Đối trị tam chướng - Chiến thắng ma vương

Mời các bạn thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì Phật giáo Nam truyền.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Đối trị tam chướng - Chiến thắng ma vương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐỐI TRỊ TAM CHƯỚNG
(Trích "Con Đường Hạnh Phúc", Viên Minh và Trần Minh Tài, trang 91 - 100)


Chúng ta thường nghe người Phật tử phát nguyện rằng: "Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não, nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu...". Như vậy chướng chướng là gì? Phiền não là gì? Và trí tuệ có tác dụng như thế nào?

Tam chướng được dịch từ chữ Pali: Tayokincanaa. Ba điều ấy là tham, sân và si. Tam chướng đôi khi còn được gọi là bất thiện căn. Chính ba điều chướng ngại này là nguyên nhân của tất cả mọi khổ đau, khiến cho chúng sinh chìm đắm trong vòng luân hồi sinh tử. Kết quả gây ra bởi tam chướng gọi là phiền não. Chỉ có trí tuệ thấu triệt được chân tướng của vạn hữu mới có thể tiêu diệt được tam chướng và khử trừ được phiền não.

Tham, sân, si hiện hành trong mỗi chúng ta dưới hai hình thức: Thô tướngVi tế. Vậy chúng ta hãy lần lượt phân tích từng hình thức của mỗi bất thiện căn và cách diệt trừ.

1. Trước hết là tham chướng: Dưới hình thức thô tướng, tham biểu lộ ra ngoài bằng nhiều cử chỉ hay thái độ khác nhau, khiến cho người khác có thể thấy được, như hành động trộm cắp, rượu chè, tà hạnh. Dưới hình thức vi tế, tham trở thành một tiềm thức ngủ ngầm trong tâm khảm của mỗi chúng ta, thường được gọi là thùy miên. Chúng ta khó có thể nhận biết được tiềm năng vi tế của tham tâm. Nhưng chính vì thế mà nó đã tạo ra những ảnh hưởng cho tiến trình giải thoát.

Muốn diệt trừ thô tướng của tham tâm, người Phật tử phải trì giới và bố thí. Khi giữ giới không trộm cắp, không tà hạnh v.v... chúng ta đã ngăn ngừa không để cho tham tâm bộc phát ra ngoài bằng cử chỉ thái độ thô thiển. Tích cực hơn, chúng ta tập bố thí để phát triển tâm quảng đại hy sinh. Nhờ đó mà thay vì tham lam vơ vét của cải kẻ khác, chúng ta lại giúp đỡ, ban bố cho mọi người.

Chúng ta có thể trộm cắp để bố thí được không? Điều đó quả thật không đáng khuyến khích, vì lòng vị tha quảng đại không thể phát triển đến chỗ toàn thiện bằng chính tâm tham lam, ích kỷ. Vì vậy trong khi bố thí và trì giới, chúng ta phải có một ý tưởng rõ rệt là mong sao cho tham ái sớm được diệt trừ.

Đối với tham vi tế, chúng ta phải dùng đến thiền định để chế phục và trí tuệ để đoạn diệt.

2. Thứ hai là sân chướng. Dưới hình thức thô tướng, sân bộc lộ ra ngoài bằng những hành động, lời nói hay sắc diện của mỗi người khiến kẻ khác có thể thấy được, như nét mặt xám lại, tim đập mạnh gấp, bắp thịt co lại và hiếu động; vì thế mà lúc nóng giận thường hay cãi vả, đánh đập, phá phách...

Sân vi tế phát hiện dưới hình thức tiềm năng, khó nhận biết được. Đôi lúc vì không biết nguyên cớ gì chúng ta cảm thấy chán nản buồn bực mà không hiểu tại sao. Đó chính là sân vi tế. Những tình cảm này xuất hiện yếu ớt đến nỗi chúng ta chỉ có thể cảm nhận được một cách mơ hồ hay có khi không nhận biết được. Tuy nhiên, đó là hình thức vi tế của sân tâm mà ít nhất chúng ta phải đắc quả A la hán mới có thể diệt trừ được.

Muốn đối trị thô tướng của sân tâm, ta phải giữ giới, nhất là giới không sát sanh và không ác ngữ, tập tính nhẫn nhục và từ bi. Nhẫn nhục không phải là nhịn nhục vì một áp lực từ bên ngoài, mà là một thái độ sáng suốt, phát xuất từ nơi tâm để cố gắng giữ bình tĩnh và thản nhiên trước những lời thách đố, chỉ trích, mắng nhiếc, hay đánh đập của kẻ khác.

Mặt khác, chúng ta phải phát triển lòng từ bi. Đức Phật đã dạy cho chúng ta một chân lý không thể chối cãi được: "Sân hận không bao giờ dập tắt được sân hận, chỉ có lòng từ bi mới thắng được hận thù".

Đối với sân vi tế, chúng ta phải dùng đến phương pháp thiền định với đề mục tâm từ, tức là rải tâm trong lành, hiền hòa, mát mẻ đến kẻ khác, nguyện cho kẻ khác được an vui, ngay những kẻ thù địch với chúng ta cũng được hạnh phúc. Rốt ráo hơn, ta phải dùng đến pháp quán tâm, phương cách nội quán của Phật giáo để phân tích những hoạt động sâu kín nhất của tâm giới, vạch trần những sân niệm vi tế nhất để loại trừ.

3. Cuối cùng là si chướng: Dưới hình thức thô tướng, si hiển hiện qua hành động và lời nói của kẻ ngu ngốc. Những người này thường bảo thủ ý kiến của mình, bướng bỉnh, thành kiến, cố chấp, lãnh hội chậm, và có vẻ mặt đần độn si mê. Ý kiến của họ thường là tà kiến, nghĩa là phản lại với chân lý.

Dưới hình thức vi tế, si mê là chưa thực sự nhận chân được thực tướng của vạn hữu. Si mê thường hiện hữu dưới hình thức vi tế có gốc rễ sâu kín trong kiếp trầm luân. Nó vừa là động lực vừa là hậu thuẫn cho tham và sân. Lòng tham ái bám víu trong dục lạc, lòng tham ái muốn được hiện hữu và lòng tham ái cho rằng "chết là hết" đều là hiện thân của vô minh trong cõi luân hồi sinh tử.

Phương pháp đối trị thô tướng của si tâm là cải thiện kiến thức bằng cách học hỏi, rèn luyện tri thức bằng cách suy tư. Một người nhờ biết học hỏi, biết lắng nghe, biết suy tư về đạo lý có thể cải thiện tri kiến của mình để loại dần những thô tướng của si tâm.

Đối với si vi tế, chúng ta dùng đến phương pháp phát triển trí tuệ bằng cách hành trì. Hành trì ở đây ám chỉ hai phương diện của thiền định là "Chỉ" và "Quán". "Chỉ" giúp cho tâm thanh tịnh mở đường cho "Quán", phát huy trí tuệ tối thắng trực nhận chân lý.

Tham, sân, si đúng như tên gọi của nó: tam chướng đã ngăn trở chúng sanh trên tiến trình giải thoát. Muốn diệt tận ba bất thiện căn này, người Phật tử phải luôn luôn cố gắng kiên trì không bao giờ lùi bước.

Một phi thuyền không gian muốn lên đến mặt trăng phải trải qua một hành trình xa xăm và hiểm trở, nếu các phi hành gia không khéo léo điều khiển, các nhà bác học tính toán sai một ly một khắc thì không những phi thuyền không đi tới đích, các nhà khoa học không đạt tới mục tiêu mà các phi hành gia còn bị nguy hiểm đến tính mạng. Tuy thế cũng chưa nguy hiểm và khó khăn bằng những người đi từ bờ mê đến bến giác. Họ phải vượt qua một hành trình lâu dài không tính được bằng năm, bằng tháng, và phải đối đầu với một thứ sóng gió bão bùng luôn luôn nội tại trong chính bản thân họ. Vì vậy, nếu họ không bền chí, tinh cần, nếu thuyền giới định tuệ của họ không bền vững, kiên cố, thì làm thế nào vượt qua được bể khổ trầm luân?

Chông gai thường làm chùn bước những kẻ thiếu quyết tâm, nhưng là chất liệu nung đúc tinh thần những người kiên trì, ví như bùn nhơ làm cho hương sen thêm tinh khiết, sỏi đá làm cho vị nho thêm ngọt ngào. Đừng than rằng: "Bông hồng kia sao quá nhiều gai, chỉ sợ trên những gai kia không có được đóa hồng. Nếu biết rằng cuối nẻo đường tu đang có một đóa hoa Vô ưu thắm tươi trí tuệ, tỏa ngát hương từ,sẵn sàng chờ đón; thì ngại ngùng chi, chúng ta không vội vã rút ngắn quãng đường để sớm được đón nhận đóa ưu đàn tuyệt thế?"

Tóm lại, muốn tiêu trừ nghiệp chướng và phiền não, muốn có được trí tuệ chơn minh liễu, chúng ta phải tinh tấn, kiên trì hành theo giới, định, tuệ, con đường duy nhất đưa chúng sanh từ bờ mê đến bến giác.

CHIẾN THẮNG MA VƯƠNG

Nhân ngày Thành Đạo, chúng ta thử đưa ra một vài nhận định về cuộc đại thắng ma quân của Bồ Tát Tất Đạt Đa để hiểu thêm phần nào ý nghĩa ngày lễ trọng đại này.

Khi nói đến Phật chiến thắng Ma Vương, hầu như mọi người đều tưởng tượng hình ảnh quỷ sứ sừng nhọn, răng nanh, đầu trâu, mặt ngựa vô cùng kinh khiếp kéo đến bao vây ngài và ngài cũng dùng phép thần thông để chống cự; sau một hồi chiến đấu cam go bằng quyền phép nhiệm mầu, ngài đã hàng phục ma quân một cách vẻ vang oanh liệt.

Chữ Ma Vương theo nghĩa Phật giáo, không phải chỉ có nghĩa giản dị như thế. Ma Vương có năm loại:

  • 1. Phiền não ma.
    2. Ngũ uẩn ma.
    3. Pháp hành ma.
    4. Tử diệt ma.
    5. Chư thiên ma.
Cả năm thứ ma trên đều làm trở ngại cho tiến trình giác ngộ. Vì vậy, hễ chiến thắng ngũ ma, nhất là ma phiền não là đã thành công trong cứu cánh giải thoát. Chúng ta sẽ tìm hiểu ngũ ma là gì; và đức Phật đã chiến thắng những ma quân ấy như thế nào?

1. Phiền não ma:

Chúng ta hãy lưu ý đoạn kinh sau đây:

"Này ma vương, dục lạc là ma quân thứ nhất của ngươi, thứ hai là bất mãn, ba là khao khát, bốn là ái dục, năm là hôn trầm thụy miên (uể oải, buồn ngủ), sáu là sợ hải, bảy là hoài nghi, tám là phỉ báng và cố chấp, chín là danh lợi và mười là quá mạn (tự cao tự đại, kênh kiệu...). Này ma vương, hùng binh của ngươi là thế. Chúng luôn luôn thường trú trong con người xấu xa đê tiện; kẻ hèn yếu thì thất bại, nhưng người hàng phục nào được chúng sẽ đạt được chân hạnh phúc... Ta thà chết trên chiến trường còn hơn sống thất bại..."

Đọc đoạn kinh trên, nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy Đức Phật dùng chữ "ma vương" với nghĩa phiền não vì chúng nội tại trong những con người xấu xa đê tiện và xuất hiện dưới hình thức các tâm và tâm sở bất thiện như tham, sân, lười biếng, nghi ngờ, sợ hãi... hay dưới những nhu cầu thể xác như đói khát, ngủ nghỉ... Chúng sanh yếu hèn nên luôn luôn bị chi phối bởi những chướng ngại tâm sinh lý này. Nhưng Bồ Tát với ý chí kiên trì, ngài đã chiến thắng tất cả ma chướng ấy.

Phải chăng đức Phật đã dùng thần thông biến hóa, quyền phép nhiệm mầu hay nhờ một trợ lực từ bên ngoài để chiến thắng ma quân? Phải chăng Ngài chỉ chiến đấu có một lần dưới cội cây Bồ Đề ở Bodhigaya (Bồ đề đạo tràng) mà có thể hàng phục được binh ma tướng quỉ hàng hàng lớp lớp?

Đời sống của Đức Phật chứng minh rằng trừ những trường hợp tối cần, ngài ít khi dùng đến thần thông, vì ngài không muốn môn đệ hay kẻ ngoại đạo quy y Ngài vì quyền phép nhiệm mầu, mà họ phải đến với ngài vì lý tưởng giải thoát mà thôi.

Vả lại, chủ trương của đức Phật là chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ bằng những đức độ cao dày mà Ngài tu tập trong vô lượng kiếp, chứ không bao giờ dùng quyền uy của kẻ mạnh để chiến thắng quân thù. Như thế đức Phật không hàng phục ma vương bằng thần thông quảng đại mà bằng Ba la mật lực của ngài. Sức mạnh Ba la mật chính là những đặc tính: bố thí, trì giới, xuất gia (ly dục) tinh tấn, trí tuệ, nhẫn nại, cương quyết, chân thật, tâm từ và tâm xả (mười Ba la mật). Bồ Tát đã tu hạnh Ba la mật, những đức tính cao quý vượt hẳn thế tục này, trong vô lượng kiếp, nghĩa là trong vô lượng cuộc chiến đấu ma vương đã diễn ra liên tục và ngài đã trải qua không biết bao nhiêu là thắng bại, cho đến lần cuối cùng, khi công hạnh đầy đủ, trí tuệ cụ túc, ngài đã toàn thắng ma vương, không bao giờ thất bại nữa.

Vậy chiến thắng phiền não ma là chiến thắng nội tâm mình, chiến thắng chính mình và chỉ có sự thắng trận này mới đáng kể hơn cả: "Tự thắng mình quả thật thập phần vẻ vang hơn chiến thắng kẻ khác. Dầu Trời, Càn Thát Bà, Ma Vương hay Phạm Thiên, không ai có thể đánh bại con người đã khắc phục và sống tự chế". (Pháp cú kinh 104, 105).

2. Ngũ uẩn ma:

Một khi phiền não ma đã bị đánh bại hoàn toàn thì những ma vương khác cũng đều chịu hàng phục. Ngũ uẩn ma chính là vọng tưởng về bản ngã, nói một cách khác đó là ngã chấp. Bản ngã theo Phật giáo chỉ là vọng huyễn, vô tưởng hay ảo giác. Không có một cái ta trường tồn vĩnh cữu, mà chỉ có một sự kết hợp của nhiều yếu tố chi phối bởi định luật vô thường.

Cái mà phàm nhân gọi là ta, theo ý nghĩa thực của nó (chân đế) là ngũ uẩn, một hữu thể gồm năm yếu tố: sắc, thọ, tưởng, hành và thức (vật chất, cảm giác, tri giác, những tạo tác của tâm ý và thức). Năm yếu tố ấy duyên nhau mà sanh, duyên nhau mà diệt, rồi lại duyên cảnh trần mà biến đổi để tạo thành một dòng tiến trình liên tục trong bể khổ trầm luân. Vì sự sinh diệt quá phức tạp của kiếp sống nên con người cứ mãi nuôi vọng chấp hữu ngã, hữu nhân để làm nô lệ cho những ma chướng, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, khó thoát ra được.

Với trí tuệ siêu phàm, đức Phật đã thấy rõ cái ta chỉ là ngũ uẩn, có hợp, có tan, vô thường biến đổi, nên ngài đã phá được ma chướng ngã chấp. Đó chính là cảm thắng ngũ uẩn ma vậy.

3. Pháp hành ma:

Pháp hành có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng ở đây ám chỉ những hành động tạo nghiệp của thân, khẩu, ý. Có ba loại hành là:

  • - Phước hành: Những nghiệp thiện, như bố thí, trì giới, tham thiền, từ bi, hỷ xả v.v....

    - Phi phước hành: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, ganh tị, bủn xỉn, cố oán....

    - Bất động hành: Hành vi không thiện ác.
Những nghiệp thiện ác này phát xuất từ phiền não và lại đóng một vai trò quan trọng trong việc huân tập phiền não, bởi thế khổ đau càng ngày càng tích lũy, kiếp luân hồi mỗi lúc một gia tăng. Vậy chiến thắng pháp hành ma tức là tiêu diệt sự hình thành của nghiệp, giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thiện ác như Đức Phật đã dạy trong Samyutta Nikàya (Tương Ưng): "Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà nghiệp hình thành, đó là căn nguyên của mọi đau khổ. Đoạn diệt được tham, sân, si tức là hủy diệt động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ phải chấm dứt". Đức Phật và các vị A La Hán là những bậc đã đoạn tận được sự chi phối của nghiệp, tức là đã hàng phục được pháp hành ma vậy.

4. Tử diệt ma:

Đã là chúng sanh, còn thân ngũ uẩn tức phải có sanh, có tử. Trong kinh Pháp cú, Ngài cũng dạy: "Chẳng phải bay lên trời, chẳng phải lặn xuống đáy biển, chẳng phải trốn vào hang sâu núi thẳm, không bất cứ nơi nào trên thế gian nầy có thể thoát khỏi tử vong".

Dù Đông phương hay Tây phương, ai ai cũng phải nhìn nhận chân lý hiển nhiên đó. Nhân loại dù có văn minh đến đâu, y học dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể tìm được một phương thức nào, một linh dược nào có thể giúp con người thoát khỏi tử vong: "Không ai tránh khỏi sự chết".

Thật ra, mỗi một chúng ta đang chết dần từng giây, từng phút, chứ không phải chỉ đến lúc nhắm mắt xuôi tay mới gọi là chết. Mỗi một điểm nhỏ thời gian trôi qua, chúng ta đã già đi một ít. Nhưng sự biến đổi quá nhanh chóng nên ta không nhận chân ra được.

Bao lâu chúng sinh còn vô minh, ái dục, phiền não, ô nhiễm thì vẫn còn bị chi phối bởi định luật tử sinh. Trái lại đức Phật đã diệt tận vô minh nên không còn hành, tức không còn tạo nghiệp. Không có hành nên thức không sanh. Thức không sanh nên danh sắc, tức thân tâm không sanh. Thân tâm không sanh thì làm gì có lục nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có lục nhập thì không có sự xúc chạm. Không có sự xúc chạm thì không sinh ra thọ vui, thọ khổ. Không cảm giác có vui, khổ thì không có ái, tức không sinh ra yêu ghét. Không yêu ghét thì không có chấp thủ, muốn có, bám víu, giữ chặt... Không có thủ thì không có hữu, không có sinh, không già, chết. Đức Phật không còn vô minh, ái dục... nên đã thoát ra khỏi tử sinh tức Ngài đã chiến thắng được tử thần ma.

5. Chư Thiên ma:

Trong năm loại ma vương, chỉ có chư thiên ma là maquân từ bên ngoài, còn bốn loại kể trên đều là nội ma cả. Nhưng ngoại ma này không quan trọng bằng các nội ma, do đó Đức Phật dạy: "Dù thắng vạn quân ở chiến trường không bằng thắng chính mình, vì đó là chiến thắng cao thượng nhất". Chư thiên ma là những vị trời, những vị quỷ thần tà kiến hay chúng sinh trong cảnh giới A tu la, Dạ xoa... Những hạng phi nhơn này có khi ủng hộ, có lúc phá phách những bậc tu hành ở nơi thanh vắng.

Những người kém đức sẽ khiếp sợ và thối chuyển, nhưng những bậc đức độ cao dầy, ý chí sắt đá không những không khiếp nhược trước ma quân mà còn đem lòng từ, bi, hỷ, xã của mình để hóa độ họ trở về chánh đạo. Trong kinh có ghi lại nhiều trường hợp đức Phật cảm hóa loài ma vương này, như trường hợp Ālāvaka hay long vương Nandopananda... sau khi thi triển thần lực đều quy phục trước đức Bi - Trí - Tịnh vô song của đức Phật. Chính vì thế mà ngài được xưng là bậc Thầy Trời và Người. Chư Thiên ma cũng còn có nghĩa là ước vọng của người muốn trở thành chư thiên hay muốn lên cõi trời để hưởng lạc. Ước vọng đó cũng là một ma chướng nội tại cản trở bước tiến của chúng ta đến bờ giác ngộ.

Tóm lại hành trình giải thoát, chúng ta sẽ phải noi gương đức Phật để phấn đấu với ngũ ma từng giờ, từng phút cho đến lúc nào toàn thắng được tất cả ma quân mới có thể trở thành bậc Giác Ngộ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.107 khách