- QUAN SÁT VÀ VƯỢT QUA PHIỀN NÃO
Thiền sinh: Thưa thầy, có khi nào như thế này được không: tâm có phiền não nhưng cũng đồng thời có trí tuệ hay biết rằng phiền não đang có mặt, và cả sự thư giãn, thanh thản ngay giữa sự hay biết ấy?
Thiền sư: Có, có thể được, khi phiền não được hay biết một cách rõ ràng chỉ như một đề mục, khi có sự hiểu biết rõ ràng như thế thì có thể được chứ. Chính vì vậy tôi vẫn thường nhắc các thiền sinh hãy quan tâm chú ý nhiều hơn đến cách mình quan sát đề mục như thế nào. Nếu biết quan sát một cách đúng đắn, nếu tâm quan sát không bị nhiễm phiền não thì họ có thể quan sát phiền não một cách hoàn toàn khách quan, không thiên vị. Rất nhiều thiền sinh nói rằng họ đã làm được như thế, họ giữ được trạng thái tâm quan sát riêng hẳn ra, tách biệt với phiền não; họ cũng thể hiện rõ ràng sự cảm nhận hoàn toàn không có phiền não trong tâm quan sát đó.
Thiền sinh: Đó là cảm giác thanh thản và giải thoát ngay cả khi đang có phiền não phải không ạ?
Thiền sư: Đúng thế, họ có thể thấy rất rõ rằng những phiền não đó chẳng có liên quan gì đến "mình" cả. Đó chính là lúc sự hiểu biết về vô ngã đang có mặt.
Thiền sinh: Khi phiền não được quan sát như thế thì nó có còn là phiền não nữa không?
Thiền sư: Có thể có hai phương diện, hai tính chất khác nhau của trí tuệ đang làm việc. Có thể đó là trí tuệ giải phóng tâm quan sát khỏi quá trình tự đồng hóa với phiền não, và do đó mang lại sự giải thoát trong quan sát ấy. Nhưng nếu chỉ nhìn nó thôi thì phiền não cũng không thể biến mất được. Chỉ khi nào hiểu được chính bản thân phiền não đó, chỉ khi hiểu thấu hoàn toàn được nó, thì nó mới ra đi thực sự.
Thiền sinh: Xin thầy giảng thêm về ba cấp độ của phiền não.
Thiền sư: Khi bạn không thấy bất cứ phiền não nào trong tâm, lúc đó chúng chỉ tồn tại như là những tiềm năng bên trong, và được gọi là phiền não tùy miên hay phiền não ngủ ngầm
(Anusaya). Ở cấp độ này phiền não bị ẩn dấu và chúng ta không thể hay biết được chúng. Chúng ta chỉ có thể quan sát được phiền não khi chúng nổi lên trên bề mặt của tâm thức - đó chính là cấp độ thứ hai - và khi chúng đã thể hiện ra ngoài thành hành động và lời nói thì đã trở thành cấp độ thứ ba. Tiếng Pali, phiền não ở cấp độ thứ hai được gọi là
Pariyutthāna, và cấp độ thứ ba được gọi là
vītikhama.
Thiền sinh: Như vậy phiền não ở cấp độ thứ nhất là không thể thấy được được và chúng luôn luôn chỉ muốn làm chủ mình?
Thiền sư: Đúng, chúng chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, và chỉ sanh khởi lên khi có đủ các nhân duyên cần thiết cho chúng sinh khởi. Khi đã khởi lên, chúng được gọi là
Pariyutthāna. Chỉ có các tuệ giác ở cấp độ đạo quả mới có thể đoạn trừ được loại phiền não ngủ ngầm này.
- HIỂU TÂM TỪ (Mettā bhāvanā)
Thiền sinh: Hình như thầy không khuyến khích việc thực hành thiền tâm từ. Thầy có cho rằng thiền tâm từ là không thích hợp đối với các thiền sinh đang hành thiền Vipassanā không?
Thiền sư: Không phải tôi nói rằng nó không thích hợp. Nhiều lúc nó rất có ích lợi đấy chứ. Thầy tôi cũng thường dạy tôi thực hành thiền tâm từ trong một số giai đoạn nhất định của pháp hành. Thực sự thì nó phụ thuộc vào cá nhân từng thiền sinh. Có rất nhiều pháp hành nhập môn lúc ban đầu cho thiền tập. Đối với một số người, đức Phật dạy họ thiền tâm từ để bắt đầu bước vào thiền, nhưng ngài cũng dạy những người khác bắt đầu từ thiền Tứ Niệm Xứ.
Khi thực hành thiền Tứ Niệm Xứ
(thiền Vipassanā) bạ phải thực hành với một cách suy nghĩ rằng: mình hành thiền không phải là để cố tạo nên một cái gì cả. Đừng cố tạo nên các kinh nghiệm, hãy tiếp nhận các kinh nghiệm hay những sự việc diễn ra đó như nó đang là và hãy cố gắng học hỏi từ nó. Nhưng thiền tâm từ làm gì? Thiền tâm từ là để cố tạo ra một cảm giác từ bi. Có thể bạn đang tức giận một ai đó, nhưng bạn lại cố gắng cảm nhận và trải tâm từ bi tới người đó.
Đối với một số người, hành thiền tâm từ trong lúc đang tức giận như vậy lại có thể tạo nên những xung đột tâm lý ở bên trong. Đối với những người như thế thì thiền tâm từ lại không có tác dụng. Cái thực đang có là tâm sân, và nếu chỉ cố gắng dùng tư duy tri thức để trấn áp nó thì không thể được. Tôi đã từng thử rải tâm từ đến cho những người mà tôi đang ghét, nhưng bây giờ thì trí tuệ của tôi lại không chấp nhận điều đó. Trí tuệ nói với tôi rằng: "Hãy sống thực với chính mình! Hãy quan sát cái tâm sân ấy! Hãy hiểu biết cái tâm sân ấy!" Hình như khi cố rải tâm từ như thế, cái tâm mình nó lại đang tự lừa chính nó. Trước kia tôi đã từng thực hành thiền tâm từ rất nhiều, thậm chí hành thiền suốt cả đêm và nhập vào tầng thiền chỉ (với đề mục tâm từ), ngập tràn trong hỷ lạc suốt cả một ngày như vậy, nhưng nó chẳng làm tôi trở thành một con người ít sân hơn chút nào. Khi ngừng lại không thực hành tâm từ nữa, tôi lại sân trở lại y như cũ.
Sau khi thực hành thiền
Vipassanā nhiều năm trời trong cuộc sống tại gia, liên tục quan sát tất cả các sinh hoạt tâm của mình, tôi mới bắt đầu kinh nghiệm được những khoảng thời gian mà tâm mình thực sự không còn chút sân hận nào trong đó. Khi đó thật là dễ dàng rải tâm từ cho tất cả mọi người - không có vấn đề gì cả. Thầy tôi thường ngồi thiền cho đến khi tâm ngài trở nên thực sự bình an và chỉ khi đó ngài mới rải tâm từ. Bởi vì chỉ khi đó mới có được tâm từ thực sự. Chỉ khi nào có tiền trong túi thì bạn mới bố thí được cho người...
Khi tâm không còn sân hận, nếu gặp một người ngang bằng, đồng cảnh ngộ như mình, nó sẽ cảm nhận được lòng từ
(Mettā). Khi gặp một người đang gặp cảnh ngộ khó khăn hơn, nó làm khởi lên lòng bi mẫn
(Karunā), khi gặp một người đang thuận lợi, bạn sẽ cảm nhận được tâm hỷ
(Muditā), còn khi ở vào hoàn cảnh mà bạn chẳng thể làm được gì hơn để giúp họ, nó sẽ là tâm xả
(Upekkhā). Nhưng nếu trong tâm vẫn còn lại dù chỉ một chút xíu sân thôi, thì tất cả những trạng thái tâm từ, bi, hỷ, xả ấy cũng chẳng thể nào sanh khởi lên được nữa. Khi tâm sáng suốt và không còn sân hận, bạn cũng sẽ rất dễ thực hành được những pháp hành khác. Nếu nhìn vào một bức hình đức Phật, bạn cũng sẽ cảm nhận được lòng kính tin đối với ngài, bởi vì giờ đây tâm bạn đang ở trong một trạng thái tốt đẹp. Khi đó bạn đang tự động thực hành pháp hành niệm tưởng ân đức Phật
(Buddhānussati) một cách tự nhiên.
Có ba cách để bạn có thể nhìn thấy được đức Phật:
- Nhìn bằng mắt.
- Nhìn bằng tâm (tưởng tượng hình ảnh của ngài trong tâm mình).
- Nhìn bằng cách hiểu đức Phật bằng trí tuệ của chính mình.
Chính vì thế đức Phật mới nói rằng: "Người nào thấy pháp sẽ thấy ta". Nhiều người sống cùng với đức Phật mà chẳng hề thực sự thấy ngài bao giờ. Có lần đức Phật đã phải bảo một người đệ tử đi chỗ khác (để hành thiền), bởi vì ông này suốt ngày chỉ ở loanh quanh bên cạnh để nhìn ngắm ngài cho thỏa thích.
Loại tâm từ tôi muốn bạn có được là loại tâm từ thực sự, chứ không phải là loại tâm từ bạn cứ phải cố nặn ra cho mình hay cho người khác. Khi không còn sân hận, tất cả tâm từ, bi, hỷ, xả đều có được cả, khi đó bạn có thể rải tâm từ bao nhiêu cũng được. Tâm từ khởi nguồn từ vô sân, chính vì vậy, điều quan trọng hơn là hãy ghi nhận, quan sát và thấu hiểu tâm sân hơn là cố gượng ép thực hành thiền tâm từ. Tôi nhấn mạnh đến cách đối phó với tâm sân trước, bởi vì nó là thực.
Thiền sinh: Đôi khi con phải dùng đến thiền tâm từ mỗi khi mình đau khổ, khi đó con mới nhận ra rằng mình chẳng có chút từ bi đối với người nào cả, vì vậy con phải tự rải tâm từ cho chính mình để tâm mình trở nên thiện hơn đôi chút.
Thiền sư: Đúng, làm vậy cũng đúng. Bạn nên bắt đầu với chính mình bởi vì chỉ khi nào tự bạn cảm thấy an lạc bạn mới rải tâm từ được cho người khác. Tôi luôn luôn nhắc các thiền sinh khi rải tâm từ phải chánh niệm biết mình đang rải tâm từ ra sao. Tự quan sát chính mình khi rải tâm từ là bạn cũng đang thực hành cả thiền
Vipassanā rồi đấy. Hãy quan sát tâm mình đang làm việc, đang rải tâm từ, kiểm tra lại xem mình thực sự đang có tâm từ hay không. Nếu khi đó vẫn còn tâm sân thì bạn cũng nhận ra được ngay là rất khó rải tâm từ bạn còn đang giận dữ.
Thiền sinh: Nếu có thái độ chân chánh thì tâm từ thực sự có tự động khởi lên được không ạ?
Thiền sư: Có, nó khởi lên được mỗi khi bạn có trí tuệ - thái độ chân chánh chính là trí tuệ. Chính vì vậy tôi nhấn mạnh rất nhiều đến tầm quan trọng của trí tuệ, có trí tuệ thì mọi thứ đều có thể làm được. Tôi cố gắng đi từ chỗ quan trọng nhất đó, chứ không bắt đầu đi ngược từ dưới lên trên. Trong Tam học: Giới, Định, Tuệ, giới là nền tảng, định cao hơn và tuệ là cao nhất. Chỉ cố giữ giới mà không có định thì bạn cũng chẳng thể giữ được. Nhưng khi có định bạn sẽ thấy giữ giới rất dễ dàng, và khi có tuệ thì cả giới và định cũng sẽ tự động có mặt.
Giới có hai loại: Đầu tiên chúng ta phải cố gắng thu thúc, kềm chế không làm những hành động bất thiện. Loại giới thứ hai sanh khởi khi tâm đã hiểu ra được vấn đề, nghĩa là không cần phải cố gắng thu thúc, kềm chế nữa bởi vì sự ham muốn đã không còn hay chỉ còn lại rất ít. Cả tham và sân đã bị suy yếu, và đó chính là giới như là một tâm sở - giới tâm sở. Khi trí tuệ đích thực sanh khởi lên, nghĩa là khi đắc đạo quả, ngay lập tức giới trở thanh thanh tịnh và người hành giả liễu ngộ được Bát chánh đạo. Trong thời đức Phật, một số đệ tử có được tuệ căn phát triển ở mức độ rất cao. Bởi vì tuệ quá mạnh nên đôi khi chỉ cần nghe một vài câu pháp của đức Phật là đã đắc đạo quả liền.
Trong phương pháp thiền này, tôi ngày càng nhấn mạnh nhiều đến tầm quan trọng của tuệ. Bản thân tôi trước kia cũng đã từng thử thực hành qua rất nhiều phương pháp khác nhau. Tôi đã từng rất tinh tấn giữ giới và tu tập để phát triển định lực thâm sâu, nhưng tất cả những điều đó chẳng làm cho tôi thay đổi một cách thực sự chút nào. Chỉ khi tâm tôi bắt đầu hiểu ra được sự việc, khi trí tuệ đã lớn mạnh, chỉ khi ấy tôi mới trở thành một con người tốt đẹp. Tất nhiên, trí tuệ tăng trưởng đã giúp tôi giữ giới được ngày một tốt hơn. Một trong những pháp hành tôi thường thực hành khi còn là một cư sĩ là giữ bát quan trai giới (tám giới), không phải bát quan như các thiền sinh vẫn giữ trong thiền viện như thế này, mà là ngũ giới cộng với giới mở rộng về lời nói: cố gắng không chỉ không nói dối mà còn không nói những lời thô ác, không nói lời đâm thọc, không nói lời phù phiếm vô ích. Tôi sớm nhận ra rằng mình phải cần rất nhiều chánh niệm, rất nhiều sự tự hay biết, tự soi chiếu bản thân mình để giữ được trọn vẹn những giới khẩu này, và khi ấy pháp hành của tôi mới bắt đầu có được những bước tiến vượt bực. Điểm xuất phát ở đây cũng lại là trí tuệ. Ở đó có trí tuệ, có sự hiểu biết rằng cách thực hành này như thế rất lợi ích. Khi có trí tuệ, tất cả mọi thứ đều biến thành chân chánh. Tôi thực sự mong muốn các thiền sinh phát triển trí tuệ của mình, bởi vì tôi biết rõ sự khác biệt do nó mang lại lớn đến mức nào.
Thực sự thì tôi không muốn nói nhiều đến tâm từ, song một khi bạn đã biết cách nhìn nhận vấn đề cho đúng thì bạn có thể thấy rõ được tâm từ ngay thôi. Nếu không có sự kiên nhẫn thực lòng, một điều rất gần gũi với tâm từ, thì chắc là tôi đã không thể cống hiến được toàn bộ thời gian và sức lực để dạy dỗ các thiền sinh mỗi ngày như thế này được. Nhưng tôi không dành tâm từ cho riêng cá nhân một ai cả, nó rộng lớn hơn, bao trùm hơn, tâm từ đó là để dành cho tất cả, tất cả mọi người.
Thiền sinh: Có bốn Ba la mật mà con vẫn chưa thực sự hiểu, đó là Ba la mật quyết định (Adhitthāna). Ba la mật xuất gia (Nekkhamma), Ba la mật trì giới (Sīla) và Ba la mật chân thật (Sacca). Xin thầy cho con biết làm thế nào để hiểu được những Ba la mật này?
Thiền sư: Ba la mật quyết định
(Adhitthāna) là quá trình làm vững mạnh quyết tâm. Nó thường được áp dụng để củng cố hoặc tăng cường một số phẩm chất có sẵn trong tâm mình. Điều này có thể thực hiện được bằng cách làm một việc gì đó lặp đi lặp lại nhiều lần, hoặc bằng cách đẩy ngưỡng cố định (sức rướn) của tâm mình mỗi lần thêm một chút nhằm tăng cường sức mạnh cho tâm. Tôi thực hành pháp quyết định này rất nhiều. Theo kinh nghiệm của tôi, quyết tâm mạnh không bao giờ có tác dụng, trừ phi động cơ của nó là trí tuệ. Nếu bạn chỉ cố hết mình bằng quyết tâm, sự cố gắng ấy không bao giờ bền vững, nhưng nếu bạn thực hành một cách bền bỉ liên tục thì trí tuệ sẽ thâu gom tất cả sức mạnh của quá trình thực hành ấy để sử dụng một cách hiệu quả. Khi có mặt trí tuệ thì sự quyết tâm cũng hiện diện cùng.
Thiền sinh: Như vậy tâm sẽ được tăng cường sức mạnh bằng cách thử thách nó?
Thiền sư: Không, thử thách có nghĩa là bạn muốn vượt quá giới hạn năng lực của mình. Tâm được tăng cường sức mạnh bằng cách củng cố, tăng cường thêm những gì đang sẵn có ở đó.
Thiền sinh: Làm thế nào để tăng cường cho những cái đã có sẵn ấy?
Thiền sư: Bạn phải hiểu rõ mình có khả năng làm được điều gì, và làm điều đó nhiều lần. Tôi sẽ cho bạn một ví dụ rất đơn giản như sau: nếu bạn muốn hành thiền suốt đêm, không phải là cứ thế mà cố ngồi suốt cả đêm ngay lập tức. Đêm đầu tiên, bạn bắt đầu thức lâu đến mức mình có thể thức được, rồi đêm thứ hai cố gắng lặp lại điều đó, thức lâu như đêm trước. Nếu giữ được như vậy khoảng chừng hai tuần, thì rồi bạn mới bắt đầu đẩy tâm mình thức thêm một giờ nữa. Rồi sau đó hãy đợi và xem mình có chịu đựng được như vậy khoảng một, hai tuần nữa không rồi mới lại đẩy tiếp thêm.
Thiền sinh: Cám ơn thầy,con đã rõ. Hình như có lần thầy nói rằng Ba la mật xuất gia có nghĩa là ly tham, đúng không ạ?
Thiền sư: Đúng thế. Học cách quan sát tất cả mọi phiền não mỗi khi chúng khởi sanh, đó chính là ly tham, là xuất gia - bởi vì bạn đang cố gắng không để mình đắm chìm trong đó.
Câu hỏi thứ ba của bạn là Ba la mật trì giới. Trì giới là sự thu thúc, sự tự chế và trách nhiệm càng có nhiều trí tuệ thì giới sẽ càng trở nên trong sạch và trọn vẹn.
Thiền sinh: Vâng, con đã hiểu. Nhưng con vẫn còn chưa hểu rõ ý nghĩa của trì giới, có phải đó là giữ bát quan trai giới hay không?
Thiền sư: Không, nó là sự hiểu biết những việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Nó gồm cả làm những việc nên làm, và không làm những việc không nên làm.
Thiền sinh: Vâng, câu hỏi cuối cùng của con là về Ba la mật chân thật (Sacca).
Thiền sư:
Sacca có nghĩa là sự thật, nhưng nó cũng mang cả nghĩa khác. Trong trường hợp này, nó là sự chân thật trong lời nói, không thất hứa, chẳng hạn khi đã hứa hẹn cho ai hay làm một điều gì đó bạn phải giữ lời. Nhưng tôi không biết nhiều lắm về nghĩa kỹ thuật của từ
sacca này như thế nào. Ở Miến Điện người ta sử dụng "sự thật" này một cách rất đặc biệt. Họ tin tưởng vào năng lực của sự thật, ngay cả khi được sử dụng một cách không đúng đắn lắm. Chẳng hạn, có người vừa nói dối điều gì đó và sử dụng luôn sự việc đó như một sự thật để nguyện: "Tôi vừa nói dối mẹ tôi,đó là một sự thật, do năng lực của sự thật này, nguyện cho tôi được khỏi bệnh". Các nguyện đó cũng có tác dụng thật, nhưng nó không hiệu quả bằng lời nguyện cùng với một sự thật tốt lành.
CHÚ THÍCH:
(31)
Ba la mật là các phẩm chất tinh thần, các tiềm năng tâm linh cần thiết cho sự giác ngộ. Một người chỉ có thể đắc đạo quả khi những phẩm chất cao thượng này đã được tu tập, bồi dưỡng đến đầy đủ, trọn vẹn. Ba la mật chia là ba mức độ cao thấp khác nhau: bậc thượng, bậc trung và bậc hạ, tương ứng với ba quả vị khác nhau là quả vị Phật Toàn giác, quả vị Phật Độc giác và quả vị Thanh văn Phật. Có mười ba la mật là: bố thí, trì giời, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
Thiền sinh: Một thiền sư Trung Hoa có dạy rằng chúng ta phải buông mình vào tự nhiên, để kiến tánh - thể nhập vào bản thể của chính mình. Thầy hiểu thế nào về việc kiến tánh ấy và việc thể nhập vào bản thể tự tính?
Thiền sư: Cách tôi hiểu nó là chúng ta đã làm một việc tạo ra cái bản thể tự tính từ một cái thực ra chỉ là tự nhiên. Nếu hiểu rằng chúng ta đang nhào nặng tự nhiên thành bản thể tự tính, rằng chúng ta chỉ đang tạo ra thêm một khái niệm chế định nữa, thì những điều bạn vừa nói còn có đôi chút ý nghĩa, và như vậy để hiểu được thiên nhiên thì chúng ta cần phải hiểu "chính bản thân mình". Đó là cách mà chúng ta có thể thể hiện nó bằng ngôn từ vậy thôi. Cũng có đôi khi tôi hay hỏi thiền sinh rằng: "Bạn là ai?". "Bạn là cái gì?".
Tôi không dùng từ bản thể hay ngã, hay tự tính, nó chỉ là một khái niệm, một cách gọi mà mọi người vẫn hay sử dụng mà thôi. Nhưng bạn không thể nói chuyện, trao đổi mà không dùng khái niệm được. Đức Phật nói không có cái ngã, cái tôi nào cả, nhưng ngài cũng dạy: "Hãy nương tựa vào chính mình". Khi nó nương tựa vào chính mình, có nghĩa là chúng ta phải nương tựa vào những phẩm chất tốt đẹp trong mình như là chánh niệm, định tĩnh, trí tuệ.
Thiền sinh: Con hiểu rằng cách diễn đạt về "bản thể tự tính" đó là để chỉ việc buông mình vào cái không tạo tác, vào trong cái vô vi và người thiền sinh phải có được thái độ như thế trong khi hành thiền.
Thiền sư: Nhưng nếu nó thực sự là vô vi thì bạn đâu cần phải "buông mình" như thế. Nếu nó là vô vi, tức là tâm đã giải thoát rồi, cần gì phải "buông" nữa. Chỉ khi nào vẫn còn ôm giữ cái ngã, cái "tôi" để buông thì người ta mới cần phải buông.
Thiền sinh: Thầy thường khuyến khích thiền sinh tự nhắc mình rằng những gì mình kinh nghiệm được chỉ là "tự nhiên". Tại sao thầy muốn thiền sinh quan sát các kinh nghiệm đó với cái nhìn "tất cả đều chỉ là những hiện tượng tự nhiên mà thôi" thay vì với cái nhìn về vô ngã?
Thiền sư: Từ vô ngã
(Anatta) thường hay bị người ta hiểu sai. Mọi người hay nghĩ rằng vô ngã nghĩa là mất cái ngã đi và chính cái "vô ngã" này lại trở thành một khái niệm chế định nữa. Trong thực tế chỉ đơn giản là không có cái gì là ngã, là tôi cả, cũng như từ trước đến nay nó chưa từng có bao giờ. Do đó tốt hơn hết là nhìn vào các kinh nghiệm như "đây chỉ là các hiện tượng tự nhiên mà thôi". Những hiện tượng tự nhiên này sanh khởi do bởi nhân duyên. Nhìn sự việc bằng cái nhìn như thế chính là chánh kiến, và nhờ quan sát cách thức những nhân duyên nhất định đưa đến một kết quả nhất định nào đó, chúng ta sẽ hiểu được rằng ở đó chỉ có những nhân duyên, không có cái "tôi" nào cả. Hiểu được duyên khởi là hiểu được vô ngã.
Thiền sinh: Hôm trước thầy nói rằng tất cả những gì khó buông bỏ đều là đau khổ. Thầy nói khó buông bỏ là khó buông bỏ hoàn toàn, là dứt tuyệt hẳn hay là buông bỏ tạm thời?
Thiền sư: Bất cứ cái gì khó buông bỏ dều là đau khổ cả - dù buông bỏ hoàn toàn hay buông bỏ tạm thời trong chốc lát. Tham và sân, cái nào khó buông ỏ hơn?
Thiền sinh: Có lẽ chúng cũng giống nhau cả thôi.
Thiền sư: Tham khoc buông bỏ hơn,bởi vì nó vi tế hơn - và si là khó nhất. Hôm trước tôi nói như vậy là ý muốn nói rằng không nên sử dụng từ đau khổ
(Suffering- sự đau đớn, khổ não) để nói về
dukkha32). Hầu hết các thiền sinh chẳng hiểu gì về sự thật của
dukkha cả, nhưng họ hiểu được sự thống khổ, nỗi đau đớn. Thông thường họ chỉ hiểu được mỗi một loại đau khổ, đó là cảm giác khổ, cảm giác đau đớn
(dukkha vedanā - khổ thọ) và cách hiểu về khổ như thế hay dẫn đến sự chống đối. Hiểu biết về
dukkha khác vậy nhiều lắm.
Nhiều thiền sinh được học rằng vô thường là khổ. Họ cũng học đâu đó rằng sanh diệt là một dấu hiệu của vô thường. Và bởi vì nóng lòng muốn tiến bộ nên họ cố gắng ra sức để nhìn cho thấy sanh diệt. Khi làm như vậy, dĩ nhiên là họ vẫn nhớ những gì đã được học, và bất cứ cái gì đến và đi mà họ thấy được, họ cũng sẽ suy diễn rằng đó chính là khổ. Bởi vì họ thấy đấy là một dấu hiệu của sự tiến bộ, nên tâm họ bắt đầu hướng đến đau khổ, luôn nhìn thấy đau khổ ở mọi nơi và họ bắt đầu sợ hãi. Sợ chính là sân ở dạng thụ động. Đôi khi có thiền sinh sợ quá đến mức gục xuống và khóc lóc.
Nghĩa của từ
dukkha sâu rộng hơn nhiều chứ không chỉ mỗi là sự đau đớn và thống khổ về thể xác và tinh thần như thế. Bất cứ loại đau khổ nào, từ những loại thô kịch nhất như đau đớn, sầu muộn cho đến những loại vi tế như bất mãn, bất an, bất toại nguyện, không chắc chắn, bất định, mơ hồ, cảm giác không an toàn... tất cả đều mới chỉ là những mức độ thô nhất của khổ
(dukkha) mà thôi. Theo kinh điển, khổ mức độ này được gọi là khổ khổ
(dukkha-dukkha). Khổ do sanh, già, bệnh, chết cũng như các trạng thái cảm xúc buồn đau như tức giận, sợ hãi, thất vọng, bất an, xa người mình yêu, gần kẻ mình ghét, muốn mà không được hay được cái mình không muốn... tất cả những loại khổ này nằm trong mức độ đầu tiên của khổ -
dukkha.
Mức độ thứ hai được gọi là hoại khổ
(Viparnāma-dukkha). Loại này vi tế hơn và khó thấy hơn. Bất cứ loại dục lạc hay thú vui nào, mà thực ra là tất cả mọi thứ hạnh phúc trên đời - dù là thanh cao, vi tế và kéo dài đến đâu - không sớm thì muộn cũng phai tàn. Phải làm đi làm lại một việc gì đó, hay phải cố gắng thành đạt cho được một cái gì, tất cả những thứ đó đều nằm trong loại khổ này. Mỗi khi hành thiền, bạn có thể có được rất nhiều định tâm, hỷ lạc hay sự khinh an, nhẹ nhàng nhưng rồi chúng cũng không kéo dài mãi. Kinh nghiệm những trạng thái ấy cũng là đau khổ. Hầu hết tất cả mọi người đều cảm thấy rất khó hiểu được tại sao tất cả mọi hanh phúc trên đời lại đều là đau khổ như vậy.
Loại khổ thứ ba và cũng là loại cuối cùng là hành khổ
(Sankhāra-dukkha) được coi là đau khổ của kiếp sinh tồn. Danh sắc
(Nāma-rūpa) là khổ, bản thân sự việc chúng ta đang tồn tại đây cũng là khổ.
Điều hết sức quan trọng là phải hiểu được sự khác nhau giữa việc bị đau khổ hành hạ và hiểu biết về khổ. Đau đớn thể xác hoặc tinh thần - dù thô rõ hay vi tế - cũng đều tự động đi kèm với một loại tâm sân nào đó, khổ thọ
(dukkha-vedanā) hoặc ưu não
(Domanassa) luôn luôn sanh khởi cùng với tâm sân
(Dosa). Tất cả những loại đau khổ đó đều dẫn đến những trạng thái tâm bất thiện và vì vậy lại càng thêm khổ.
Hiểu biết khổ hay liễu tri khổ, tuệ tri khổ không có nghĩa là phải chịu đau khổ về tinh thần. Hiểu biết khổ rất khác, đó là một trạng thái tâm thiện, là một kinh nghiệm giải thoát và chuyển hóa cuộc đời. Mỗi một hiểu biết nho nhỏ về khổ lại giúp cho tâm buông bỏ và do đó lại chứng nghiệm nhiều giải thoát hơn. Hiểu biết khổ sẽ dẫn đến những trạng thái tâm thiện hơn và sẽ làm cho tâm trở nên mạnh mẽ hơn.
Để hiểu biết khổ, chúng ta không những cần phải có những thông tin đúng như thế này mà còn phải có cách suy nghĩ đúng nữa. Đức Phật nói một trong những nguyên nhân khiến chúng ta trôi lăn trong vòng luân hồi vô thủy là không thấy khổ và không hiểu biết khổ. Không hiểu biết khổ, chúng ta sẽ còn tiếp tục vào những gì tốt đẹp ở phía trước để rồi tiếp tục thất vọng. Hầu hết mọi người phung phí rất nhiều thời gian để chiến đấu với đau khổ, cố sức cải tạo và thay đổi thế giới của mình. Chiến đấu với đau khổ như thế không những chỉ kiệt sức vô ích, mà còn tạo ra thêm muôn vàn đau khổ nữa. Suy nghĩ đúng đắn hay chánh tư duy là chấp nhận và ghi nhận đau khổ. Thấy khổ và chấp nhận khổ nghĩa là thấy và chấp nhận mọi sự việc như nó đang là, và một trạng thái tâm chấp nhận như vậy sẽ giải phóng ra rất nhiều năng lượng để bạn có thể sử dụng cho tu tập.
Khi đã ngày càng thuần thục và khéo léo nhận diện đau khổ hơn, chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ ràng mỗi khi chính mình đang "tạo ra" thêm đau khổ mới. Thầy tôi thường dạy rằng chỉ khi nào hiểu được cái khổ của sự sanh
(Jāti dukkha) thì tâm mới thực sự hướng tới Niết bàn. Tất cả những gì được sanh ra đều là đau khổ - và khi nó mất đi cũng là đau khổ nữa. Chính vì không hiểu được cái khổ của sự sanh mà chúng ta vẫn luôn muốn có được cái gì đó hay muốn bỏ cái gì đó đi. Một cái tâm hiểu biết khổ sẽ không đi tìm cầu hạnh phúc những cũng không chối bỏ những gì đang trải nghiệm; nó tuyệt dối bình an trước bất cứ những gì đang diễn ra.
Tất cả mọi chúng sanh đều đau khổ, nhưng chỉ những người nhận diện được đau khổ mới có thể phấn đấu để giải thoát chính mình ra khỏi đau khổ. Nhận diện rõ ràng và chấp nhận đau khổ sẽ dẫn đến sự giải thoát nội tâm. Đức Phật nói rằng người nào thấy khổ cũng sẽ thấy được khổ diệt. Chỉ khi thực sự hiểu được khổ thì thực hành con đường đi đến Niết Bàn mới được coi là điều duy nhất đáng làm trên đời.
Thiền sinh: Thầy rất ít khi sử dụng từ tuệ giác (của thiền Vipassanā) m à luôn luôn nói về trí tuệ. Con không rõ có phải là thầy sử dụng một hệ tiêu chí khác với hệ tiêu chí con vẫn quen sử dụng hay chỉ là khác nhau về mặt từ ngữ. Con được học rằng thực hành chánh niệm sẽ đưa đến định tâm, và định tâm sẽ làm sanh khởi tuệ giác và tuệ giác sẽ dẫn đến trí tuệ. Thầy có đồng ý với trình tự đó không hay thầy có cách hiểu khác?
Thiền sư: Tôi vẫn sử dụng cùng một trình tự đó. Những gì chúng ta quan sát là các tiến trình thân và tâm. Cùng với thời gian thực hành, hiểu biết của chúng ta về những tiến trình này cũng thay đổi. Dù chúng ta gọi nó là tuệ giác
Vipassanā, hay hỉeu biết, hay trí tuệ thì thực ra cũng không thành vấn đề, đó chỉ là những thuật ngữ khác nhau để chỉ cùng một sự việc mà thôi.
Mức độ hiểubiết cũng phát triển và thay đổi. Chẳng hạn, chánh niệm có thể thấy được rằng cái nó vừa quan sát được là một suy nghĩ. Khi trình độ chánh niệm tăng lên, trí tuệ hiểu rằng "đó là tâm (dang làm việc)". Khi sự hiểu biết rằng "đó chỉ là tâm" đã thực sự vững chắc, trí tuệ sẽ bắt đầu nhận ra rằng "cái này chỉ đang diễn ra".
Một điều rất quan trọng nên nhớ rằng bất cứ một tuệ giác hay một loại trí tuệ nào cũng chỉ có thể sanh khởi lên được khi tâm quan sát không có tham, sân, si.