Bàn là đối tượng của Đạo và Quả. Niết Bàn đoạn trừ phiền não vĩnh viễn. Pariyatti là lý thuyết về giáo pháp, chỉ cho ta con đường đến nơi giải thoát: Đạo, Quả và Niết Bàn.
III. TĂNG (Saṅgha)
Tăng là đoàn thể của tám bậc Thánh đã loại trừ một phần hay tất cả phiền não tùy theo thứ bậc. (A La Hán là vị đoạn trừ tất cả phiền não. Các bậc Thánh thấp hơn đã loại trừ từng phần phiền não). Thế nên, theo định nghĩa này bất kỳ một ai, đàn ông, đàn bà, cư sĩ hay nhà sư, một khi đắc quả Thánh đều trở thành thành viên của Thánh Tăng. Thêm vào đó, những nhà sư đang trên đường thực hành với quyết tâm loại trừ phiền não ô nhiễm cũng là những thành viên của Tăng. Phải có đủ bốn vị Tỳ Khưu trở lên mới gọi là Tăng.

Chúng ta gọi Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo hay Ba Ngôi Báu. Người nam nào đã quy y Tam Bảo thì được gọi là Upāsakā (cận sự nam) và người nữ nào đã quy y Tam Bảo thì được gọi là Upāsikā (cận sự nữ). Còn được gọi là Thiện nam hay Tín nữ, hoặc Thiện Tín, hay Phật Tử. Mọi Phật Tử phải có đức tin trong sạch, nhiệt thành và vững chắc. Tin ở đây là tin vào nghiệp và quả của nghiệp. Tiếng Pāḷi gọi đức tin này là "Kammasakata sammādiṭṭhi". Nếu không có đức tin căn bản này, nghĩa là không có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp thì chưa đúng là Phật Tử chân chính.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

IV. CHÁNH KIẾN
(Sammādiṭṭhi: Hiểu Biết Đúng)
Bây giờ tôi sẽ giải thích một cách ngắn gọn nghĩa của chữ Sammādiṭṭhi (Chánh Kiến: hiểu biết đúng). Người Phật Tử được gọi là có chánh kiến khi có những sự hiểu biết hay kiến thức sau đây:

Đây là hành động thiện. Đây là hành động bất thiện. Đây là quả của hành động thiện. Và đây là quả của hành động bất thiện. Hành động thiện đem lại kết quả tốt và hành động bất thiện đem lại kết quả xấu.

Đây là thế giới của loài người, và đây là thế giới của Trời. Cõi Trời, là những nơi mà nghiệp thiện đã được trả quả. Người nào từng làm những việc thiện, sau khi chết sẽ tái sinh vào cõi người hay cõi Trời.

Đây là bốn ác đạo (bốn khổ cảnh, bốn nơi thấp hèn, đau khổ). Người nào đã tạo nghiệp bất thiện, sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn khổ cảnh.

Đây là Bốn Chân Lý Cao Thượng (Tứ Diệu Đế): Khổ, nguyên nhân khổ, sự chấm dứt khổ, và con đường đi đến nơi dứt khổ.

Đó là những điều tin tưởng mà một người Phật Tử cần phải nắm vững. Theo sự tin tưởng này thì có thể nói có Niết Bàn, thoát khỏi phiền não đau khổ, có thế giới của con người, có thế giới của Chư Thiên, có thế giới của Địa Ngục.
  • THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC
Về vấn đề Thiên Đàng và Địa Ngục, có một số thiền sinh thường hỏi: "Thiên Đàng và Địa Ngục có thật không? Có thể chỉ cho chúng tôi thấy trong thực tế không?"

Tôi đã đi dạy giáo pháp và dạy thiền tại nhiều quốc gia. Phần lớn những thiền sinh này hỏi tôi: Có Địa Ngục và Thiên Đàng không? Tôi đã giải thích cho họ bằng năm cách:

1. Trước tiên, tôi đã giải thích cho họ ích lợi và sự bất lợi của những người tin và không tin vào Thiên Đàng và Địa Ngục.

Những người tin có Thiên Đàng và Địa Ngục sẽ không làm những điều xấu và cố gắng làm những điều tốt. Việc này có thể dẫn họ đến Thiên Đàng. Nhờ ở chỗ không làm những điều gì không nên làm và làm những điều gì cần phải làm nên họ hưởng được kết quả tốt ngay trong kiếp sống này. Nếu sau khi chết không có Thiên Đàng và Địa Ngục thì họ không mất mát gì cả. Nhưng nếu có Thiên Đàng và Địa Ngục thì nhờ tránh ác, họ không bị rơi xuống Địa Ngục, và nhờ làm các việc lành nên họ được sinh lên Thiên Đàng. Như vậy, nếu có kiếp sống sau thì chắc chắn họ gặt hái được những kết quả tốt đẹp.

Những người tin rằng không có Thiên Đàng và Địa Ngục thì họ không tránh làm những điều ác, mà những điều ác này có thể dẫn họ đến Địa Ngục, và họ không làm những việc lành mà những việc lành này có thể dẫn họ đến Thiên Đàng.

Bởi vì họ nghĩ không có Địa Ngục nên họ không ngần ngại làm các điều ác có thể dẫn đến Địa Ngục. Và vì nghĩ rằng không có Thiên Đàng nên chắc chắn họ không làm các điều thiện có thể dẫn đến Thiên Đàng. Nếu họ không tránh làm các điều ác thì họ sẽ đau khổ vì hậu quả xấu xa của những hành động ác ngay trong kiếp hiện tại. Nếu họ làm những việc thiện thì họ sẽ hưởng những kết quả tốt đẹp ngay kiếp trong hiện tại.

Nếu sau khi chết mà chẳng có Thiên Đàng hay Địa Ngục thì dĩ nhiên chẳng có gì phải nói đến. Nhưng nếu có Thiên Đàng và Địa Ngục, thì bởi vì họ chẳng làm điều phước thiện nào nên chắc chắn họ sẽ không sinh lên Thiên Đàng.

Như vậy, tôi đã giải thích cho họ sự khác biệt rất lớn giữa những người tin có Thiên Đàng, Địa Ngục và người không tin có Thiên Đàng, Địa Ngục. Nếu những điều tôi giải thích trên không làm hài lòng họ, tôi sẽ nói cách thứ hai.

2. Ngay trong đời sống này cũng có những nơi gọi là trại giam hay tù ngục dành cho những người làm việc bất thiện. Những nơi đó họ không nhốt những người có hành vi tốt và làm việc thiện lành. Bởi thế, cũng có những nơi đặc biệt dành cho những người có hành động xấu và có nơi dành cho những người làm các hành vi tốt đẹp.

Như vậy, phải có Địa Ngục cho những người làm việc bất thiện và phải có Thiên Đàng cho người làm việc thiện. Từ cuộc sống này chúng ta có thể suy ra những kiếp sống kế tiếp.

Nếu họ vẫn chưa thỏa mãn, tôi sẽ nói đến cách thứ ba.

3. Tôi sẽ hỏi họ những nơi họ chưa hề đến. Chẳng hạn, tôi sẽ hỏi: "Bạn đã từng ở Mông Cổ chưa?" Phần lớn đều trả lời họ chưa đến Mông Cổ. Tôi lại hỏi tiếp: "Theo bạn nghĩ, có xứ Mông Cổ không?" Tất cả đều trả lời có. Tôi bèn nói: "Mặc dầu bạn chưa bao giờ đến Mông Cổ, chưa bao giờ thấy tận mắt xứ Mông Cổ, nhưng xứ Mông Cổ vẫn có ngay chính trong thế giới này. Do đó, nếu nói rằng bởi vì tôi chưa thấy Thiên Đàng và Địa Ngục bằng chính mắt tôi cho nên không có Thiên Đàng và Địa Ngục. Như vậy nghe có hợp lý không?"

Nếu họ vẫn không thỏa mãn thì tôi sẽ nói cách thì tư.

4. Tôi hỏi: "Bạn có cha mẹ không? Và cha mẹ của bạn có cha mẹ không?" Tôi hỏi họ liên tiếp bốn, năm thế hệ trước đó, họ đều trả lời "Có". Tôi bèn hỏi tiếp: "Bạn có thấy cha mẹ của ông cố bạn không?" Họ trả lời: "Không". Tôi hỏi họ: "Nếu bạn chưa bao giờ thấy cha mẹ của ông cố hay ông sơ của bạn; như vậy phải chăng ông cố, ông sơ của bạn không có cha mẹ". Họ trả lời rằng: "Mặc dầu họ chưa bao giờ thấy cha mẹ của ông cố, ông sơ, nhưng họ tin rằng có cha mẹ của ông cố, ông sơ. Và những điều này đã được những người từng thấy cha mẹ của ông cố, ông sơ nói lại cho họ nghe một cách chắc chắn".

Tôi bèn nói với họ: "Bạn tin rằng cha mẹ của ông cố, ông sơ của bạn có mặt, bởi vì bạn nghe những người khác đã từng thấy cha mẹ ông cố, ông sơ của bạn nói lại. Cũng vậy, mặc dầu chúng ta chưa từng thấy Thiên Đàng, Địa Ngục bằng chính mắt của chúng ta; nhưng những người đã thấy Thiên Đàng, Địa Ngục đã ghi lại trong kinh điển cho chúng ta. Chính vì vậy chúng ta nói có Thiên Đàng, Địa Ngục".

Tuy vậy, những điều này chưa khiến cho những bạn trẻ trong thời đại thỏa mãn. Tôi bèn nói cách thứ năm.

5. Các nhà khoa học nói rằng có những bệnh như kiết lỵ và bệnh cúm do những vi khuẩn gây ra. Các nhà khoa học nói rằng có vi trùng hay vi khuẩn. Mặc dầu các nhà khoa học không thể thấy vi trùng, vi khuẩn bằng chính mắt trần của họ, nhưng họ có thể thấy vi trùng, vi khuẩn qua kính hiển vi.

Nếu một người nào đó chưa thấy được vi trùng, vi khuẩn bởi vì họ chưa từng nhìn vi trùng, vi khuẩn qua kính hiển vi nên họ nói rằng chẳng có vi trùng, vi khuẩn. Nói như vậy nghe có được không? Bởi vì nếu người này được nhìn vào kính hiển vi mà các nhà khoa học dùng để thấy vi trùng, vi khuẩn thì họ cũng sẽ thấy vi trùng, vi khuẩn.

Cũng vậy, sự hiện hữu của Thiên Đàng, Địa Ngục đã được đức Phật và các vị A La Hán chỉ cho chúng ta thấy. Đức Phật và các bậc A La Hán đã nhìn thấy Thiên Đàng, Địa Ngục qua Trí Tuệ cao siêu hay qua cặp mắt Thánh của các Ngài.

Đức Phật và các bậc A La Hán không thể thấy Thiên Đàng, Địa Ngục bằng mắt trần. Cũng vậy, bạn không thể thấy Thiên Đàng, Địa Ngục bởi vì bạn không có Trí Tuệ cao hơn. Bạn không có cặp mắt Thánh nên bạn không thể thấy Thiên Đàng, Địa Ngục. Như vậy, bạn không tin vào những lời dạy của đức Phật và các vị A La Hán chính là vì các bạn không có cặp mắt Thánh.

Nếu bạn không tin vào đức Phật và chư vị A La Hán nói về Thiên Đàng, Địa Ngục bởi vì chính mắt bạn chưa thấy Thiên Đàng, Địa Ngục thì chẳng khác nào bạn không tin các nhà khoa học nói về vi trùng, vi khuẩn bởi vì chính mắt bạn chưa thấy vi trùng, vi khuẩn.

Khi tôi đã giải thích như thế thì phần lớn đều thỏa mãn. Nhưng có một số thiền sinh lại bước thêm một bước nữa và nói rằng: "Thiên Đàng, Địa Ngục chỉ có thể thấy bằng thánh nhãn. Như vậy, Ngài có được thánh nhãn nào chưa, bởi vì Ngài nói có Thiên Đàng, Địa Ngục".

Tôi trả lời rằng: "Đối với người tin tưởng hoàn toàn vào lời nói của các nhà khoa học vì họ biết rằng các nhà khoa học là những người đã từng nhìn thấy vi trùng, vi khuẩn qua kính hiển vi, thì họ chẳng cần tự mình nhìn thấy vi trùng, vi khuẩn, bởi vì họ đã hoàn toàn tin tưởng vào các nhà khoa học. Do đã kiểm chứng những gì các nhà khoa học đã nói trước đây, nên dầu họ có nhìn hay không nhìn vào kính hiển vi cũng chẳng ảnh hưởng gì đến lòng tin của họ.

Cũng vậy, do đã kiểm chứng qua kinh nghiệm của chính mình những gì đức Phật và chư vị A La Hán đã dạy trước đây, tôi có đức tin tuyệt đối vào lời dạy của đức Phật và chư vị A La Hán là những vị đã thấy Thiên Đàng và Địa Ngục qua tuệ nhãn cao siêu của các Ngài thì tôi chẳng cần đắc được tuệ nhãn; bởi vì có thấy được Thiên Đàng, Địa Ngục hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đức tin của tôi.

Có lẽ có người trong số các vị ở đây muốn đặt câu hỏi về Thiên Đàng, Địa Ngục. Bởi thế vì lợi ích của các vị này nên tôi nói về Thiên Đàng, Địa Ngục để các bạn tự mình suy tư lấy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

V. NHỮNG ĐIỀU NGƯỜI PHẬT TỬ KHÔNG NÊN LÀM
VÀ SỰ TAI HẠI NẾU LÀM NHỮNG ĐIỀU ĐÓ
Có mười điều được gọi là Thập Bất Thiện Nghiệp (còn gọi là Thập Ác Nghiệp) mà người Phật Tử không nên làm. Đó là:
  1. Sát sinh.
  2. Lấy của không cho (trộm cắp).
  3. Tà hạnh: (bao gồm tà dâm, cờ bạc hay tạo các nghiệp bất thiện).
  4. Nói dối.
  5. Nói hai lưỡi, nói lời chia rẽ.
  6. Nói cộc cằn thô lỗ.
  7. Nói lời vô ích.
  8. Tham.
  9. Sân.
  10. Tà kiến.
1. Sát sinh: Người Sát sinh, sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn khổ cảnh (Ác đạo). Nếu sinh làm người họ sẽ chết yểu. Họ sẽ chịu nhiều bệnh tật. Gọi là phạm tội Sát sinh khi có đủ năm yếu tố:
  • (1) Có một chúng sinh.
    (2) Biết rằng chúng sinh đó còn sống.
    (3) Cố ý giết.
    (4) Giết hay xúi kẻ khác giết.
    (5) Kết quả là chúng sinh ấy chết.
Nếu có đủ năm yếu tố này thì sự sát sinh mới đủ sức mạnh đọa xuống bốn đường ác. Nếu không đủ năm yếu tố ấy thì chưa phạm tội sát sinh.

2. Trộm cắp: Đó là lấy của không cho. Người trộm cắp, sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn cảnh khổ. Nếu tái sinh làm người họ sẽ nghèo nàn, đói khổ. Có năm yếu tố để tạo thành tội trộm cắp:
  • (1) Vật thuộc quyền sở hữu của kẻ khác.
    (2) Biết vật thuộc quyền sở hữu của kẻ khác.
    (3) Muốn trộm cắp.
    (4) Trộm cắp hay xúi kẻ khác trộm cắp.
    (5) Đã trộm cắp được.
3. Tà hạnh:
  • (1) Tà dâm: Người nào liên hệ xác thịt với người không phải là vợ hay chồng mình, sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn cảnh khổ. Nếu không tái sinh vào bốn cảnh khổ mà tái sinh làm người thì sẽ thành người có cơ thể bất toàn. Có bốn yếu tố tạo thành tội tà dâm:
    1. Người không phải vợ hay chồng của mình.
    2. Ham muốn hành dâm với người đó.
    3. Cố gắng hành dâm với người đó.
    4. Đã hành dâm và thích thú trong việc đó.
    Nếu có đầy đủ bốn yếu tố đó, người này sẽ tái sinh vào bốn khổ cảnh. Nếu chưa đủ bốn yếu tố nêu trên thì chưa phạm tội tà dâm.

    (2) Uống rượu, cờ bạc: Trong thập ác nghiệp, chúng ta đặt sự uống rượu, cờ bạc, và giới tà dâm vào phần tà hạnh (Kammesu micchā cārā: những hành vi sai lầm). Nhưng trong ngũ giới thì cờ bạc nằm trong giới tà hạnh, và uống rượu nằm trong một giới riêng (giới thứ năm).

    Người uống rượu nhiều, sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn khổ cảnh. Nếu không rơi vào bốn khổ cảnh, sẽ tái sinh làm người điên khùng, mất trí.

    Người cờ bạc sẽ bị tán gia bại sản, không ai tin tưởng, tâm mờ ám. Ham mê cờ bạc dẫn đến không từ nan làm việc thất đức, mất phẩm hạnh.

    Nếu hội đủ bốn yếu tố sau đây thì phạm giới uống rượu:
    1. Chất say.
    2. Muốn uống.
    3. Cố gắng uống.
    4. Đã uống.
4. Nói dối: Người thích nói dối để làm hại người khác, làm người khác mất lợi lộc, sau khi chết sẽ rơi vào bốn cảnh khổ. Nếu không rơi vào bốn cảnh khổ sẽ tái sinh làm người và bị người khác lường gạt.

Có bốn yếu tố tạo thành tội nói dối:
  • (1) Lời nói không thật.
    (2) Cố ý lừa dối.
    (3) Cố gắng nói dối.
    (4) Người nghe tin vào lời nói của mình.
5. Nói hai lưỡi: Người nói hai lưỡi hay nói lời đâm thọc làm chia rẽ người khác, sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn cảnh khổ. Nếu không rơi vào bốn cảnh khổ, sẽ bị xa cách người thân yêu, xa cách bạn bè.

Có bốn yếu tố tạo thành tội nói hai lưỡi:
  • (1) Có người bị ta nói lời chia rẽ.
    (2) Cố ý nói để gây chia rẽ.
    (3) Cố gắng nói lời chia rẽ.
    (4) Có người bị chia rẽ.
6. Nói cộc cằn, thô lỗ (Ác ngữ): Người nói lời cộc cằn, thô lỗ sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn cảnh khổ. Nếu không rơi vào bốn cảnh khổ, sẽ tái sinh làm người bị ngọng, cà lăm hoặc có giọng nói khó nghe khiến người nghe không ưa thích.

Có bốn yếu tố tạo thành tội nói lời thô lỗ, cộc cằn:
  • (1) Có người bị nói lời thô lỗ.
    (2) Tâm sân hận.
    (3) Cố ý nói lời thô lỗ.
    (4) Chính mình nói lời thô lỗ.
Cha mẹ hay thầy giáo nói lời thô lỗ với con cái hay học trò thì chỉ là những lời nói mạnh cốt ý làm cho con cái hoặc học trò đạt những kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên cũng cần tránh những lời nói này.

7. Nói lời vô ích: Người nói lời vô ích sau khi chết sẽ tái sinh vào bốn cảnh khổ. Nếu không rơi vào bốn cảnh khổ, sẽ tái sinh làm người có những lời nói mà người khác không chú ý, không tin tưởng.

Có hai yếu tố tạo thành tội nói lời vô ích:
  • (1) Lời nói vô ích.
    (2) Chính mình nói lời vô ích.
8. Tâm Tham Lam: Người có tâm tham lam có ý muốn sang đoạt, chiếm cứ tài sản của kẻ khác. Người có tâm tham lam, sau khi chết sẽ tái sinh thành quỷ đói.

Có hai yếu tố tạo thành tội tham lam:
  • (1) Tài sản của kẻ khác.
    (2) Có tâm muốn tài sản của kẻ khác bị mất mát, và mình có được tài sản ấy.
9. Tâm Sân Hận: Người có ác tâm muốn làm hại kẻ khác, sau khi chết sẽ sa vào Địa Ngục.

Phải có đủ hai yếu tố sau để kết thành tội có tâm sân hận:
  • (1) Phải có một chúng sinh.
    (2) Có tâm muốn làm hại.
10. Tà Kiến: Có ba loại tà kiến:
  • (1) Akriya-diṭṭhi: Chối bỏ nhân, cho rằng không có nghiệp tốt lẫn nghiệp xấu.
    (2) Natthika-diṭṭhi: Chối bỏ quả, không tin quả của thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, nghĩa là không tin có Thiên Đàng, Địa Ngục.
    (3) Ahetuka-diṭṭhi: Chối bỏ nhân và quả, không tin cả nghiệp lẫn quả.
Vì không tin có nhân quả nên người có tà kiến sẵn sàng làm các điều ác và thờ ơ trước các điều thiện; bởi thế, sau khi chết sẽ rơi vào bốn cảnh khổ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VI. NHỮNG ĐIỀU NGƯỜI PHẬT TỬ NÊN LÀM
VÀ SỰ LỢI ÍCH NẾU LÀM NHỮNG ĐIỀU ĐÓ

Mười Điều Thiện hay mười thiện nghiệp người Phật Tử nên làm (Puñña kiriya Vatthuni):
  1. Bố thí (Dāna).
  2. Trì giới (Sīla).
  3. Tham thiền (Bhāvanā).
  4. Tôn kính (Apacāyana).
  5. Phục vụ (Veyyāvacana).
  6. Hồi hướng phước báu (Pattidāna).
  7. Hoan hỷ với phước báu của kẻ khác (Pattānumodana).
  8. Nghe Pháp (Dhammasavana).
  9. Nói Pháp (Dhammadesanā).
  10. Có chánh kiến (Diṭṭhijukamma).
Trong mười điều thiện trên thì:
  • - Bố thí (1)
    - Hồi hướng phước cho kẻ khác (6)
    - Hoan hỷ với phước báu của kẻ khác (7)
Thuộc nhóm Bố Thí.
  • - Giới (giữ thân, khẩu trong sạch) (2)
    - Tôn kính (Phật, Pháp, Tăng, cha mẹ, thầy tổ, trưởng lão...) (4)
    - Phục vụ (phục vụ Tam Bảo, cha mẹ, thầy tổ, trưởng lão...) (5)
Thuộc về nhóm Trì Giới.
  • - Nghe Pháp (8)
    - Nói Pháp (9)
    - Có chánh kiến (10)
Thuộc nhóm luyện tâm hay Tham Thiền.

1. Bố Thí (Dāna): Đầu tiên tôi sẽ giảng về nhóm bố thí. Cho ra những gì mình có là bố thí, chớ không phải lấy của kẻ khác mà cho. Bố thí có nhiều loại, nhưng ở đây các bạn chỉ cần biết và nhớ hai loại là đủ:
  • (1) Bố thí không đem đến kết quả trong kiếp sau.

    (2) Bố thí đem đến kết quả trong kiếp sau.
- Bố thí không đem đến kết quả trong kiếp sau gọi là lokavisaya dāna, đó là:
  • - Bố thí bởi vì si mê.
    - Bố thí vì không thể tránh được.
    - Bố thí vì yêu thương một người nào đó mà cho ra.
Đó cũng là bố thí, nhưng sự bố thí này không đem lại kết quả trong kiếp sau.

- Bố thí đem đến kết quả trong kiếp sau gọi là puñña-visaya dāna. Cho với sự tin tưởng rằng đây là nghiệp, đây là kết quả của nghiệp. Khi bố thí như vậy thì có tác ý trong tâm. Cetana hay tác ý, hoặc là sự cố ý sẽ theo chúng ta như bóng theo hình. Đây là loại bố thí có sự tin tưởng vào hành động bố thí. Bố thí cách này còn được gọi là bố thí với sự tin tưởng vào nghiệp.

Bạn tin tưởng rằng tác ý tốt này sẽ mang lại kết quả tốt đẹp. Sự tin tưởng này được gọi là sự tin tưởng vào quả của nghiệp. Bố thí như thế là bố thí với lòng tin tưởng cả nghiệp lẫn quả.

Bố thí đem lại sự an vui, hoan hỷ cho người và chư thiên. Nếu bố thí đúng cách thì sự bố thí này sẽ hỗ trợ cho ta trong việc chứng ngộ Niết Bàn. Khi cho ra bạn phải có tâm hướng đến Niết Bàn, đến sự chấm dứt đau khổ. Nếu có sự hướng tâm như vậy thì sự bố thí này sẽ giúp cho bạn đạt đạo quả Niết Bàn. Không nên bố thí với tâm nhằm đạt được kết quả an vui, hạnh phúc trong cõi người hay cõi Trời. Bạn chẳng cần phải mong ước điều đó bởi vì phước báu mà bạn đã làm sẽ tự động đưa bạn đến nơi an vui hạnh phúc. Nếu bạn bố thí với tâm mong ước hạnh phúc ở cõi người hay cõi trời thì sự bố thí của bạn trở thành Vaṭṭanissita dāna. Loại bố thí này sẽ dẫn bạn luân lưu trong vòng sinh tử đau khổ. Bạn hãy thận trọng về điều này.

- Bố thí hỗ trợ cho ta trên đường tiến đến Niết Bàn.

Muốn cho việc bố thí trở thành duyên giúp cho bạn trên đường đến Niết Bàn thì khi bố thí bạn nên:
  1. Hoan hỷ với việc bố thí.
  2. Tin tưởng vào việc làm của bạn và kết quả của việc làm, nghĩa là tin tưởng vào nghiệp và quả của nghiệp.
  3. Hướng đến Niết Bàn.
Khi bố thí với tâm hoan hỷ thì lúc tái sinh bất kỳ cảnh giới nào, bạn cũng sẽ hưởng kết quả tốt đẹp hơn kẻ khác. Nếu bạn bố thí với lòng tin tưởng vào nghiệp và quả của nghiệp bạn sẽ tái sinh làm người hay làm trời với đầy đủ Trí Tuệ để thành tựu giải thoát. Nếu bạn bố thí với tâm hướng đến Niết Bàn thì khi tái sinh làm trời hay người bạn sẽ được tái sinh vào chỗ bạn có thể nghe và thực hành giáo pháp.

Nếu bạn có Trí Tuệ để thành tựu giải thoát và được tái sinh làm trời hay người, bạn sẽ được sinh vào những nơi có thể nghe và thực hành giáo pháp, nhờ đó bạn có thể đạt Đạo Quả và Niết Bàn trong chính kiếp sống đó.

Thêm vào đó, nếu trong chỗ bạn làm phước hay tại nơi bạn tái sinh ở vào thời kỳ có Giáo Pháp của đức Phật thì bạn sẽ nhờ bước đầu của sự bố thí để tiến đến Đạo, Quả, Niết Bàn. Bởi thế, khi bạn đã làm được việc phước thiện nào với tâm hoan hỷ, bạn hãy đến một nơi thật thanh tịnh ngồi xuống, suy nghĩ đến phước báu của mình đã làm thật nhiều lần. Sự suy nghĩ nhiều lần đến việc bố thí của mình gọi là cāgānusati Bhāvana hay niệm thí (suy tưởng đến sự bố thí của mình). Nhờ lấy sự bố thí làm đề mục hành thiền, bạn nghĩ đến những hành động thiện bạn đã làm, từ từ sự an vui, hỷ lạc, hạnh phúc, thanh tịnh, tĩnh lặng sẽ tràn ngập thân tâm bạn.

Khi những tâm sở thiện khởi sinh trong tâm bạn, bạn hãy ghi nhận "hoan hỷ, hoan hỷ", "an vui, an vui", "hạnh phúc, hạnh phúc", "thanh tịnh, thanh tịnh", "tĩnh lặng, tĩnh lặng". Khi bạn ghi nhận những cảm giác này bạn sẽ thấy cảm giác hoan hỷ ‎‎‎đến rồi đi, sinh rồi diệt, và các tuệ giác của minh sát sẽ từ từ chín muồi, và bạn có thể đạt đến Đạo, Quả, Niết Bàn. Đó là cách làm thế nào để bạn dùng sự bố thí làm điểm khởi đầu để tiến đến chứng ngộ Niết Bàn ngay trong kiếp sống này.

2. Giới (Sīla): Bây giờ tôi sẽ giải thích cho các bạn về giới trong nhóm giới. Như các bạn đã biết có nhiều hình thức bố thí. Cũng vậy, có nhiều loại giới. Nhưng một cách đơn giản, ngắn gọn và chính xác thì: giới là sự kiểm soát hành động, lời nói; thận trọng trong mọi việc để các nghiệp bất thiện không có cơ hội phát sinh.

Có bốn loại giới:
  • (1) Giới Tỳ Khưu.
    (2) Giới Tỳ Khưu Ni.
    (3) Giới Sa Di.
    (4) Giới cư sĩ.
Tôi sẽ giảng giải giới cư sĩ một cách ngắn gọn. Đầu tiên là năm giới:
  1. Không sát sinh.
  2. Không trộm cắp.
  3. Không tà dâm.
  4. Không nói dối.
  5. Không uống rượu và các chất say.
Năm giới là những điều luật căn bản mà người Phật Tử phải luôn luôn giữ.

Tiếp đến là tám giới, gồm có:
  1. Không Sát sinh.
  2. Không trộm cắp.
  3. Không hành dâm.
  4. Không nói dối.
  5. Không uống rượu và các chất say.
  6. Không ăn sái giờ.
  7. Không múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa.
  8. Không nằm, ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Tám giới này dành cho người cư sĩ giữ trong các ngày Uposatha (ngày Bát Quan Trai hay ngày trai giới).

Mặc dầu tám giới được giữ trong những ngày trai giới, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn chỉ giữ tám giới trong những ngày trai giới thôi. Bạn có thể giữ tám giới trong bất kỳ ngày nào, một hay nhiều ngày tùy theo sự thuận tiện và lợi ích cho bạn.

Người giữ gìn giới luật trong sạch sẽ sinh vào cảnh giới an vui ở cõi trời hay cõi người. Người giữ giới sẽ được trường thọ, sẽ có dáng vẻ đẹp đẻ, dễ thương. Giới luật là sự hỗ trợ lớn lao cho bạn trên đường tiến đến Niết Bàn. Người giữ giới luật còn có phước báu lớn lao hơn cả sự bố thí nữa.

Người giữ giới luật cũng thường phải nghĩ đến sự thanh tịnh trong sạch của giới luật mình nhiều lần. Suy tư nhiều lần đến giới luật thanh tịnh của mình gọi là niệm giới (Sīlanus-sati bhāvanā) có nghĩa là hành thiền bằng cách quán sát giới luật của mình.

Khi bạn suy tư đến giới luật của mình hay hành thiền bằng cách niệm giới thì dần dần sự an vui, hỷ lạc, hạnh phúc, thanh tịnh, tĩnh lặng sẽ tràn ngập thân tâm bạn.

Khi những tâm sở thiện khởi sinh trong tâm bạn, bạn hãy ghi nhận "hoan hỷ, hoan hỷ", "an vui, an vui", "hạnh phúc, hạnh phúc", "thanh tịnh, thanh tịnh", "tĩnh lặng, tĩnh lặng".

Nếu bạn tiếp tục ghi nhận chánh niệm những cảm giác này thì bạn sẽ tiến bộ từng bước một, chứng đắc các tuệ giác và cuối cùng chứng ngộ Niết Bàn. Tuy nhiên, cơ hội này chỉ có thể có được vào thời kỳ có giáo pháp của đức Phật. Rất may mắn là chúng ta đang ở vào thời kỳ có giáo pháp của đức Phật. Giới luật chỉ giúp bạn tái sinh vào cõi người và cõi Trời mà không thể đạt được Đạo và Quả. Bởi vậy, bạn đang sống vào thời kỳ có giáo pháp của đức Phật, bạn hãy lấy giới luật làm điểm khởi đầu để tiến đến sự chứng ngộ Niết Bàn ngay trong kiếp sống này.

3. Tham Thiền (Bhāvanā): Bhāvanā có nghĩa là phát triển nghiệp thiện dưới một hình thức cao hơn. Có hai loại thiền: Thiền Định và Thiền Minh Sát.
  • (1) Thiền Định (Samatha Bhāvanā):
Samatha có nghĩa là làm cho an tịnh, tĩnh lặng các phiền não, giữ tâm trong sự an tịnh, tĩnh lặng. Chữ Bhāvanā có nghĩa là tinh tấn để phát triển. Như vậy Samatha Bhāvanā có nghĩa là nỗ lực tinh tấn phát triển sự an tịnh, tĩnh lặng, hay làm lắng đọng phiền não và giữ tâm an tịnh, tĩnh lặng. Nói một cách ngắn gọn thì Samatha Bhāvanā có nghĩa là nỗ lực tạo cho tâm an tịnh, tĩnh lặng.

Có bốn mươi đề mục để hành Thiền Định. Trong bốn mươi đề mục này có mười đề mục không dẫn đến nhập định. Ba mươi đề mục còn lại nếu phát triển đúng đắn, tốt đẹp sẽ đưa đến nhập định (Jhāna). Samatha có nghĩa là tập trung tâm ý trên đề mục và đốt cháy mọi phiền não.

Người thực hành thiền Samatha hay Thiền Định sẽ đạt được các tầng thiền. Trong khi chết, nếu tâm người này liên tục ở trong tầng Thiền Định thì sẽ tái sinh thành một vị Phạm Thiên.

Những người hành Thiền Định nếu không đạt được các tầng thiền thì cũng dễ dàng hưởng hạnh phúc ở cõi người và cõi trời.

Người hành Thiền Định, sau khi đạt kết quả không nên dừng lại đó. Hãy cố gắng chuyển sang Thiền Minh Sát để đạt Đạo Quả và Niết Bàn.
  • (2) Thiền Minh Sát (Vipassanā Bhāvanā:
Vipassanā có nghĩa là thấy một cách rõ ràng. Bhāvanā có nghĩa là cố gắng để phát triển. Như vậy Vipassanā Bhāvanā có nghĩa là cố gắng phát triển để thấy một cách rõ ràng. Thấy một cách rõ ràng ở đây là thấy bản chất thật sự của sự vật hay của Vật Chất và Tâm hay thấy rõ Vật Chất và Tâm là Vô Thường, Bất Toại nguyện và không có bản chất, không có cốt lõi hay Vô Ngã.

Một cách ngắn gọn, Vipassanā có nghĩa là hành thiền với mục đích là để thấy rõ bản chất thật sự của Vật Chất và Tâm, thấy rõ chúng là Vô Thường, Bất toại nguyện và Vô Ngã.

Vật Chất (Rūpa) có hai mươi tám loại, nhưng theo Chân Đế thì Vật Chất chỉ là pháp vô tri. Vật Chất không có tâm. Tâm (Nāma) gồm có tám mươi mốt tâm hiệp thế, và năm mươi hai tâm sở. Tổng cộng là một trăm ba mươi ba tâm. Nhưng theo Chân Đế thì chỉ có một tâm mà thôi.

Vật Chất và tâm tự chúng biểu hiện mỗi khi ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng và suy nghĩ, có nghĩa là mọi khi sự vật tiếp xúc với các cửa giác quan thì Vật Chất và Tâm biểu hiện. Hành thiền Vipassanā là ghi nhận và ý thức sự đến và sự đi của Vật Chất và Tâm qua các cửa giác quan trong khi thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, suy nghĩ.

Nếu thiền sinh đã có đầy đủ Ba La Mật thì qua việc hành Thiền Minh Sát thiền sinh sẽ đạt được Đạo Quả và Niết Bàn và trở thành một vị Thánh ngay trong kiếp sống này. Ngay cả khi thiền sinh không đủ Trí Tuệ để đạt quả giải thoát nên không đạt thánh quả ngay trong kiếp sống này, nhưng nếu tinh tấn hành thiền, thiền sinh sẽ dễ dàng tái sinh vào cảnh trời hay người có sự an vui hạnh phúc. Thiền sinh đó có thể trở thành bậc Thánh trong kiếp tới, nếu trong kiếp tới này thiền sinh vẫn tiếp tục hành Thiền Minh Sát. Nếu đã trở thành một vị Tu Đà Hoàn thì ít nhất cũng khỏi rơi vào bốn ác đạo và trong các kiếp sống kể tiếp cũng sẽ là Phật Tử.

Như vậy, tôi đã giải thích cho các bạn những điều mà các bạn không nên làm và những điều các bạn cần phải làm để trở thành một Phật Tử chân chánh và tốt đẹp. Tuy nhiên, chỉ nghe giảng giải về giáo pháp hay chỉ hiểu biết những điều tôi đã giảng giải cho các bạn thì chưa đủ. Điều quan trọng là bạn hãy đem những gì bạn đã hiểu biết ra thực hành. Có nghĩa là đừng làm những gì không nên làm và làm những gì cần phải làm.

Do làm những việc gì bạn phải làm và không làm những gì bạn không nên làm, bạn trở thành người Phật Tử chân chánh tốt đẹp.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VII. LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ MỘT ĐỜI SỐNG TẠI GIA AN VUI VÀ HẠNH PHÚC
Mọi sự vật trên thế gian, dầu là sinh vật hay những vật vô tri đều có bản chất sinh diệt. Thế gian luôn luôn bị sự sinh diệt chi phối nên khiến ta bất an và không làm ta thỏa mãn. Đức Phật đã hiểu rõ bản chất thế gian đúng theo chân tướng của chúng. Hầu hết những lời dạy dỗ của ngài đều nhằm mục đích giúp chúng ta giải thoát khỏi thế gian sinh diệt đau khổ này.

Nhưng không phải giáo pháp của đức Phật chỉ dạy thoát ly khỏi thế gian mà đức Phật còn dạy chúng ta làm thế nào để sống trong thế gian sinh diệt này một cách an vui hạnh phúc.

Một đôi lúc, do theo lời thỉnh cầu, đức Phật giảng dạy giáo pháp nói đến cách làm thế nào để đem lại an lạc hạnh phúc trên thế gian này. Một lần nọ đức Phật cùng chúng đệ tử đến truyền bá giáo pháp tại xứ Kosala, ngài ngự đến ngôi làng Veludvara. Phần lớn dân chúng trong ngôi làng này không theo Phật giáo, nhưng khi biết đức Phật đến họ cùng nhau bàn thảo cách đón tiếp đức Phật.

Vì phần lớn dân chúng ở đây không phải là Phật Tử nên khi đức Phật đến nơi họ không đảnh lễ đức Phật mà chỉ xưng tên họ, rồi đặt câu hỏi với đức Phật:

"Thưa Thầy Gotama, chúng con ở đây mọi người đều có những ước muốn, những nguyện vọng khác nhau. Nhưng chúng con có chung một ước nguyện là làm sao có một cuộc sống của người thế tục an vui hạnh phúc. Chúng con muốn được hưởng những thú vui của cuộc sống và sau khi chết chúng con muốn được tái sinh về cõi Trời. Xin Thầy chỉ dẫn cho chúng con làm thế nào để sống một cuộc sống thế tục, vẫn vui hưởng những dục lạc giác quan, nhưng sau khi chết lại được tái sinh vào nhàn cảnh".

Thể theo ước nguyện của họ, đức Phật đã giảng dạy như sau:

"Nếu các bạn muốn sống một đời sống thế tục, vui hưởng những thú vui trần thế và sau khi chết được sinh vào lạc cảnh thì các bạn phải tránh làm bảy điều sau đây và có đức tin không thối chuyển vào Tam Bảo.

Bảy pháp cần phải tránh là:

1. Các bạn không muốn bị người khác giết hại. Người khác cũng vậy, họ không muốn ai giết hại họ. Vậy hãy tránh xa sự giết hại chúng sinh.

2. Các bạn không muốn của cải tài sản của mình bị lấy cắp hay bị dùng vũ lực tước đoạt. Những người khác cũng vậy, họ không muốn tài sản của họ bị lấy cắp hay bị dùng vũ lực tước đoạt. Vậy hãy tránh xa sự lấy cắp hay dùng vũ lực tước đoạt của cải của kẻ khác.

3 Các bạn không muốn người khác xâm phạm tiết hạnh vợ con, chị em và phụ nữ thân yêu của các bạn. Người khác cũng vậy, họ cũng không muốn ai xâm phạm tiết hạnh vợ con, chị em và phụ nữ thân yêu của họ. Do đó, hãy tránh xa sự xâm phạm tiết hạnh của kẻ khác.

4. Các bạn không muốn bị ai dối gạt. Người khác cũng vậy. Bởi thế hãy tránh xa sự nói lời không thật làm tổn hại đến lợi ích của kẻ khác.

5. Các bạn không muốn ai nói lời xấu xa gây chia rẽ. Người khác cũng vậy. Bởi thế, hãy tránh nói lời xấu xa gây chia rẽ.

6. Các bạn không muốn nghe lời thô lỗ cộc cằn. Người khác cũng vậy. Bởi thế, hãy tránh nói lời thô lỗ cộc cằn.

7. Các bạn không muốn nghe những lời nói vô ích, làm mất thời giờ quý báu của các bạn. Người khác cũng vậy. Bởi thế, hãy tránh xa sự nói lời vô ích, làm mất thì giờ kẻ khác.

Sau khi đức Phật giảng dạy bảy pháp trên, Ngài dạy họ phải có đức tin vững chắc vào Tam Bảo, nghĩa là có đức tin vào Phật, Pháp, Tăng.

Theo truyền thống Phật giáo, bạn có thể nghĩ rằng: "Tôi có đức tin vững chắc vào Tam Bảo", nhưng thật ra bao lâu bạn chưa đạt quả Tu Đà Hoàn bạn không thể nào có đức tin vững chắc vào Phật, Pháp, Tăng được. Có thể trong kiếp sống này bạn có đức tin vào Tam Bảo, nhưng đức tin này chưa đủ mạnh để có thể có được đức tin Tam Bảo trong kiếp kế tiếp.

Như vậy, khi đức Phật dạy những người trong làng Veludvara hãy có đức tin vững chắc vào Tam Bảo, đức Phật đã gián tiếp bảo họ thực hành Thiền Minh Sát ít nhất cho đến khi đạt đạo quả Tu Đà Hoàn. Bởi vì khi đạt quả Tu Đà Hoàn bạn có đức tin vững chắc vào Tam Bảo và đức tin này có đủ sức mạnh để kéo dài đến kiếp sau.

Trong bản kinh này giới không uống rượu không được trực tiếp đề cập đến. Mặc dầu, giới uống rượu không được đề cập đến trong bản kinh này, nhưng giới uống rượu đã nằm trong giới thứ ba Kāmesumicchācāra (tà hạnh) rồi. Thông thường chúng ta hiểu giới thứ ba này là không tà dâm, nhưng thực ra giới thứ ba này có nghĩa là không hưởng thụ những dục lạc giác quan không đúng phép. Như vậy, không uống rượu là không hưởng thụ những hương vị không thích đáng.

Nhiều người Phương Tây đến thiền viện của chúng ta để thực hành Thiền Minh Sát. Một số có đức tin vào giáo pháp, nhưng một số thì không. Số người có đức tin vào việc hành thiền hỏi tôi khi họ trở về nhà, họ phải thực hành những điều gì trong đời sống thường nhựt, tôi bèn giải thích ngắn gọn bản kinh trên.

Do đó, nếu các bạn là một cư sĩ muốn hưởng thụ những thú vui của thế gian trong kiếp sống này và muốn tái sinh vào cảnh Trời sau khi chết thì hãy thực hành bảy điều trên, và cố gắng hành Thiền Minh Sát cho đến khi bạn có đức tin vững chắc vào Tam Bảo.
  • Sau đây là tóm lược cách hành Thiền Minh Sát.
Khi ngồi thiền, thiền sinh có thể ngồi theo nhiều cách khác nhau. Có thể ngồi theo lối kiết già: hai chân tréo nhau, hai bàn chân đặt lên hai vế; có thể theo lối bán già: chân này đặt lên chân kia hoặc ngồi theo lối tự nhiên thoải mái, hai chân rời nhau không chân nào chồng lên chân nào, chân này để trước chân kia. Để có thể ngồi lâu, ngày nay một số nơi trên thế giới, thiền sinh có thể ngồi trên ghế. Nhưng dầu ngồi xếp bằng hay ngồi trên ghế thì lưng cũng phải giữ thẳng. Mục đích giữ thẳng lưng là để sự tinh tấn không bị suy yếu. Thiền sinh cũng không được dựa vào vách hay thành ghế. Tâm phải chú vào đề mục thiền, dán chặt vào đối tượng thiền.

Thiền Minh Sát (Vipassanā) là quán sát các hiện tượng xảy ra ở cửa giác quan. Thoạt đầu, thiền sinh khó có thể quán sát tất cả các hiện tượng xảy ra ở sáu cửa, do đó chỉ cần chú tâm đến một ít hiện tượng mà thôi. Đó là lý do tại sao thiền sinh được đề nghị chú tâm vào chuyển động phồng xẹp của bụng, theo dõi sự chuyển động của bụng. Thiền sinh dùng tâm để quán sát các chuyển động ở bụng chứ không phải dùng mắt, do đó khi ngồi thiền, thiền sinh nên nhắm mắt lại.

Chú tâm vào chuyển động của bụng. Phải theo dõi chuyển động phồng xẹp từ lúc phồng bắt đầu cho đến lúc phồng chấm dứt, từ lúc xẹp bắt đầu cho đến lúc xẹp chấm dứt. Đây là sự quán sát yếu tố chuyển động hay yếu tố gió của bụng biểu hiện qua sự căng cứng, sức ép, sự bành trướng, sự rung chuyển, nhúc nhích, di động, chạy qua chạy lại... của những chuyển động trong bụng.

Khi bụng phồng lên, ghi nhận "phồng"; và khi bụng xẹp xuống, ghi nhận "xẹp".

Ghi nhận ở đây có nghĩa là chú tâm nhận biết. Nếu thấy sự niệm thầm giúp bạn dễ chánh niệm thì hãy niệm thầm. Không cần phải niệm ra miệng. Nhớ là chú tâm vào chuyển động phồng xẹp chứ không chú tâm vào chữ phồng xẹp, cũng không chú tâm vào hình dáng của bụng. Hãy thở tự nhiên, không nên thúc ép hay điều khiển hơi thở, không nên thở sâu hay thở dài để thấy rõ chuyển động phồng xẹp của bụng.

Ghi nhận chuyển động của bụng là niệm Thân.

Trong khi đang theo dõi chuyển động phồng xẹp, nếu có sự đau, nhức phát sinh, hãy ghi nhận "đau, đau" hay "nhức, nhức". Sự ghi nhận này gọi là niệm Thọ. Sau khi ghi nhận "đau, đau" hay "nhức, nhức", hãy trở về với đề mục chuyển động "phồng, xẹp".

Trong khi đang ghi nhận các chuyển biến của bụng, nếu có tư tưởng gì đến phải cẩn thận ghi nhận: "suy nghĩ, suy nghĩ". Sự ghi nhận này gọi là niệm Tâm. Sau khi ghi nhận "suy nghĩ", hãy trở về với đề mục chuyển động "phồng, xẹp".

Khi đang theo dõi chuyển động của bụng, nếu tai nghe gì hãy ghi nhận "nghe, nghe". Sự ghi nhận này gọi là niệm Pháp. Sau khi ghi nhận "nghe, nghe", hãy trở về với đề mục chuyển động "phồng, xẹp".

Khi đề mục nào mạnh nhất đang xảy ra thì hãy chú tâm vào đề mục đó, khi không có đề mục nào mạnh đang diễn ra thì hãy trở về với đề mục chính.

Các đề mục phụ đang xảy ra như: mắt giựt, nháy, nước mắt chảy, tai ngứa, mũi nghẹt, nước miếng chảy, tê, cứng, nóng, lạnh, hay các cảm giác đau nhức, run rẩy, tê cứng hoặc các cảm giác trong tâm như suy nghĩ quá khứ tương lai, suy tính, phân tích, vui, buồn, giận hờn, mong ngóng, kỳ vọng, thấy cảnh trong tâm, nghe âm thanh trong tâm, thấy ánh sáng, cảm thấy bay bổng, cảm thấy thân thể biến dạng, nhỏ lớn v.v... Hãy thản nhiên ghi nhận đề mục phụ đó rồi trở về đề mục chính.

Nhớ kỹ một điều là: Không phải chỉ khi nào tâm ở đề mục chính mới tốt còn ở đề mục phụ thì không tốt. Bao lâu thiền sinh chú tâm chánh niệm trên đề mục hiện tại là đã hành thiền tốt đẹp. Dầu trong một giờ tâm chạy ra đề mục phụ cả ngàn lần, nếu vẫn chánh niệm ghi nhận được, là thiền sinh đã hành thiền đúng và tốt.

Sau khi đã ngồi thiền, bạn đi kinh hành. Trước khi thay đổi tư thế ngồi sang tư thế đứng phải chú tâm chánh niệm ghi nhận ý định đứng dậy: "muốn, muốn". Sau đó, chú tâm vào toàn thể cơ thể, và từ từ đứng dậy; ghi nhận toàn thể tiến trình của sự đứng dậy: "đứng dậy, đứng dậy". Khi đã đứng dậy rồi, hãy ghi nhận: "đứng, đứng". Khi đi kinh hành, tốt nhất nên chọn lối đi đã có sẵn, dài chừng mười đến hai mươi bước rồi đi tới đi lui trên đó. Hãy đi một cách chậm rải; chú tâm vào chuyển động của chân; chú tâm ghi nhận ít nhất bốn giai đoạn của mọi bước đi: "giở, giở", "bước, bước", "đạp, đạp", "ấn, ấn" hay "chuyển, chuyển". Mắt mở và nhìn vào khoảng hai thước trước mặt. Đến cuối đường kinh hành đứng lại, hãy ghi nhận: "đứng lại, đứng lại". Khi muốn quay lui, hãy ghi nhận ý muốn quay: "muốn, muốn". Khi quay hãy chú tâm chánh niệm vào chuyển động quay: "quay, quay". Khi bắt đầu đi trở lại, ghi nhận: giở, bước, đạp, chuyển hay ấn cho đến cuối đoạn đường kinh hành.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VIII. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT LIÊN QUAN ĐẾN NGHIỆP
Theo kinh tạng thì nghiệp (Kamma) có nghĩa là hành động hay tác động. Theo Vi Diệu Pháp thì nghiệp có nghĩa là sự cố ý hay tác ý (Cetanā). Nghiệp hay cố ý được chia làm hai loại:

1. Thiện nghiệp.

2. Bất thiện nghiệp.

Thiện nghiệp và bất thiện nghiệp cũng lại chia ra ba loại: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.

Mỗi loại như vậy lại chia làm hai tùy theo thời gian nghiệp thể hiện. Đó là nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại. Nghiệp quá khứ chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong đời sống hiện tại chứ không thể ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hiện tại. Nghiệp hiện tại tạo ảnh hưởng trực tiếp trong hiện tại và trong tương lai, cũng như vào lúc tái sinh trong tương lai.

Tùy theo thời gian thể hiện nghiệp mà có hai loại:
  • (1) Patisandhi Kāla (nghiệp có từ lúc tái sinh).
    (2) Pavatti Kāla (nghiệp trong đời sống hiện tại).
Patisandhi Kāla là thời gian vào lúc tái sinh hay bào thai thành hình, và Pavatti Kāla là khoảng thời gian trong đời sống hiện tại.

Theo Vi Diệu Pháp thì ngay vào lúc có thức tái sinh xuất hiện gọi là Patisandhi Kāla.

Thời gian từ lúc thức tái sinh xuất hiện cho đến tử thức thì gọi là Pavatti Kāla.

Nhưng theo tạng Kinh thì Patisandhi Kāla là thời gian từ lúc tái sinh cho đến khi được sinh ra và Pavatti Kāla là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến lúc chết.

Sự tái sinh theo kinh điển thì dễ hiểu hơn, còn sự tái sinh theo Vi Diệu Pháp thì chỉ những người có học Vi Diệu Pháp mới hiểu được. Bởi thế tôi sẽ giảng dạy theo cách dễ hiểu.

Con người được chia ra làm bốn hạng:

Nếu chúng ta chia nhân loại trên thế gian này tùy theo nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại thì chúng ta có bốn hạng người:
  1. Người có nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại đều tốt.
  2. Người có nghiệp quá khứ tốt, nhưng có nghiệp hiện tại xấu.
  3. Người có nghiệp quá khứ xấu, nhưng có nghiệp hiện tại tốt.
  4. Người có nghiệp quá khứ lẫn nghiệp hiện tại đều xấu.
Người được sinh ra trong gia đình giàu có từ lúc sinh ra cho đến lúc chết họ được nuôi dưỡng một cách tốt đẹp, được học tập đạo đức, được học chữ học nghề, có tài sản và phương tiện để ngày càng phát triển; họ có bạn bè tốt và biết săn sóc sức khỏe của mình; họ biết cách làm cho đời sống mình được tốt đẹp nhờ thế họ trở nên ngày càng giàu có hơn. Đó là những người có cả hai nghiệp quá khứ và hiện tại đều tốt đẹp. Trong số những người đó có ông Cấp Cô Độc là người đã cúng chùa Kỳ Viên cho đức Phật và bà Visākhā là người cúng chùa Pubbārāma cho đức Phật.

Một người, nếu được sinh ra trong một gia đình giàu có, nhưng trong đời sống hiện tại không được nuôi dưỡng tốt, không được học hành, không tạo được tài sản sự nghiệp, không thân cận với bạn bè tốt, không biết săn sóc sức khỏe của mình thì người đó sẽ trở nên nghèo nàn, khốn khổ, bệnh hoạn trong kiếp hiện tại. Đó là những người có nghiệp quá khứ tốt nhưng nghiệp hiện tại xấu.

Ở thành Benares có một thanh niên con một gia đình bá hộ. Khi cha mẹ còn hiện tiền chàng ta đã làm chủ một gia tài to lớn khoảng tám mươi cores, tương đương khoảng tám trăm triệu Mỹ kim. Nhưng khi cha mẹ mất ông ta phung phí hết tài sản của mình, trở thành một kẻ ăn mày, và cuối cùng chết trong một khu rừng như một con súc vật. Người này có nghiệp quá khứ tốt, nhưng nghiệp hiện tại xấu.

Khi một người sinh ra trong gia đình nghèo khó bởi vì nghiệp quá khứ xấu. Nhưng nếu nghiệp hiện tại tốt thì họ sẽ trở nên giàu có, phát triển công việc làm ăn bằng cách học hỏi và buôn bán. Một số người có thể sống trong cảnh nghèo khó khi còn ở chung với cha mẹ, nhưng khi có cuộc sống riêng họ trở nên giàu có. Những người này cũng được gọi là có nghiệp quá khứ xấu nhưng nghiệp hiện tại tốt. Trong lịch sử Miến Điện có ông Nawratha là con trai của một người y tá nghèo, nhưng sau này ông trở thành một vị vua lãnh đạo quốc gia, bởi vì ông có nghiệp quá khứ xấu nhưng nghiệp hiện tại tốt.

Có một số người ngoại quốc sang Ấn Độ để làm ăn; họ mặc trên mình những chiếc áo rách nát, nhưng nhờ làm lụng siêng năng nên về sau họ trở thành giàu có. Họ là những người có nghiệp quá khứ xấu nhưng nghiệp hiện tại tốt.

Tuy nhiên, nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại cũng hỗ trợ lẫn nhau. Bởi thế, cũng có người đến Miến Điện với quần áo tả tơi, nhưng về sau cũng vẫn nghèo nàn đói khổ. Vậy hãy nên nhớ rằng nghiệp hiện tại cũng cần có nghiệp quá khứ hỗ trợ.

Nếu một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng không chịu phát triển bằng cách học nghề, học chữ, không nỗ lực làm ăn thì cho đến già, đến chết họ vẫn sống trong nghèo khổ. Đó là hạng người có nghiệp quá khứ và nghiệp hiện tại đều xấu.

Muốn cho đời sống hiện tại được tiến triển tốt đẹp thì nghiệp hiện tại phải tốt mới được. Nghiệp hiện tại đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định đời sống con người. Đức Phật trong một bài pháp gồm bốn điểm đã dạy chúng ta làm thế nào để có một đời sống tốt đẹp trong hiện tại:
  • (a) Phải luôn luôn siêng năng trong tất cả mọi công việc.
    (b) Khi có tài sản rồi thì phải biết giữ gìn của cải đã có, không phung phí, không làm tiêu tan tài sản.
    (c) Phải biết quân bình những gì mình có được và những gì mình tiêu xài.
    (d) Phải thân cận bạn lành để những người này có thể giúp mình trong những trường hợp cần thiết.
Bây giờ, dầu bạn sinh ra trong gia đình nghèo khó hay trong gia đình giàu sang sung túc, nhưng đã sinh ra làm người cũng là một phước báu rồi, dầu nghiệp quá khứ có xấu hay có tốt đi nữa thì cũng hãy cố gắng tạo những nghiệp tốt trong hiện tại.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

IX. THÁNH QUẢ TU ĐÀ HOÀN
Lúc đức Phật ngự tại chùa Kỳ Viên trong thành Xá Vệ, một ngày nọ, khi Đại Đức Xá Lợi Phất (Sāriputta) đến gần Ngài, Ngài bèn hỏi Đại Đức Xá Lợi Phất những pháp nào, cách thực hành nào giúp cho người đạt Thánh quả Tu Đà Hoàn (Sotāpanna).

Tu Đà Hoàn (Sotāpanna) có nghĩa là gì? "Sota" có nghĩa là gì? "Panna" có nghĩa là gì? Những câu hỏi của đức Phật và những câu trả lời của Đại Đức Xá Lợi Phất về sau được ghi thành một bài kinh gọi là Kinh Xá Lợi Phất Đệ Nhị.
  • Bát Chánh Đạo Hay Sota:
Đức Phật hỏi Đại Đức Sāriputta: "Nhiều người nói đến chữ Sota, vậy Sota có nghĩa là gì?"

Ngài Sāriputta trả lời: "Bạch Đức Thế Tôn: Thấy sự vật như thực, suy tư đúng đắn, nói năng đúng đắn, hành vi đúng đắn, nuôi mạng chân chánh, tinh tấn đúng đắn, chánh niệm, chánh định. Đó là tám đặc tính của Thánh Đạo, được gọi là Sota".

Bây giờ, tôi sẽ giảng giải cho các bạn hiểu về tám đặc tính của Thánh Đạo hay "Sota". Chữ "Sota" có hai nghĩa:

1. Lỗ tai.

2. Dòng nước.

Dòng nước ở đây không phải là dòng nước thông thường mà có nghĩa là dòng nước Thánh Đạo. Nước sông Hằng chảy ra biển, dòng nước Thánh đạo chảy đến Niết Bàn. Bởi vì bản chất của cả hai cũng đều là trôi chảy, cho nên người ta đã so sánh đạo với dòng nước. Vậy các bạn hãy nhớ rõ tám đặc tính của đạo là "Sota".
  • - Nghĩa của chữ Sotāpanna:
Chúng ta vừa định nghĩa chữ Sota. Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu nghĩa toàn chữ Sotāpanna.

Đức Phật hỏi: "Này Sāriputta, mọi nơi người ta đều nói đến Sotāpanna, vậy thì một người như thế nào được gọi là Sotāpanna?"

Đại Đức Sāriputta trả lời: "Bạch Đức Thế Tôn, một người có tám đặc tính của Thánh Đạo được gọi là Sotāpanna". Chữ Sotāpanna (Tu Đà Hoàn) có thể được dùng để gọi một người đã đạt quả Tu Đà Hoàn. Người có đủ tám đặc tính của Thánh Đạo là người đã tới dòng nước Thánh Đạo lần đầu tiên còn gọi là nhập Lưu Thánh Đạo. Thật vậy, quả vị Sotāpanna là Thánh đạo đầu tiên, sau đó mới đến Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán. Bởi thế cho nên người ta gọi bậc Thánh đầu tiên là nhập lưu.
  • - Bốn Yếu tố cần thiết để trở thành Tu Đà Hoàn:
Đức Phật hỏi Đại Đức Sāriputta: "Này Sāriputta, những yếu tố nào đã giúp người thực hành trở thành Tu Đà Hoàn".

Đại Đức Sāriputta trả lời:

"Bạch Đức Thế Tôn, có bốn yếu tố giúp người thực hành trở thành bậc Tu Đà Hoàn:
  • (1) Thân cận bậc thiện trí thức.
    (2) Nghe giáo pháp từ bậc thiện trí thức.
    (3) Có sự chú tâm sáng suốt.
    (4) Thực hành thiền dẫn đến Niết Bàn.
- Tin Tưởng vào Tam Bảo: Sau đây là những đặc tính mà một người Tu Đà Hoàn có được:
  1. Có đức tin vững chắc vào Đức Phật.
  2. Có đức tin vững chắc vào Giáo Pháp.
  3. Có đức tin vững chắc vào Tăng.
  4. Có giới luật trong sạch của bực Thánh.
Theo truyền thống những người sinh ra trong gia đình Phật giáo có đức tin nơi đức Phật từ khi còn thơ ấu, họ tin rằng đức Phật Gotama là đức Phật thật sự. Nhưng đức tin theo truyền thống này không tồn tại lâu dài. Nếu có một người nào tuyên truyền giỏi và họ nói rằng đức Phật không có thật, thì đức tin truyền thống sẽ bị sụp đổ ngay. Dầu cho đức tin truyền thống không bị hủy hoại ngay trong kiếp sống này thì nó cũng có thể bị suy tàn trong kiếp sống kể tiếp.

Cũng vậy đức tin truyền thống vào Pháp và Tăng cũng không bền vững. Bạn chỉ có đức tin bền vững khi nào chính bạn đã kinh nghiệm được giáo pháp của đức Phật bằng Trí Tuệ nội quán của mình.

Có hai loại kinh nghiệm Giáo Pháp:
  • (a) Kinh nghiệm giáo pháp của một thiền sinh bình thường.

    (b) Kinh nghiệm giáo pháp của một bậc Thánh.
Đối với thiền sinh thực hành Thiền Minh Sát, khi Trí Tuệ nội quán phát triển, họ thấy rằng một khi chánh niệm ghi nhận thì chỉ có Vật Chất và Tâm. Ngoài ra chẳng có gì cả. Vật Chất và Tâm này vừa mới khởi sinh lại diệt ngay; hiện tượng cũ vừa mới mất, hiện tượng mới lại khởi sinh; sinh sinh, diệt diệt mãi mãi. Vật Chất và Tâm là Vô Ngã vì không thể kiểm soát, không thể điều khiển được. Nhờ hành Thiền Minh Sát, thiền sinh đạt Trí Tuệ nội quán, thấy rõ tôi và ta không thật sự hiện hữu, thấy rõ ràng bản chất thật sự của sự vật.

Đức Phật dạy rằng chỉ có Vật Chất và Tâm. Vật Chất và Tâm này không tồn tại lâu dài, chúng bị đàn áp bởi sự sinh và diệt. Vì bị đàn áp, bị chi phối bởi sự sinh diệt nên đưa đến sự không hài lòng, bất toại nguyện. Sự vật bị đàn áp bởi sinh diệt, đưa đến sự không hài lòng nên không thể bị kiểm soát, bị chi phối theo ước muốn của chúng ta. Những điều đó trước đây ta không từng biết, bây giờ nhờ hành Thiền Minh Sát chính ta thấy được điều đó; chính ta, qua kinh nghiệm của mình, thấy rõ những gì Đức Phật đã dạy, những gì mà chính tự thân Ngài chứng ngộ. Nhờ chính mình thấy rõ như thế nên ta có đức tin vững chắc và trọn vẹn vào Đức Phật. Đó là đức tin trọn vẹn nơi Đức Phật qua kinh nghiệm của việc hành Thiền Minh Sát. Đức tin hay sự thực thấy được qua việc hành Thiền Minh Sát là một đức tin sâu xa mạnh mẽ hơn đức tin truyền thống nhiều. Tuy nhiên, vì chưa đắc quả Tu Đà Hoàn cho nên loại đức tin đến từ Thiền Minh Sát này cũng còn có thể bị lung lay.

Trong lúc hành thiền, khi tâm chánh niệm ghi nhận khắn khít với đề mục, thiền sinh chế ngự được các phiền não. Thiền sinh nhận thấy rằng khi thiền sinh ít tinh tấn hành thiền thì phiền não được chế ngự ít. Nếu thiền sinh tinh tấn hành thiền nhiều thì phiền não sẽ được chế ngự nhiều. Như vậy là thiền sinh đã có đức tin vào giáo pháp, đức tin này hơn hẳn đức tin truyền thống. Nhưng đức tin này cũng vẫn còn có thể bị lung lay và vẫn chưa đủ tốt đẹp.

Bây giờ đức tin của vị Tu Đà Hoàn không thể bị hủy diệt ngay trong kiếp sống này hay trong kiếp kế tiếp. Đức tin không thối chuyển chỉ có được ở thiền sinh khi thiền sinh đạt Thánh Đạo. Đó là đạo quả đầu tiên. Tuệ giác chứng ngộ Tu Đà Hoàn Đạo chứng nghiệm Tứ Diệu Đế cùng lúc. Khi thiền sinh trở thành một vị Tu Đà Hoàn thì đức tin của họ không bị hủy diệt. Đức tin này trở thành miên viễn.

Tôi sẽ giảng giải cho các bạn hiểu rõ ràng về sự chứng ngộ bốn chân lý cao thượng.

- Tứ Diệu Đế gồm: Chân lý về sự khổ, chân lý về nguyên nhân của sự khổ, chân lý về sự dứt khổ và chân lý về con đường dẫn đến nơi dứt khổ (khổ, tập, diệt, đạo).

Chân lý về sự khổ cần phải biết, chân lý về nguyên nhân của sự khổ hay ái dục cần phải đoạn trừ, chân lý về sự dứt khổ hay diệt (Niết Bàn) cần phải chứng ngộ, và chân lý về con đường dẫn đến nơi dứt khổ cần phải tu tập.

(Khổ phải biết, Tập hay Ái dục phải đoạn trừ, Diệt hay Niết Bàn phải chứng ngộ, và Đạo hay con đường dẫn đến nơi dứt khổ phải tu tập).

Ngay vào lúc thiền sinh kinh nghiệm diệt hay sự chấm dứt của khổ (tức là Niết Bàn) thì thiền sinh cũng kinh nghiệm ba chân lý kia là khổ, nguyên nhân khổ (tập), và con đường đi đến nơi dứt khổ (đạo) vì bao gồm trong đó.

Tôi đã giảng giải cho các bạn nghe những yếu tố mà một vị Tu Đà Hoàn có được. Bây giờ, tôi sẽ nói đến những phiền não mà vị Tu Đà Hoàn đã loại trừ.

Có mười loại phiền não:
  1. Tham.
  2. Sân.
  3. Si (vô minh).
  4. Mạn.
  5. Tà kiến.
  6. Nghi.
  7. Dã dượi, buồn ngủ.
  8. Bất an.
  9. Không hỗ thẹn tội lỗi.
  10. Không ghê sợ tội lỗi.
Trong mười loại phiền não này thì vị Tu Đà Hoàn loại trừ hoàn toàn tà kiến và hoài nghi. Một vị Tu Đà Hoàn không thể loại trừ những phiền não còn lại. Vị Tu Đà Hoàn cũng loại trừ được những khả năng sinh vào bốn cảnh khổ, do đó vị Tu Đà Hoàn thoát khỏi sự tái sinh vào bốn cảnh khổ: Địa Ngục, Quỷ đói, A tu la, Súc sinh.

- Các hạng Tu Đà Hoàn: Thế giới loài người và sáu cõi Trời được gọi là bảy cõi Dục giới. Vị Tu Đà Hoàn còn sống trên thế gian này bảy kiếp, và chia ra làm ba hạng:
  • (1) Ekābijā Sotāpanna: (Vị Tu Đà Hoàn chỉ còn một kiếp nữa thì giác ngộ đạo quả A La Hán).
    (2) Kolaṁ Kola Sotāpanna: (Vị Tu Đà Hoàn còn trải qua từ hai đến sáu kiếp sống thì giác ngộ đạo quả A La Hán).
    (3) Sattakkhattu Parama Sotāpanna: (Vị Tu Đà Hoàn còn phải trải qua bảy kiếp sống nữa thì giác ngộ đạo quả A La Hán).
Tu Đà Hoàn được phân hạng như trên tùy theo các Tuệ Minh Sát mà các Ngài đạt được trong khi hành thiền.[/list] Bậc Tu Đà Hoàn thứ nhất đạt được các tuệ giác hoàn hảo.

Bậc Tu Đà Hoàn thứ hai đạt được các tuệ giác trung bình.

Bậc Tu Đà Hoàn thứ ba đạt được các tuệ giác ở mức thấp hơn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Phần Hai
CHÂN ĐẾ VÀ TỤC ĐẾ

I. PHÂN BIỆT
CHÂN ĐẾ VÀ TỤC ĐẾ
Có hai loại sự thật: Sự thật chế định, hay Tục Đế, và sự thật tuyệt đối, hay Chân Đế.

Tất cả sự vật, dầu là sinh vật hay những vật vô tri, đều có thể được chấp nhận là những sự thật trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta: đàn ông, đàn bà, con gái, con trai, cha, mẹ, ghế, bàn, sông, núi v.v... đều là sự thật chế định hay Tục Đế. Tất mọi sự vật, dầu là sinh vật hay vật vô tri, mà chúng ta chấp nhận là sự thật, thực ra là những vật không hiện hữu, không có thật. Chẳng có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, cha, mẹ, ghế, bàn, sông, núi v.v... Tất cả chỉ là Vật Chất và Tâm hay Danh và Sắc mà thôi. Đó là sự thật tuyệt đối hay Chân Đế.

Khi sống chung đụng với mọi người trong đời sống hằng ngày thì Tục Đế là sự thật. Khi sống chung đụng với mọi người thì rõ ràng là có đàn ông, đàn bà, ghế, bàn v.v... Bởi vậy, phải dùng Tục Đế trong khi sống trong xã hội.

Khi nói chuyện với một người khác, thì Tục Đế là sự thật. Khi nói chuyện với một người khác, ta không thể nói rằng: "Vật Chất và Tâm" này đang nói với "Vật Chất và Tâm" kia. Nói như thế thì sẽ vô nghĩa và dễ lầm lộn. Thế nên, khi giao tiếp với nhau trong cuộc sống hằng ngày, Tục Đế là sự thật và phải dùng Tục Đế.

Khi làm việc phước thiện, Tục Đế là sự thật và đúng. Khi làm việc phước thiện, ta không thể nói: "Vật Chất và Tâm" này đang dâng cúng cho "Vật Chất và Tâm" kia. Ta phải nói: một người đàn ông hay một người đàn bà đang dâng cúng cho một nhà sư. Như vậy, Tục Đế phải được sử dụng trong khi làm việc phước thiện.

Cũng thế, khi giữ giới thì Tục Đế là sự thật, chúng ta không thể bỏ Tục Đế. Khi một người giữ giới, chúng ta không thể nói: "Vật Chất và Tâm" kia đang giữ giới. Ta phải nói: một thiện nam hay một tín nữ đang giữ giới. Như vậy, trong việc giữ giới, Tục Đế là sự thật.

Trong khi hành Thiền Định, đặc biệt là niệm tâm từ, chúng ta cần Tục Đế. Tục Đế là sự thật khi chúng ta hành Thiền Định. Trong Thiền Định, chúng ta phải chú tâm vào Tục Đế như: đất, nước, xanh, vàng, đỏ, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, v.v... Vậy phải dùng Tục Đế khi hành thiền Định. Ví dụ như khi niệm tâm từ, chúng ta niệm: "Cầu mong cho tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui hạnh phúc, cầu mong cho cha mẹ tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui hạnh phúc..." như vậy, chúng ta đã dùng "tôi", dùng "cha", dùng "mẹ" để làm đối tượng hành thiền. Đó là dùng Tục Đế để hành thiền.

Tóm lại, Tục Đế là sự thật khi chúng ta giao tiếp với người khác, khi làm việc phước thiện, khi giữ giới, khi hành Thiền Định. Tục Đế là sự thật rất thích hợp trong cuộc sống thế tục.

Dĩ nhiên, nếu chỉ biết đến thế tục, chỉ biết đến Tục Đế, thì không thể nào đạt được giải thoát, đạt được thánh quả. Chúng ta phải biết Chân Đế, hay sự thật tuyệt đối. Chúng ta cần Chân Đế khi chúng ta hành Thiền Minh Sát. Phải thấy rõ sự thật để đạt chân lý. Chúng ta không cần Chân Đế trong đời sống thế tục này.

Theo Chân Đế thì chỉ có "Vật Chất và Tâm".

Theo Vi Diệu Pháp, có tám mươi chín loại Tâm (Tâm vương) và năm mươi hai Tâm sở. Nhập chung lại, ta có Tâm. Nhưng trong việc hành Thiền Minh Sát thì con số không quan trọng. Bạn chỉ cần biết một điều sau đây là đủ. Đó là: Tâm là tiến trình của nhận biết. Nếu bạn biết Tâm là tiến trình của nhận biết thì bạn được xem như có đủ điều kiện để hành Thiền Minh Sát rồi.

Có hai mươi tám loại Vật Chất hay Sắc, nhưng trong việc hành Thiền Minh Sát thì con số không quan trọng. Nếu bạn hiểu: Vật Chất là một tiến trình không có sự nhận biết, vậy là đã đủ cho bạn hành Thiền Minh Sát. Thế nên, theo Chân Đế, chỉ có Vật Chất và Tâm hay Danh và Sắc. Tâm là tiến trình của nhận biết và Vật Chất là tiến trình không nhận biết.

*** (Mục đích của hành Thiền Minh Sát là thấy bản chất Vô Thường, khổ và Vô Ngã hay Tam Tướng của vật chất và tâm. Biểu hiện của Vô Thường là sự biến đổi. Biểu hiện của Khổ là sự sinh diệt. Biểu hiện của Vô Ngã là không điều khiển hay kiểm soát, không nắm bắt kịp, và không có bản chất.

Có hai đề mục chính mà thiền sinh hành Thiền Minh Sát phải chú tâm vào là vật chất và tâm. Nhưng tâm vô hình, trừu tượng, khó ghi nhận nên thiền sinh phải chú tâm vào đề mục vật chất hay thân trước vì đây là đề mục cụ thể, lúc nào cũng có mặt nên dễ ghi nhận hơn. Điều này đã được ghi rõ trong Thanh Tịnh Đạo: "Khi đối tượng vật chất được thiền sinh ghi nhận một cách rõ ràng, tinh tế thì tâm theo dõi đối tượng vật chất đó cũng được nhận biết một cách rõ ràng tinh tế như vậy". Do đó hãy ghi nhận đề mục vật chất trước, và khi đã thấy rõ đề mục vật chất thì sẽ thấy tâm.

Nhưng vật chất gồm vật chất bên ngoài và vật chất bên trong cơ thể chúng ta.

Chúng ta không thể thấy được sự biến đổi hay thấy Tam Tướng của vật chất bên ngoài như ghế, bàn, nhà cửa, sông núi qua hình dáng của chúng... vì chúng có tính cách liên tục và toàn khối.

Chúng ta cũng không thể thấy được sự biến đổi hay tam tướng của vật chất trong thân của chúng ta qua hình dáng hay tư thế của thân như mặt, mũi, tay chân... vì chúng có tính cách liên tục và toàn khối.

Chúng ta chỉ có thể nhận biết sự biến đổi hay tam tướng của vật chất bên ngoài và bên trong thân chúng ta qua các đặc tính cứng mềm, dính hút, chuyển động và nhiệt độ (đất, nước, gió, lửa). Chính qua các yếu tố này chúng ta mới thấy rõ bản chất thực sự của vật chất là Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã.

Vật chất bao gồm sự vật bên ngoài và sự vật bên trong thân chúng ta. Nhưng khó thấy được các đặc tính cứng mềm, dính hút, chuyển động và nhiệt độ của sự vật bên ngoài. Nếu không thấy được các đặc tính cứng mềm, dính hút, chuyển động và nhiệt độ của vật chất bên ngoài thì ta sẽ không thấy được tam tướng: Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã.

Do không thể thấy tam tướng qua vật chất bên ngoài cơ thể, nên ta phải chú tâm vào vật chất bên trong cơ thể.

Qua thân thể của chính mình, chúng ta thấy đặc tính cứng mềm, dính hút, chuyển động và nhiệt độ... chính ngay trong thân của chúng ta, và qua sự quán sát các yếu tố này ta mới thấy được sự biến đổi hay tam tướng.

Như vậy, khi hành thiền ta chỉ chú tâm đến yếu tố vật chất trong thân chúng ta biểu hiện qua các đặc tính của Tứ Đại: cứng mềm, dính hút, chuyển động và nhiệt độ... mà không cần quan tâm đến vật chất bên ngoài.

Trong bốn đặc tính này thì yếu tố dễ thấy nhất là sự chuyển động vì vậy thiền sinh được khuyên là nên chú tâm vào chuyển động của bụng)
.

Vật Chất và Tâm có bản chất vừa sinh ra là diệt ngay tức khắc. Vật Chất và Tâm hay Thân và Tâm là Vô Thường, biến hoại, và không thể điều khiển, kiểm soát được. Chỉ có "Vật Chất và Tâm" mà chẳng có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, nhà cửa, ghế, bàn v.v... chi cả.

Để bạn có thể tự kiểm chứng rằng chẳng có đàn ông, đàn bà v.v... Tôi sẽ kể cho bạn biết ba mươi hai thứ đã hợp thành thân thể này. Để có thể tự kiểm chứng là không có đàn ông, đàn bà, không có con trai, con gái v.v... chúng ta hãy dùng phương pháp đặt câu hỏi về ba mươi hai thể trược.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

II. PHƯƠNG PHÁP ĐẶT CÂU HỎI
  • Về Ba Mươi Hai Thể Trược
Các bạn hãy tự kiểm nghiệm lấy rằng: Chỉ có Thân và Tâm, hay Danh và Sắc.

Nếu chia cơ thể này ra làm ba mươi hai phần và đặt ba mươi hai câu hỏi, bạn sẽ hiểu rõ: chẳng có anh, tôi, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái chi cả.

Đặt câu hỏi về ba mươi hai Thể Trược không phải là Thiền Minh Sát. Đây chỉ là sự hiểu biết căn bản dựa trên suy nghĩ, nhưng là phương pháp hỗ trợ đắc lực cho Thiền Minh Sát. Đây chỉ là một loại "thoại đầu" làm phương tiện cho Thiền Minh Sát mà thôi.

Xin luôn luôn lưu ý là: Tục Đế là sự thật trong đời sống thế tục, Chân Đế là sự thật khi bạn hành Thiền Minh Sát. Chúng ta phải luôn luôn tách rời Tục Đế ra khỏi Chân Đế. Đừng lẫn lộn Tục Đế với Chân Đế. Trước khi đạt quả Tu Đà Hoàn, chúng ta phải tự thúc ép mình tin vào Chân Đế: không có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, ghế, bàn, sông, núi v.v...

Để thúc ép niềm tin vào Chân Đế, chúng ta phải nhập tâm phương pháp đặt câu hỏi ba mươi hai thể trược. Mỗi tối, trước khi đi ngủ ta phải tự hỏi ba mươi hai câu thoại đầu:

1. Hai mươi loại thuộc về đất:
  • - Tóc, lông, móng, răng, da.
    - Thịt, gân, xương, tủy, thận.
    - Tim, gan, ruột, lá lách, phổi.
    - Phèo, bao tử, thực phẩm chưa tiêu, phẩn, não.
(Đó là hai mươi thể có đặc tính cứng mềm nổi bật còn gọi là những thể thuộc về đất).

2. Mười hai loại thuộc về nước:
  • - Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ.
    - Nước mắt, nước mỡ (huyết tương) nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu.
(Đó là mười hai thể có tính chất dính hút nổi bật hay còn gọi là những thể thuộc về nước).

Khi ba mươi hai Thể Trược này hợp lại thì hình thái phát sinh. Rồi ta gọi hình thái này là đàn ông, đàn bà, con trai, con gái v.v... Bạn hãy phân tích cơ thể này ra làm ba mươi hai thể trược, đặt mỗi thể một nơi, rồi tự hỏi ba mươi hai câu hỏi:

- Tóc có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?
- Tóc không thể là tôi, anh, đàn ông, đàn bà.

Tiếp tục như thế, hỏi:

- Lông có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?
- Lông không thể là tôi, anh, đàn ông, đàn bà.
- Răng có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?
- Răng không thể là tôi, anh, đàn ông, đàn bà.

Lại hỏi tiếp:

- Móng có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?
- Móng không thể là tôi, anh, đàn ông, đàn bà
- Răng có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?
- Răng không thể là tôi, anh, đàn ông, đàn bà.
- Da có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?
- Da không thể là tôi, anh, đàn ông, đàn bà.

Tiếp tục như thế, hỏi:

- Thịt có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?
- Gân có phải là tôi, anh, đàn ông, đàn bà không?

Tiếp tục hỏi về xương, tủy, thận... mồ hôi, nước mắt... nước tiểu v.v...

Bằng cách này, nếu bạn hỏi ba mươi hai câu hỏi, và khi tự trả lời xong, bạn sẽ hiểu: chẳng có tôi, anh, đàn ông, đàn bà gì cả.

Nhưng khi tự hỏi và biết như thế này không phải là đã thực hành Thiền Minh Sát. Đó chẳng qua chỉ là sự hiểu biết do suy nghĩ và lý luận mà thôi. Tuy thế, những câu hỏi này cũng rất hữu ích giúp cho việc thực hành Thiền Minh Sát.

Dù cho bạn có tự hiểu rằng chẳng có đàn ông, đàn bà, con gái, con trai v.v... chi cả, thì sự hiểu biết này cũng không tồn tại lâu dài đâu. Chỉ trừ khi chúng ta đạt quả Tu Đà Hoàn, sự hiểu biết "không phải tôi, anh, đàn ông, đàn bà" mới tồn tại mãi mãi. Bao lâu chưa đạt được quả Tu Đà Hoàn, chúng ta còn phải tự thúc đẩy để tin tưởng vào Chân Đế. Khi đạt quả Tu Đà Hoàn thì Chân Đế này sẽ đến với ta một cách tự động. Bởi thế, để có thể chấp nhận Chân Đế, chúng ta phải tự thúc đẩy mình tin vào Chân Đế. Một khi đạt quả Tu Đà Hoàn thì không cần phải thúc đẩy nữa.

Tự hỏi về ba mươi hai Thể Trược là phương pháp hữu hiệu để thúc đẩy chúng ta tin vào Chân Đế.

Ba mươi hai Thể Trược có thể thấy được, nhưng còn những loại Vật Chất khác trong cơ thể rất khó thấy. Những loại Vật Chất khó thấy này gồm có bốn loại lửa và sáu loại gió.

3. Bốn loại lửa gồm:
  • - Nóng ở nhiệt độ cao.
    - Kế tục hay thay phiên nhau nóng và lạnh.
    - Sức nóng tiêu hóa đồ ăn.
    - Sức nóng giúp chúng ta tăng trưởng.
Nếu tóm tắt lại, ta có thể nói: Chỉ có nhiệt độ nóng lạnh.

4. Sáu loại gió gồm:
  • - Gió hướng lên hay thổi lên, làm ta ợ hơi, nấc cục hay nôn mữa.
    - Gió hướng xuống hay thổi xuống, đẩy phân và nước tiểu ra ngoài.
    - Hơi thở ra vào.
    - Gió trong tứ chi, (lực chuyển động trong tứ chi).
    - Gió trong bụng, ngoài ruột.
    - Gió trong ruột (chuyển động trong ruột).
Nếu tóm tắt, ta có thể nói: chỉ có gió chuyển động và gió nâng đỡ.

Cộng chung lại, ta có bốn loại lửa hay nhiệt độ.

Sáu loại gió hay sự chuyển động, nâng đỡ.

Hai mươi loại đất hay sự cứng mềm.

Mười hai loại nước hay là sự dính hút và lỏng.

Như vậy ta có tất cả bốn mươi hai loại Vật Chất hay Sắc.

Bốn mươi hai loại Vật Chất này chẳng qua chỉ là: cứng mềm, dính hút, chuyển động, nhiệt độ.

Dùng ba mươi hai Thể Trược hay bốn mươi hai đặc tính của vật chất để tự kiểm nghiệm, bạn sẽ thấy: chẳng có gì gọi là đàn ông, đàn bà, con gái, con trai v.v... Tất cả chỉ là: đất, nước, gió, lửa mà thôi.

Vậy trước khi đi ngủ, bạn hãy tự hỏi ba mươi hai câu hỏi trên. Đó là một loại thoại đầu để biết tôi là ai. Loại thoại đầu này nhằm mục đích giúp ta có tư Huệ. Tư Huệ chỉ là Trí Huệ tạm thời. Nhưng Tư Huệ mở đường cho Tu huệ, trực nhận cứu cánh giải thoát.

Đặt câu hỏi riêng về mỗi Thể Trược giúp ta thấy rõ cơ thể này chẳng là gì cả mà chỉ là sự tổng hợp của các thể trược. Sau khi đã hỏi ba mươi hai câu, ta hãy hỏi hai câu tổng quát, đó là:
  • "Cơ thể này có phải là tôi không?" hay:
    "Tôi là ai?"
Nếu chỉ hỏi câu thoại đầu cuối cùng: "Tôi là ai", mà không tuần tự hỏi từng Thể Trược một thì bạn sẽ rơi vào tình trạng suy nghĩ, tưởng tượng sai lầm hay hiểu biết sai lầm.

Hỏi xong ba mươi hai câu hỏi, bạn sẽ hiểu rõ rằng chẳng có tôi, anh, đàn ông, đàn bà chi cả. Đây là cách tự kiểm nghiệm: chẳng có anh, tôi, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái v.v...


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

III. BA LOẠI TRÍ HUỆ
Có ba loại trí huệ: Văn Huệ, Tư Huệ và Tu Huệ.

Văn Huệ (Sutamaya ñāṇa) là Trí Huệ phát sinh do nghe hay học. Tư Huệ (Cintamaya ñāṇa) là Trí Huệ phát sinh do suy nghĩ và lý luận. Tu Huệ (Bhāvanāmaya ñāṇa) là Trí Huệ phát sinh do sự thực hành, do hành Thiền Minh Sát.

Tôi có thể giúp bạn có Văn Huệ và Tư Huệ, nhưng không thể giúp bạn có Tu Huệ. Muốn có Tu Huệ bạn phải tự mình gặt hái lấy. Bạn phải hành Thiền Minh Sát để có Tu Huệ.

Hôm nay tôi sẽ giải thích tóm lược cho bạn một một lần nữa để chứng minh rằng chỉ có Vật Chất và Tâm mà chẳng có tôi ta gì trong cơ thể này.

Bạn hãy chia cơ thể này thành ba mươi hai thành phần. Nếu bạn hỏi ba mươi hai câu hỏi, như tôi đã hướng dẫn cho bạn trong bài pháp trước, thì bạn sẽ thấy rõ rằng chẳng có tôi, anh, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái... chi cả.

Hỏi những câu hỏi về ba mươi hai Thể Trược không phải là hành Thiền Minh Sát, nhưng đây là cách giúp cho việc hành Thiền Minh Sát tốt đẹp. Bởi vậy các bạn nên dùng ba mươi hai Thể Trược để minh chứng chẳng có anh, tôi, anh, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái... chi cả.
IV. VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH
  • Về Ngón Tay
Theo Chân Đế, không có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, thế thì không có hình thể hay sao?

Để có thể hiểu rõ điều này, chúng ta phải lấy một phần của cơ thể Vật Chất làm điển hình. Như lấy ngón tay chẳng hạn.

Theo Tục Đế: Đây là ngón tay. Điều này đúng. Nhưng theo Chân Đế, đây không phải là ngón tay. Tại sao?

Ngón tay này hợp thành bởi móng tay, da, thịt, mỡ, gân, xương v.v... nếu cắt thì sẽ có máu. Khi các thành phần đó kết hợp lại với nhau, chúng ta gọi: Đây là ngón tay.

Bạn có thể gọi móng tay là ngón tay không? Móng tay không phải là ngón tay. Tiếng Việt gọi là "ngón tay", tiếng Anh gọi là "finger", tiếng Pāḷi gọi là "aṅguli", tiếng Miến Điện gọi là "nhi-ô".

Nếu ta chấp nhận đó là ngón tay thì cũng đúng thôi, nhưng đúng theo Tục Đế. Theo Chân Đế thì không có ngón tay. Bởi vì bạn không thể gọi móng tay là ngón tay. Bạn có thể gọi móng tay là ngón tay không? Móng tay không phải là ngón tay. Thịt không phải là ngón tay. Da không phải là ngón tay. Xương không phải là ngón tay. Gân không phải là ngón tay. Máu không phải là ngón tay. Mỡ không phải là ngón tay.

Nhưng khi chúng kết hợp lại thì hình thể phát sinh. Thế rồi, ta gọi: Đây là ngón tay.

Vậy, ngón tay là Tục Đế. Theo Chân Đế thì không có ngón tay.

Trong khi đối đãi với mọi người thì ngón tay là có thật, nhưng trong Thiền Minh Sát thì ngón tay không thật.

Nếu không có ngón tay vậy thì có cái gì?

Như ta đã nói trên, ngón tay chỉ do móng, da, thịt, gân, xương v.v... kết hợp lại mà thôi. Có một sự dính kết chúng lại với nhau, đó là sự dính hút hay yếu tố nước.

Khi ta cảm thấy ngón tay có chỗ mềm chỗ cứng, sự mềm hay cứng này gọi là yếu tố đất.

Khả năng làm cho móng, da, thịt, gân, xương v.v... dính lại với nhau để chúng khỏi tách rời ra chính là yếu tố nước.

Đôi khi ta cảm thấy ngón tay lạnh hoặc nóng. Lạnh hay nóng này chính là yếu tố lửa.

Đôi khi ta cảm thấy ngón tay nhúc nhích hay rần rần bên trong. Sự nhúc nhích hay rần rần này chính là yếu tố gió.

Như vậy, chỉ có: Cứng mềm, dính hút, nóng lạnh, và chuyển động hay chỉ có đất, nước, lửa, gió, chứ không có ngón tay.

Bây giờ, tôi nhúc nhích ngón tay. Khi tôi nhúc nhích, tôi nói: ngón tay nhúc nhích. Điều này đúng. Ngón tay là có thật theo Tục Đế. Nhưng theo Chân Đế, ngón tay không thật. Nói rằng: Ngón tay nhúc nhích, là không đúng. Nhúc nhích chỉ là sự chuyển động hay gió. Gió không phải là ngón tay.

Mỗi khi ngón tay nhúc nhích thì: Ngón tay là Tục Đế, sự nhúc nhích là Chân Đế. Sự nhúc nhích là chuyển động. Chuyển động là một hiện tượng vô tri, là Vật Chất hay Sắc.

Gió bên ngoài là Vật Chất, là vô tri, gió bên trong cũng là Vật Chất, là vô tri, và sự chuyển động là đặc tính của gió, là Vật Chất, là hiện tượng vô tri.

Trong khi thực hành Thiền Minh Sát, chúng ta phải quán sát Chân Đế chứ không quán sát Tục Đế. Chúng ta không quán sát ngón tay mà chỉ quán sát những gì diễn biến bên trong ngón tay chúng ta. Chúng ta chỉ quán sát sự chuyển động hay chất gió, chứ không quán sát ngón tay.

Mỗi khi ngón tay chuyển động có hai sự thực: một là Tục Đế, một là Chân Đế. Ngón tay là Tục Đế, sự chuyển động là Chân Đế. Nếu chúng ta lầm lẫn, cho sự chuyển động là ngón tay là chúng ta đã có quan kiến sai lầm hay tà kiến. Tà kiến là nhận định sai lầm, trái với chánh kiến. Nếu ta biết rằng: ngón tay là một chuyện, sự chuyển động là một chuyện khác, thì ta có chánh kiến.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Chân Đế - Tục Đế

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

V. VẬT CHẤT (Thân) VÀ TÂM
1. Đây là khúc gỗ và đây là một cục bông gòn.

Nếu sờ vào khúc gỗ, ta cảm thấy cứng. Sự cứng của gỗ là vô tri, là Vật Chất, là chất đất. Đôi khi sờ vào cơ thể, ta thấy cứng. Sự cứng của cơ thể là vô tri, là Vật Chất, là chất đất (pathavī dhātu).

Nếu sờ vào bông gòn, ta cảm thấy mềm. Sự mềm của bông gòn là vô tri, là Vật Chất, là chất đất. Đôi khi sờ vào cơ thể, ta thấy mềm. Sự mềm của cơ thể là vô tri, là Vật Chất, là đất (pathavī dhātu).

Chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận cứng là đất, nhưng chúng ta phân vân khi chấp nhận mềm cũng là đất. Mềm thật sự cũng là đất. Nếu so sánh một vật mềm với một vật khác mềm hơn thì vật mềm trước trở thành vật cứng. Nếu so sánh vật mềm sau với một vật mềm hơn nữa thì vật mềm sau này lại trở thành cứng. Vậy sự mềm cũng vô tri, là Vật Chất, là chất đất.

Bất kỳ lúc nào chúng ta sờ vào cơ thể mình nếu thấy cứng hay mềm đó là Vật Chất, là vô tri. Sự nhận biết cứng mềm là tri giác hay Tâm. Cứng, mềm là Vật Chất, là Sắc, thì không nhận biết, chỉ có Tâm mới có khả năng nhận biết. Vào lúc biết được sự cứng mềm của cơ thể, chỉ có Vật Chất và Tâm hiện diện. Cứng mềm là Vật Chất, biết được cứng mềm là Tâm, chẳng có tôi anh, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai chi cả.

Danh từ pathavī thường được dịch là "đất", nhưng chúng ta nên hiểu đó là "sự cứng mềm", đừng hiểu là đất theo nghĩa thông thường.

2. Giả sử, chúng ta có lửa và một cục nước đá, nếu đưa tay gần lửa ta cảm thấy nóng. Sự nóng của lửa là hiện tượng vô tri. Sự nóng của lửa không biết gì cả, đó là Vật Chất, là chất lửa. Sự nhận biết được nóng lạnh là Tâm, là sự nhận biết.

Đôi khi ta cảm thấy cơ thể mình nóng. Sự nóng của cơ thể là vô tri, là Vật Chất, là chất lửa (Tejo). Sự nhận biết được nóng lạnh là Tâm, là sự nhận biết.

Khi sờ vào nước đá, chúng ta cảm thấy lạnh. Sự lạnh của nước đá là vô tri, là Vật Chất, là chất lửa (Tejo). Sự nhận biết được nóng lạnh là Tâm, là sự nhận biết.

Tương tự như thế, đôi khi rờ vào cơ thể, cơ thể lạnh. Sự lạnh của cơ thể cũng là hiện tượng vô tri, là Vật Chất, là chất lửa. Sự nhận biết được nóng lạnh là Tâm, là sự nhận biết.

Bởi thế, vào lúc chúng ta biết được sự nóng lạnh trên cơ thể, chỉ có Vật Chất và Tâm mà thôi; chẳng có tôi, anh, đàn ông, đàn bà chi cả.

Chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận nóng là lửa, nhưng chúng ta phân vân khi chấp nhận lạnh cũng là lửa. Lạnh thật sự cũng là lửa. Nếu so sánh một vật lạnh với một vật khác lạnh hơn thì vật lạnh trước trở thành vật nóng. Nếu so sánh vật lạnh sau với một vật lạnh hơn nữa thì vật lạnh trước trở thành nóng. Vậy sự lạnh cũng là lửa.

Danh từ Tejo thường được dịch là "lửa", nên hiểu là nhiệt độ đừng hiểu là lửa theo nghĩa thông thường. Tejo bao gồm cả nóng và lạnh nên chữ nhiệt độ rất thích nghi để dịch danh từ này.

3. Gió thổi bên ngoài khó nhận biết được. Chúng ta chỉ nhận biết được gió khi thấy lá cây rung động. Khi thấy sự lay động ta biết có gió. Gió bên ngoài là vô tri, là Vật Chất, là chất gió. Gió bên trong cũng vô tri, là Vật Chất, là chất gió (Vāyo) .

Tương tự như vậy, khi ta máy động tay chân, dù ta dùng danh từ co, duỗi v.v... thì đó cũng là sự chuyển động, là gió (Vāyo).

Chúng ta dễ dàng chấp nhận gió bên ngoài là một hiện tượng vô tri. Nhưng chúng ta ngần ngại khi chấp nhận sự chuyển động trong cơ thể cũng vô tri. Chúng ta nghĩ rằng: đây là cái tay di chuyển, đây là cái chân nhúc nhích. Nhưng nói như vậy không đúng sự thật. Gió bên ngoài là hiện tượng vô tri, là Vật Chất, là chất gió; cũng vậy, gió bên trong cũng là hiện tượng vô tri, là Vật Chất, là chất gió.

Chuyển động bên ngoài hay bên trong cơ thể đều là hiện tượng vô tri, là Vật Chất. Nhận biết được sự chuyển động là Tâm. Bởi thế, vào lúc chúng ta biết được sự chuyển động, chỉ có Vật Chất và Tâm hay Danh và Sắc mà thôi; chẳng có tôi, anh, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái chi cả.

Giả sử chúng ta thổi hơi vào bong bóng. Bong bóng có thể giữ được hình dáng của nó nhờ có sự nâng đỡ của gió. Cũng vậy, chúng ta có thể ngồi theo ý ta nhờ có gió nâng đỡ. Nếu không có sự nâng đỡ của gió chúng ta sẽ ngã.

Ngồi là chức năng nâng đỡ của gió. Đó là hiện tượng vô tri, là Vật Chất, là chất gió. Nhận biết sự chuyển động, nhận biết sự nâng đỡ là Tâm. Như vậy, khi chúng ta nhận biết có chuyển động, có nâng đỡ trong cơ thể thì chỉ có Vật Chất và Tâm hiện diện mà thôi. Chẳng có tôi, anh, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai chi cả.

Danh từ Vāyo thường được dịch là "gió", nên hiểu là sự chuyển động, sự nâng đỡ, đừng hiểu theo nghĩa gió thông thường.

Khả năng kết dính ba mươi hai Thể Trược lại với nhau, hay khả năng làm cho các yếu tố Vật Chất dính kết vào nhau gọi là sự dính hút hay chất nước. Chất nước rất tế nhị. Chúng ta không thể nhận biết hay sờ chất nước. Chúng ta chỉ có thể nhận biết chất nước bằng Tâm, hay nhận được đặc tính của nước qua ba chất kia.

Danh từ Apo thường được dịch là "nước", nên hiểu nước là sự dính hút, đừng hiểu nước theo nghĩa thông thường.

Theo Chân Đế, chỉ có "cứng mềm, dính hút, nóng lạnh, và chuyển động" thực sự hiện diện trong cơ thể chúng ta, được gọi là tứ đại. Đó là những yếu tố hay chất chính tạo thành Vật Chất hay Sắc. Ngoài ra còn có những Sắc nhỏ khác như: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, màu sắc, mùi, vị v.v... nếu tổng hợp các Vật Chất lại chúng trở thành một. Đó là những hiện tượng vô tri. Nếu tổng hợp hết các Tâm và các đặc tính của Tâm, chúng cũng trở thành một. Đó là sự nhận biết. Chỉ có hiện tượng nhận biết và hiện tượng vô tri, nghĩa là chỉ có Thân và Tâm, hay Vật Chất và Tâm, Danh và Sắc, mà chẳng có tôi, anh, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai chi cả. Nhận biết được như vậy là biết được Vật Chất và Tâm hay Danh và Sắc, biết được Chân Đế và Tục Đế.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.87 khách