CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Mời các bạn thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì Phật giáo Nam truyền.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • TU TẬP CHÁNH KIẾN
Thiền sinh: Giờ đây con có thể thấy ra được những tà kiến của mình một cách thường xuyên hơn, nhưng vẫn phải cố gắng để đưa chánh kiến (cách nhìn, cách suy nghĩ đúng đắn theo chân lý) vào. Tại sao chánh kiến lại không thể đến với mình một cách tự động được, bạch thầy?

Thiền sư: Có nhiều tầng mức chánh kiến nông sâu khác nhau. Lúc đầu, khi chúng ta còn chưa thực sự hiểu được thế nào là chánh kiến, thì nó chỉ là những kiến thức vay mượn. Nghĩa là chúng ta cần đưa vào áp dụng những thông tin (kiến thức) thích hợp qua con đường tri thức để giúp mình trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Sau một thời gian dài làm đi làm lại việc này, tâm sẽ ghi nhớ chánh kiến được ngày càng nhiều hơn và dễ dàng hơn, cuối cùng nó sẽ hiểu được sự thật về chánh kiến. Một khi tâm đã hiểu rõ được sự thật của chánh kiến, nó sẽ trở thành trí tuệ của chính bạn. Khi đó bạn sẽ không còn phải cố nhớ lại chánh kiến (để áp dụng qua con đường tri thức) nữa, tâm sẽ tự động thấy ra được mọi việc bằng chánh kiến.
  • VÔ MINH NGHĨA LÀ THIẾU TRÍ TUỆ
Thiền sinh: Bạch thầy, theo con hiểu thì vô minh hay tâm si (moha) luôn luôn có mặt, dường như nó bao trùm lên tất cả. Mặt khác, con vẫn còn phân vân rằng nếu vậy thì làm thế nào một cái tâm đầy vô minh, si mê như thế lại có thể nhận biết được chính tâm si cơ chứ?[/i]

Thiền sư: Chỉ khi nào tuệ giác sanh khởi thì mới hiểu được tâm si, bởi vì tuệ giác là đối lập với tâm si. Trí tuệ hiểu được những đặc tướng tự nhiên của đối tượng quan sát. Tâm si che mờ những đắc tướng tự nhiên này của đối tượng quan sát, song không che mờ đối tượng. Tưởng nhận biết đối tượng, còn tâm si bóp méo và xuyên tạc cái tướng đó.

Thiền sinh: Có thể đó chính là loại tâm si con đang có, nó như là bức màn ngăn cách giữa bản thân con và thực tại, có thể nói như thế.

Thiền sư: Đúng vậy. Chính vì thế mà bạn nói nó bao trùm lên tất cả. Trong khoảnh khắc tuệ giác hé mở, tấm màn ấy bất ngờ rơi xuống - chỉ trong một khoảng khắc rất ngắn ngủi. Vì vậy, nếu không cố gắng tinh tấn hết sức mình để có được càng nhiều tuệ giác, thì tâm si sẽ luôn luôn bao phủ lên tất cả trong mọi lúc.

Thiền sinh: Xin thầy định nghĩa cho chúng con thế nào là tâm si ạ?

Thiền sư: Tâm si không có nghĩa là hoàn toàn ngu dốt. Tâm si là không hiểu biết về sự thật của các pháp, về sự thật của những gì đang hiện hữu. Nó là sự thiếu trí tuệ.

Thiền sinh: Tại sao tâm si lại mạnh kinh khủng đến thế, còn trí tuệ lại quá ít ỏi dường vậy?

Thiền sư: Bởi vì tâm si luôn muốn kềm giữ mình mãi mãi si mê, và bởi vì chúng ta đã "rèn luyện" và huân tập nó trong vô số kiếp rồi.
  • KINH NGHIỆM TÂM TỪ, TÂM BI
Thiền sinh: Đôi khi có người hỏi con có nhớ gia đình không? Con không nhớ họ và cũng chẳng biết tại sao thế nữa. Con cũng có một cuộc sống gia đình bình thường như những người khác; cuộc sống cũng không có nhiều vấn đề phức tạp hay mâu thuẫn gì lớn cả. Vì vậy câu hỏi của con ở đây là khi thực hành như thế này, cùng với thời gian thì sự khao khát tình cảm yêu thương, sự thương nhớ gia đình hay tất cả những tình cảm yêu thương khác cũng mất dần đi có phải không ạ?

Thiền sư: Đúng, có thể sẽ là như thế, nhưng không phải vì thực hành pháp mà bởi vì bạn đã bắt đầu có trí tuệ, có sự hiểu biết. Khi phiền não đã giảm dần, bạn vẫn có thể yêu thương mọi người, yêu thương cha mẹ, gia đình hay bè bạn mình, mà thực sự còn biết cách yêu thương họ tốt hơn xưa. Nhưng sự dính mắc sẽ không còn nữa, và vì vậy các tình cảm cao thượng như tâm từ, tâm bi sẽ lớn mạnh một cách tự nhiên. Nói cách khác, phiền não sẽ giảm bớt và thiện tâm sẽ tăng trưởng.

Thiền sinh: Con cảm thấy như là trước kia là tình thương có điều kiện, còn bây giờ thì đó là tình thương vô điều kiện.

Thiền sư: Đúng, đúng như thế đấy. Khi trong mình có tình thương vô điều kiện, mình chỉ cho ra chứ không mong đợi người ta đền đáp lại một điều gì.

Thiền sinh: Một số tông phái Phật giáo khác thường nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là phải hiểu được mối liên hệ giữa chánh niệm và từ bi. Xin thầy giảng cho con về mối quan hệ đó khi chúng ta ở trong chánh niệm.

Thiền sư: Khi không còn tâm sân, chúng ta mới có thể thực hành tâm từ. Đó là một sự phát triển tự nhiên. Tất cả tứ vô lượng tâm (hay bốn phạm trù: từ, bi, hỷ, xả) chỉ có thể tu tập được khi tâm đã sạch bóng sân hận, não phiền. Khi tâm đã không còn sân hận, khi chánh niệm và trí tuệ đều có mặt, thì đối tượng chúng ta hướng tâm đến sẽ làm khởi động lên một trong tứ vô lượng tâm đó. Đối với một đối tượng "ngang bằng", tức là một người có cùng hoàn cảnh như mình, thì nó sẽ làm khởi lên tâm từ; tâm bi khởi lên khi thấy có người đang đau khổ hơn mình; tâm hỷ đối với những người may mắn hơn mình; và tâm xả khi chúng ta phải đối diện với những hoàn cảnh mà mình chẳng thể làm được gì hơn nữa.

Điều ấy hết sức quan trọng cần phải hiểu là khi tâm quan sát của chúng ta bị nhiễm phiền não thì bất cứ hành động nào chúng ta làm cũng đều là không khéo léo, không thiện xảo. Trí tuệ chỉ có thể sanh khởi lên khi tâm quan sát không còn bị nhiễm phiền não và chính điều này sẽ giúp chúng ta giao tiếp tốt đẹp với người khác. Chính vì vậy mà tôi ưa thích con đường trí tuệ hơn việc tu tập tứ vô lượng tâm. Trước kia tôi đã từng thực hành thiền tâm từ rất nhiều, nhưng mà dù tôi có thực hành tích cực đến bao nhiêu chăng nữa, tâm tôi vẫn còn sân, tôi vẫn là một con người hay cáu giận và cơn giận vẫn vượt ra khỏi tầm kiểm soát của tôi.

Đến nay tôi, đã có nhiều hiểu biết sâu sắc trong khi quan sát tâm sân đó và chính điều đó đã giúp tôi làm việc với nó một cách khéo léo hơn. Tôi vẫn còn sân, nhưng trí tuệ luôn luôn ngăn chận cơn sân không cho nó vượt quá ngưỡng.
  • CÓ HAY KHÔNG NGHI
Thiền sinh: Bạch thầy, làm thế nào để phân biệt nghi trong trường hợp nó là một triền cái (một pháp chướng ngại hay ngăn che trong thiền) và nghi có ích, tức là nghi giúp mình tìm hiểu để hiểu thấu được sự việc một cách rõ ràng?

Thiền sư: Nói cái nghi đó là triền cái, nó sẽ làm tâm bạn càng thêm rối rắm và càng thêm trạo cử, bất an; nó làm bạn cảm thấy ngày càng không thoải mái. Cái nghi có ích là cái nghi khiến cho tâm bạn thêm sự tò mò, muốn tìm hiểu; nó đăt tâm vào trạng thái luôn đi tìm hiểu, khám phá. Cá nhân tôi thì không muốn gọi đó là nghi; nó giống một cảm giác thích phiêu lưu hơn là nghi hoặc; mình không biết, không chắc chắn về sự việc và vì vậy mình muốn tìm hiểu cho ra vấn đề.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • THIỀN CHỈ VÀ THIỀN QUÁN
Thiền sinh: Một phần trong tâm con vẫn còn chấp giữ vào sự suy nghĩ rằng mình cần phải tu tập để có được một sự tập trung cao độ. Con có cảm giác xung đột trong tâm về vấn đề đó, bởi vì tất cả những gì con được nghe giảng trước kia là phải có sự tĩnh lặng và định lực vững chắc thì tuệ giác mới có thể khởi sanh. Chính điều đó là cho con cảm thấy nghi ngờ về phương pháp thiền ở đây, nó gây con cảm giác khúc mắc trong vấn đề này.

Thiền sư: Để đạt được mức tập trung cao độ cần thiết trong thiền Chỉ (Samatha), bạn phải tập trung tâm vào một đề mục duy nhất. Định của thiền Quán (Vipassanā) không cần phụ thuộc vào một đề mục để đạt được sự ổn định nội tâm. Định của thiền quán đến từ chánh kiến, từ thái độ chân chánh và chánh tư duy, những chi phần đó cùng với chánh niệm liên tục sẽ đem đến cho tâm sự ổn định nội tại. Loại định tâm này được gọi là chánh định (Sammā-samādhi).

Thiền sinh: Vậy tại sao trong kinh đức Phật dạy các Tỳ kheo hãy đi đến khu rừng vắng và thực hành thiền chỉ (jhāna)?

Thiền sư: Ngài không dạy như vậy cho tất cả mọi người. Ngài thường khuyến khích những người đã từng thực hành thiền chỉ nhiều năm hay nhiều đời nhiều kiếp trước đó - do đó đã tích lũy được một căn cơ hay xu hướng tâm thiên về thiền chỉ - tiếp tục đi sâu hơn vào con đường đó mà thôi. Những đệ tử trội về trí tuệ, chánh niệm, tinh tấn hoặc đức tin thì đều được ngài hướng dẫn thực hành những pháp hành thích hợp với căn cơ từng người.

Khi tâm trạo cử và bất an thì tất nhiên bạn cũng có thể thực hành thiền chỉ cho đến khi nó bình ổn trở lại. Nhất là đối với những thiền sinh mới, nhiều lúc họ thường phải sử dụng đến pháp hành này. Đơn giản nó chỉ là một phương tiện hữu ích để giúp chúng ta trên con đường tu tập mà thôi. Nếu khéo tu, bạn có thể sử dụng được bất cứ phương tiện nào để giúp mình tiến đến mục đích cuối cùng là hiểu biết được bản chất của tất cả các pháp.

Thiền sinh: Bạch thầy, con thường được nghe thầy nói về định của thiền quán (thiền Vipassanā), nhưng thực sự con vẫn chưa hiểu lắm. Chính xác thì định của thiền Vipassanā là gì và làm thế nào để phát triển được loại định đó?

Thiền sư: Định của thiền Chỉ đạt được bằng cách tập trung tâm liên tục trên một đề mục duy nhất. Thực hành như vậy, bạn sẽ xây dựng được một sức tập trung mà bạn cảm tưởng mạnh và hơi nặng nề, hơi cứng. Để phát triển định của thiền quán (Vipassanā), bạn cần phải có trí tuệ. Nó có thể là thông tin hướng dẫn đúng đắn và/hoặc là những gì bạn hiểu biết được bằng kinh nghiệm cá nhân hay qua quá trình tự quán chiếu. Bởi có trí tuệ như thế, nên tâm bạn sẽ không bám giữ hay xua đuổi bất cứ điều gì. Bởi có trí tuệ, nên tâm bạn cảm thấy ổn định và không còn phản ứng nữa. Đó chính là định của thiền quán (Vipassanā samādhi) và chỉ khi có được loại định này tuệ giác mới có thể sanh khởi.

Điều tuyệt đối quan trọng là chúng ta phải thực hành thiền quán với thông tin hướng dẫn đúng đắn (Sutamayā paññā - văn tuệ), những thông tin này sẽ làm việc ở đằng sau tâm trong quá trình thực hành. Điều quan trọng nữa là chúng ta phải biết cách sử dụng trí tuệ sẵn có của riêng bản thân mình (Cintāmayā paññā - tư tuệ). Chúng ta cần phải sử dụng cả hai loại trí tuệ này để đạt được tới tuệ giác (bhāvanāmayā paññā - tu tuệ), loại trí tuệ thứ ba. Nếu hai loại tuệ đầu không được phát triển đầy đủ, thì loại tuệ thứ ba này không thể khởi sanh được.

Nếu chúng ta chú tâm quá mạnh vào một đối tượng, tâm không thể suy nghĩ nhiều được nữa, niệm căn cũng yếu. Điều sẽ phải xảy ra là tâm không nghĩ đến những bất thiện pháp, song cũng không thể tư duy đến thiện pháp và vì vậy tuệ cũng trở nên yếu ớt, cùn lụt. Chính vì lý do đó mà mỗi khi chúng ta sử dụng đến định của thiền chỉ, thì tuệ giác không thể sanh khởi lên được. Nếu muốn phát triển tuệ giác thì nhất định chúng ta phải thực hành định của thiền Vipassanā.

Để phát triển định của thiền Vipassanā, chúng ta cần phải có thái độ chân chánh và chánh niệm liên tục. Không có thái độ chân chánh, chúng ta sẽ không thể có được định tâm và tâm sẽ luôn bị rơi vào trạng thái lao xao, trạo cử. Thái độ không chân chánh nghĩa là chúng ta luôn nắm giữ cái thích hay không thích trong tâm, chính điều đó làm cho tâm không được ổn định. Định (samādhi) nghĩa là một nội tâm ổn định và bình ổn. Chánh tinh tấn (sự cố gắng một cách đúng đắn) không có nghĩa là hùng hực cố sức làm, mà là sự thực hành một cách kiên trì và bền bỉ liên tục.

Thiền Vipassanā là một pháp hành mà bạn cần phải làm liên tục trong suốt cả cuộc đời còn lại của mình. Bạn không thể ngừng lại và nghỉ ngợi. Tuy nhiên, nếu bạn dùng quá nhiều sức thì sẽ không thể tiếp tục thực hành như vậy suốt được. Bạn cần phải luôn luôn ghi nhớ rằng đây là một công việc dài hạn, nhiều năm tháng, cần phải làm một cách đều đặn liên tục. Chỉ cần làm theo khả năng mình có thể làm được, nhưng phải làm đều đặn và không bao giờ bỏ dở.

Nếu cố gắng quá sức, chúng ta sẽ không thể duy trì thực hành như vậy được, và dù cho chúng ta có tham dự bao nhiêu khóa thiền tích cực năm này qua tháng khác chăng nữa, chúng ta cũng sẽ chẳng thể thu được chút xíu tuệ giác nào cả đâu. Một công việc nào đó được làm liên tục trong cả một thời gian dài, chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều về nó và sẽ dễ dàng nắm vững, còn chỉ làm qua loa năm thì mười họa, chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt tới được trình độ cao thật sự cả.

Thiền Vipassanā là một quá trình học hỏi. Để thực sự hiểu biết được vấn đề gì, chúng ta phải hiểu nó trong cả một thời gian dài. Nếu chỉ nhìn trong một thời gian ngắn ngủi, những hiểu biết sâu sắc sẽ không thể khởi sanh lên được, sự hiểu biết của chúng ta vẫn chỉ sẽ là hời hợt ở bên ngoài mà thôi. Chính vì đây là một công việc dài hạn nên chúng ta phải học cách làm nó một cách kiên trì, bền bỉ. Chánh tinh tấn được gọi là "chánh" bởi vì nó có rất nhiều trí tuệ trong đó.
  • TÂM HAY BIẾT
Thiền sinh: Khu chúng ta không có chánh niệm thì tâm vẫn luôn hay biết. Xin thầy giảng thêm về cái tâm hay biết đó - cái tâm luôn có mặt ngay cả khi chúng ta không có chánh niệm?

Thiền sư: Đó là một tiến trình tự nhiên, đó là công việc của tâm. Trong ngôn ngữ hiện đại, cái tâm đó gọi là vô thức, nhưng trong pháp hành thì đó chỉ là một tiến trình tâm mà chúng ta có thể hoặc không thể nhận biết được mà thôi. Tiến trình đó luôn luôn diễn ra trong mọi lúc - chỉ có điều chúng ta ý thức được hay không thôi.

Thiền sinh: Những chắc là phần tâm vô thức đó vẫn lớn hơn phần hữu thức chứ ạ?

Thiền sư: Đúng vậy, tâm đó mạnh hơn.

Thiền sinh: Nó có phải luôn luôn là như vậy? Cái chúng ta gọi là vô thức có luôn mạnh hơn và lớn hơn phần hữu thức không?

Thiền sư: Nó mạnh hơn theo nghĩa đó là một tiến trình tự nhiên, tự động và luôn trôi chảy, luôn luôn vận động. Hãy lấy cái đau làm ví dụ. Tâm phản ứng với cái đau, nó rất miễn cưỡng khi phải chịu đựng với cái đau đó. Trong lúc ngồi thiền, chúng ta cố gắng mọt cách có ý thức để chịu đựng cảm thọ khó chịu do cơn đau mang lại, mặc dầu phần vô thức chẳng muốn thế tý nào. Nếu phần vô thức quá mạnh, nó sẽ xảy ra xung đột với phần hữu thức. Thiền sinh sẽ bắt đầu cựa quậy, uốn éo một cách tức cười trên chiếu thiền, thân mình lắc lư qua lại hoặc chân bắt đầu rung lên rần rần... Điều này xảy ra bởi vì phần tâm vô thức đã bắt đầu chiếm quyền kiểm soát và làm thân mình chuyển động để giảm bớt cái đau. Thiền sinh chỉ hay biết được mỗi phần tâm hữu thức đang cố gắng ngồi yên và chịu đựng cơn đau. Họ thường không ý thức được là thân mình đang rung, đang lắc lư, hoặc nói rằng đó là cái thân tự chuyển động như vậy đấy chứ. Họ không hiểu được tâm mình đang hoạt động như thế nào.

Thiền sinh: Bạch thầy, thế khi tâm hữu thức không có chánh niệm thì phần vô thức có ghi lại sự việc trong bộ nhớ không, và chúng ta có thể nhớ lại bằng hữu thức những gì trước đó mình không có chánh niệm, không hay biết được không ạ?

Thiền sư: Có, điều đó có thể xảy ra. Một số thiền sinh có kinh nghiệm trình pháp rằng bỗng nhiên họ chợt nhớ lại được rất nhiều sự việc trong quá khứ, có những việc xảy ra từ khi họ còn mới chập chững biết đi. Họ nói rằng những ký ức như vậy họ chưa bao giờ được thấy trước đây.

Thiền sinh: Bản thân con cũng nhớ lại được những ký ức từ hồi còn bé tý như vậy. Đó là những kỷ niệm không vui và vì vậy nó gợi lại những cảm giác buồn đau trong con. Nhưng con cũng không chắc chắn những ký ức này có thật hay không. Con cứ tự hỏi mình rằng không biết có phải đó chỉ là những việc có thật đã từng xảy ra trước kia hay đó chỉ là do tâm mình tưởng tượng ra nó mà thôi. Trong việc này con không tin vào chính bản thân mình nữa. Một phần thì con băn khoăn không biết có cần phải nhớ lại như vậy không, phần khác thì con lại cũng muốn biết xem nó như thế nào. Xin thầy giảng thêm cho con được không ạ.

Thiền sư: Thực ra, ký ức hay những dòng suy nghĩ như vậy có thật hay không cũng không phải là điều thực sự quan trọng. Bạn hành thiền là để hiểu được cách thức hoạt động của tâm mình. Chúng ta không bao giờ có thể biết chắc chắn về những dòng suy nghĩ đó, nhưng chúng ta luôn có thể thấy và hiểu được những nguyên tắc hoạt động của tâm mình.

Nhiều thiền sinh đã rất khổ sở, vật vã khi những ký ức cũ trồi lên như vậy trong lúc họ hành thiền. Thời tuổi trẻ chúng ta ai cũng đầy rẩy si mê, đắm mình trong những việc làm xấu xa,tệ hại, khi những ký ức cũ ấy trỗi dậy, chúng hay làm cho con tim ta đau đớn khôn nguôi. Khi tiến bộ hơn trong pháp hành, rất nhiều những ký ức cũ dồn én trong tâm sẽ nổi lên trên bề mặt hữu thức và chúng ta sẽ phải học cách cho chúng trồi lên như vậy và làm việc với chúng.

Nếu không "dọn dẹp" sạch sẽ như vậy, nếu không thực lòng nhìn vào những điều hối tiếc hay bất cứ thứ rác rưởi khó chịu nào từ quá khứ mà tâm mình đưa tặng lại, bạn sẽ rất khó có thể tiến bộ được tý nào trên con đường tu tập. Chúng ta phải học những bài học giác ngộ của chính mình. Tu tập không bao giờ có đường tắt. Nếu chúng ta không chịu học những bài học giác ngộ của chính mình khi duyên đưa chúng đến, chúng sẽ còn đến hoài, đến mãi cho đến khi chúng ta buộc phải lưu tâm đến chúng và học cho xong bài học ấy. Chúng ta phải ra công cày cuốc mới mong gặt hái được sự hiểu biết và trí tuệ; tuệ giác không phải tự nhiên mà đến, chẳng phải của biếu không, từ trên trời rơi xuống bao giờ cả đâu.

Thiền sinh: Thầy giảng nhiều về chánh niệm như là cái tâm đang làm việc, còn thức (Viññāna) là cái tâm đang hay biết. Thầy cũng từng giảng rất nhiều về tâm làm việc. Còn tâm hay biết, xin thầy giảng thêm đôi chút về chức năng hoạt động của tâm hay biết đó.

Thiền sư: Thức (Viññāna) hay là tâm thức là cái tâm sanh khởi cùng với đối tượng hay biết (của tâm). Trong thực tế pháp hành, bạn chỉ có thể chánh niệm hay biết về nó, chứ không thể sử dụng được nó, bởi vì nó luôn luôn diễn ra một cách tự động cũng với mỗi tiếp xúc (của sáu giác quan với cảnh). Chúng ta có thể biết được những gì đang diễn ra là nhờ vào tâm làm việc - cái mà tôi thường gọi là tâm quan sát - đang có mặt. Nhưng cũng nên nhớ rằng, các uẩn (Khandas)(27) khác cũng tham gia vào hoạt động cùng với thức, chúng luôn luôn làm việc đồng thời với nhau.

Thiền sinh: Vậy có thể có lợi ích nếu đôi lúc chúng ta biết quay lại với thức (Viññāna) - hay tâm hay biết - chứ ạ? Nếu làm được như vậy thì có thể gọi là chánh niệm về tâm hay biết được không?

Thiền sư: Đúng vậy. Bạn có thể lấy chính tâm hay biết đó làm đối tượng để quan sát và tìm hiểu. Chúng ta cần phải tìm hiểu chức năng hoạt động của tất cả năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Thức hoạt động như thế nào? Thọ vận hành ra sao? Tưởng làm việc như thế nào? Các hành diễn tiến ra sao?

Thức (hay sự hay biết) thì có thể nói là tương đối ngu ngơ - nó không có trí tuệ trong đó; nó chỉ làm mỗi một việc duy nhất là đơn thuần hay biết. Thọ cũng vậy; nó chỉ làm một chức năng cảm thọ. Tưởng chỉ nhận biết sự vật hay sự việc. Tại sao bạn nhớ được những người mà thậm chí mình chỉ gặp có một lần trước kia?

Thiền sinh: Bởi vì tưởng tự động làm công việc nhận biết của nó.

Thiền sư: Chính xác! Nó làm công việc ấy, cho dù bạn có ý thức được về nó hay không.

Thiền sinh: Hình như nhớ tên người thì khó hơn nhớ mặt.

Thiền sư: Đúng thế, tưởng cũng có những đặc tính riêng của nó. Có lúc nó nhớ được rất nhiều chi tiết, có lúc thì chỉ nhớ được sơ sơ. Những thứ mà nó không có hứng thú, nó chẳng nhớ được nhiều.

CHÚ THÍCH:

(27) Ngũ uẩn: sắc, thọ, thưởng, hành, thức. Thức (Viññāna) ở đây là một uẩn (thức uẩn) trong đó.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • NGỒI THIỀN MỞ MẮT
Thiền sinh: Thầy khuyên con nên mở mắt lúc ngồi thiền. Nhưng con thấy khó quá, và cũng mệt mỏi nữa bởi vì tâm con cứ phân tán bởi những thứ xung quanh nhất là người qua lại.

Thiền sư: Khi mở mắt ngồi thiền, đừng nhìn những thứ xung quanh, mà chỉ tập nhận biết rằng có cái nhìn đang diễn ra. Đừng chú ý đến bất cứ cái gì.

Tâm của chúng ta đã quen tập trung chú tâm từ lâu rồi. Chúng ta rất giỏi làm việc đó bởi vì lúc nào chúng ta cũng chỉ làm như vậy. Vấn đề là ở chỗ chúng ta không nhận ra được rằng mình dang bị tập trung (quá mức, đến nỗi thành thói quen - ND). Chúng ta chỉ cố gắng hành thiền mà thực ra lại chẳng hiểu thiền là gì.

Thay vì phải cố gắng tìm hiểu tâm mình hoạt động như thế nào, nó đang chú ý ra sao, thì chúng ta lại cứ hướng tâm ra chỗ khác vậy. Chúng ta chỉ chú tâm nhìn vào đề mục và cứ nghĩ rằng đó chính là thiền. Bởi vì cái tâm của chúng ta đã quen lấy khái niệm chế định làm đề mục(28) (hay đối tượng để nhận biết), nó chú tâm vào các khái niệm đó và làm tâm chúng ta quên mất đối tượng quanh mình cần quan sát trong thiền là gì. Vì vậy đừng cố chú ý nhìn vào cái gì cả. Hãy chánh niệm hay biết cái nhìn và hay biết cả cái tâm hay biết của mình nữa.

CHÚ THÍCH:

(28) Khái niệm chế định (concept): Là tên gọi hay ý niệm về một sự vật hay sự việc nào đó mà chúng ta vẫn quen sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Khái niệm chế định đó không thể hiện được các tính chất, đặc tính của sự vật, hiện tượng (hay còn gọi là thực tại chân đế, thực tại cùng tột, chẳng hạn như tính chất của tứ đại: nóng, lạnh, cứng, mềm, sự chuyển động...) và do đó cũng không thể phơi bày được những đặc tướng phổ quát của tất cả các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã. Chính vì vậy, thiền Quán (Vipassanā) không sử dụng khái niệm chế định làm đề mục quán chiếu mà lấy thực tại chân đế là cái để quan sát, từ đó phát triển trí tuệ nhận biết ba tướng: vô thường, khổ, vô ngã ngay chính trong các đối tượng quan sát của thân tâm mình. Ngược lại thiền Chỉ (Samatha) lấy khái niệm chế định (hơi thở, các biến xứ - kasina...) làm đề mục. Đề mục của thiền Chỉ có thể là bất cứ khái niệm chế định nào, miễn là có thể làm vắng lặng nội tâm, chứ không nhất thiết phải là các đề mục trong thân tâm như thiền Vipassanā. Dĩ nhiên, bởi vì tâm chúng ta đã quá quen thuộc và lệ thuộc vào khái niệm chế định để hiểu thế giới quanh mình, nên rất khó, nếu không muốn nói là không thể tách rời minh bạch giữa khái niệm chế định và thực tại chân đế trong đối tượng quan sát. Hơn nữa nếu cố tình gượng ép gạt bỏ mọi khái niệm chế định để thấy cho bằng được thựcc tại chân đế thì thực ra lại là đang chồng thêm khái niệm mới lên trên khái niệm cũ. Giống như khi nhìn một dòng sông đang chảy, nếu nhìn kỹ vào dòng nước thì cái chúng ta nhận biết được chỉ là những giọt nước đang trôi chảy liên tục, và khái niệm dòng sông khi đó tự rơi rụng khỏi tâm mình, chứ không phải cố tình quên "dòng sông" đi thì mới thấy được nước đang trôi. Chính vì vậy chúng ta vẫn phải nương vào chế định để thấy ra được thực tại chân đế, chứ không phải cứng ngắc, duy ý chỉ gạt bỏ ngay mọi khái niệm chế định để thấy cho bằng được thực tại chân đế. Khi ấy cái thực tại chân đế đó cũng chỉ là một loại khái niệm chế định khác do tâm mình đề ra mà thôi. Chỉ bằng sự kiên trì tu tập với chánh kiến, thái độ chân chánh, khi định, niệm và tuệ giác Vipassanā ngày càng vững mạnh thì các khái niệm chế định ấy sẽ mờ dần đi một cách tự động trong quá trình quán chiếu, và thực tại chân đế sẽ hiện dần lên một cách rõ ràng hiển hiện trong sự quán sát của thiền sinh - ND.
  • KHI BẠN THỰC HÀNH TỐT
Thiền sinh: Sáng sớm hôm nay con có một thời thiền nằm tuyệt vời, vì vậy trước khi ăn trưa con lại nằm thiền thêm một lần nữa, bởi vì con nghĩ tân đang vào thiền tốt và đó cũng là một việc tốt nên làm. Nhưng khi nằm được năm phút thì con chợt nhận ra rằng mình đang cố lặp lại thời thiền tốt đẹp lúc sáng sớm. Con nhận ra rằng mình không thực sự để tâm mở rộng đón chào những kinh nghiệm mới bởi vì chi lo lặp đi lặp lại những kinh nghiệm cũ của mình.

Thiền sư: Tốt, đó là điều bạn cần phải biết. Bạn cần nhận biết những thái độ hành thiền sai lầm của mình, đó cũng là sự hiểu biết, cũng là trí tuệ. Nó cũng quan trọng như việc nhận biết thái độ chân chánh vậy.

Thiền sinh: Ồ, thật tuyệt vời. Vậy là con không thể bị lạc đường nữa.

Thiền sư: Hãy tập một thói quen luôn luôn quán sát lại trạng thái tâm của mình, không chỉ mỗi khi pháp hành có vấn đề mà ngay cả khi mình đang thực hành tốt đẹp nữa. Hãy tự hỏi mình các câu hỏi như: "Tâm đang hoạt động như thế nào?", "Thái độ hành thiền của mình ra sao?", "Tại sao pháp hành của mình lại tiến triển tốt đẹp như vậy? Bạn cần phải nhận biết được những nhân tố nào đã góp phần tạo nên hiện trạng tốt như vậy.

Làm công việc kiểm tra và quán sát lại như vậy trong khi pháp hành đang tiến bộ tốt là bạn đang cộng thêm cho mình một loại trí tuệ nữa. Nếu không làm như vậy, tâm bạn sẽ chỉ coi sự tiến bộ đó như một điều hiển nhiên, tự nó có. Tâm bạn nghĩ rằng: "À, có gì đâu, nó chỉ là một dòng chảy tự nhiên, đó chỉ là cách mọi sự sẽ phải diễn ra như vậy thôi mà". Khi coi thành quả đó như một điều đương nhiên sẽ phải đến, tâm bạn sẽ bắt đầu thả mình vào hưởng thụ, nó bắt đầu thích thú hưởng thụ thành quả của mình một cách thầm kín và sẽ cố gắng tìm cách để có lại được những kinh nghiệm y hệt như thế nữa. Vì vậy chớ bao giờ quên quán sát lại và tìm hiểu nguyên nhân tại sao mình thực hành tốt đẹp như vậy.
  • NUÔI DƯỠNG VÀ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ TRỰC GIÁC
Thiền sinh: Thưa thầy, trong pháp hành này trực giác có quan trọng không?

Thiền sư: Có, rất quan trọng. Trực giác là điều hết sức cần thiết. Trực giác là loại trí tuệ tự nhiên, nó sử dụng đến trí thông minh bẩm sinh bên trong con người bạn. Thế bạn nghĩ trực giác từ đâu đến?

Thiền sinh: Con nghĩ trực giác là cái tâm tự nhiên, cái tâm đó không phải do "chính mình" tạo ra.

Thiền sư: Thực ra có rất nhiều kinh nghiệm và sự kiện trong cuộc đời chúng ta góp phần nuôi dưỡng và hình thành lên cái trực giác ấy. Những người có chánh niệm liên tục thường có trực giác rất mạnh.

Thiền sinh: Nhưng trực giác đôi khi cũng có thể không đúng. Tại sao lại thế ạ?

Thiền sư: Trực giác phụ thuộc vào trí tuệ và thông tin, vào sự hiểu biết về nhân quả. Chỉ khi chúng ta đã thấu hiểu được tất cả những nhân duyên cần thiết để đưa đến một kết quả nhất định nào đó, thì lúc đó trực giác của chúng ta mới trọn vẹn một trăm phần trăm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • CHỨNG NGỘ NIẾT BÀN LÀ MỘT CÔNG VIỆC GIAN KHÓ
Thiền sinh: Thưa thầy, Niết bàn là gì? Niết bàn được sanh khởi lên như thế nào?

Thiền sư: Đức Phật nói rằng một cái tâm không còn tham, sân, si là Niết bàn. Nói cách khác, một cái tâm không còn phiền não có thể thấy được Niết bàn. Một cái tâm không có tham, sân, si là một cái tâm đầy trí tuệ và chỉ một cái tâm như thế mới có thể thấy được Niết bàn.

Thiền sinh: Như thế có nghĩa là chúng ta có thể chứng nghiệm được những khoảnh khắc Niết bàn mỗi khi phiền não tạm thời vắng mặt trong tâm phải không ạ?

Thiền sư: Đúng, có thể là như vậy. Nó được gọi là sự giải thoát tạm thời, giải thoát ngay trong hiện tại ( Khanika vimutti). Càng có nhiều trí tuệ, chúng ta càng thường xuyên có được những khoảnh khắc giải thoát như thế, và trí tuệ của chúng ta cũng sẽ càng tăng trưởng nhanh chóng hơn. Một cái tâm được tăng cường sức mạnh bằng cách này sẽ có rất nhiều trí tuệ, nhưng các thiền sinh thường thấy khó diễn đạt điều đó bằng lời.

Khi chúng ta đạt được những tuệ minh sát, những tuệ giác xuyên thấu vào bản chất tột cùng của các pháp, chúng ta lại không hiểu được Niết bàn. Bạn có biết tại vì sao không?

Thiền sinh: Không ạ.

Thiền sư: Bởi vì tất cả các đề mục hay đối tượng quan sát của các tuệ giác Vipassanā đều là các tiến trình thân tâm hay là danh sắc (Nāma-rūpa) và chúng đều là các pháp hữu vi (các pháp bị điều kiện hay là các hiện tượng tự nhiên sanh khởi, tồn tại và biến hoại tùy thuộc vào nhiều nhân duyên, điều kiện khác nhau - ND)[/i]. Khi những tuệ minh sát này trở nên ngày càng mạnh mẽ hơn, cuối cùng nó sẽ tiến đến một giai đoạn gọi là đạo tuệ (magga-ñāna). Chỉ một cái tâm đã đạt tới tầm mức trí tuệ như thế mới có khả năng thấu hiểu được Niết bàn.

Thiền sinh: Như vậy, theo thầy đó là một quá trình thu lượm trí tuệ một cách từ từ, tuần tự chứ không phải là đắc đạo một cách đột ngột, tức thời, phải không ạ?

Thiền sư: Đúng thế. Chứng nghiệm Niết bàn không phải là một việc ngẫu nhiên, người ta không thể tự nhiên "rơi" vào Niết bàn. Cũng như tất cả mọi sự trên đời, chỉ khi các nhân duyên đã tròn đủ thì kết quả mới trổ sanh. Đó chính là giáo lý về vô ngã.

Thiền sinh: Thế còn đối với những người đã từng tu tập rất nhiều từ những kiếp trước thì sao? Họ có thể nhớ lại và rồi bất ngờ đắc đạo ngay được không?

Thiền sư: Kiếp trước nào? Ngày hôm qua ư? Ngày hôm qua chính là kiếp trước và ngày mai sẽ là kiếp sau! Theo nghĩa chế định của thế gian thì có kiếp sau thật đó, nhưng trong thực tại tột cùng (chân đế) thì chỉ có cái tâm tiếp sau thôi. Mỗi một tâm là một kiếp sống. Một cái tâm đầy chánh niệm, định tĩnh và trí tuệ, từng giây phút, từ khoảnh khắc này qua khoảnh khắc kế, chính là đang hoàn thành các Ba la mật đến tròn đủ.

Niết bàn không phải là của biếu không; phải bỏ công sức ra lao động thì mới có được nó. Vì vậy đừng bao giờ tự bằng lòng với những gì mình đã hiểu biết được. Mỗi khi chúng ta cảm thấy hài lòng với chính mình là chúng ta đã tự làm cùn lụt đi sự tinh tấn của mình rồi đó.
  • HÃY ĐỂ CHO MỌI VIỆC MỞ DẦN RA MỘT CÁCH TỰ NHIÊN
Thiền sinh: Sáng nay thức dậy con vẫn cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Con tự hỏi không biết có nên tiếp tục nằm thêm hay là lên thiền đường hành thiền. Con nghe thấy những thiền sinh khác cũng đang lục tục trở dậy và đi lên thiền đường, vì vậy con nghĩ mình cũng nên phải dậy hành thiền cùng với họ. Nhưng con không thể quyết định được nên chọn cái nào và tâm bắt đầu cảm thấy rối. Việc này xảy đến với con quá thường xuyên và rồi làm cho con phải nghi ngờ cả về khả năng thực hành của chính mình nữa. Xin thầy cho con lời khuyên phải làm thế nào để đối phó với những tình huống như thế?

Thiền sư: Đừng có lo nghĩ linh tinh về việc mọi người làm gì hay họ suy nghĩ như thế nào về mình. Hãy nhìn vào chính mình một cách thật cẩn thận. Bạn có cần phải ngủ thêm không? Bạn có thực sự cảm thấy mệt mỏi không? Thức dậy và đi lên thiền đường hay là ngồi thiền ngay trên giường tốt hơn? Nếu bạn phân vân không thể quyết định được thì cũng cứ chấp nhận ngay việc đó. Chỉ đơn giản đứng lại tại chỗ; ghi nhận và chấp nhận bất cứ cái gì đang diễn ra. Mình cảm thấy dùng dằng, hồ nghi hay bất an ư. OK, không sao cả, không vấn đề gì cả. Hãy nhìn vào chính trạng thái tâm ấy và cố gắng học hỏi từ nó. Bất cứ khi nào nó diễn ra như vậy, đó chính là công vịêc thực hành bạn cần phải làm đấy.

Thiền sinh: Nhưng lúc cần phải quyết định chẳng lẽ con cũng cứ mặc kệ chẳng cần làm gì như vậy sao?

Thiền sư: Cứ nghĩ rằng mình cần phải quyết định chỉ làm cho mọi việc xấu hơn mà thôi. Nếu bạn chỉ cần tiếp tục quan sát chính trạng thái tâm ấy, thì cuối cùng tâm sẽ ổn định trở lại và tự nó sẽ quyết định. Đừng bao giờ cưỡng ép điều gì. Chỉ ghi nhận, chấp nhận và tiếp tục quan sát cho đến khi mọi việc tự mở ra một cách tự nhiên.

Thiền sinh: Dạ, vâng. Nhưng còn nghi ngờ thì sao ạ?

Thiền sư: Sự nghi ngờ sanh khởi khi bạn bất mãn về cách thức mọi sự việc đang diển ra, và khi có sự mâu thuẫn trong tâm về những việc nên làm hay không nên làm. Điều tốt nhất là bạn có thể làm được là, lại ghi nhận và quan sát nó. Hãy kiên nhẫn chờ đợi, đừng tham gia vào nó mà chỉ duy trì ghi nhận liên tục sẽ mang lại sự ổn định nội tâm và hiểu biết về những gì đang diễn ra. Chính điều này sẽ giúp tâm "tự động" có được những quyết định và những giải pháp đúng đắn.

Thiền sinh: Nghe giống như là có cả một đống công việc nặng nhọc cần phải làm ấy. Con nghĩ chắc mình phải cần thực hành rất nhiều nữa thì mới thực sự có thể để cho tiến trình này tự mở ra được như vậy.

Thiền sư: Đúng vậy. Bạn cần phải hết sức kiên nhẫn. Đừng tự cưỡng ép mình. Tất cả những gì bạn cần phải làm là tiếp tục thực hành. Tất nhiên bạn cũng cần phải thực sự hứng thú, thực sự tò mò muốn tự mình tìm hiểu ra những điều ấy.
  • LỢI ÍCH CỦA VIỆC THỰC HÀNH
Thiền sinh: Thưa thầy, pháp hành này có những lợi ích gì?

Thiền sư: Nói gọn là: bạn sẽ kinh nghiệm được và có thể hiểu được những việc mà bạn chưa bao giờ hiểu hay chưa từng kinh nghiệm được trước đây.
  • HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC
Thiền sư: Bạn hành thiền vì muốn có được cảm giác hạnh phúc hay vì muốn hiểu biết?

Thiền sinh: Một câu hỏi thật hay, nhưng quả thực con cũng không biết nữa.

Thiền sư: Nếu mục đích hành thiền của bạn là để tìm hạnh phúc thì trong đó luôn có sự khát khao, mong cầu hạnh phúc. Nơi nào có hạnh phúc, nơi đó cũng luôn có khổ đau kèm theo, bạn không thể chỉ muốn có cái này mà không có cái kia.

Chỉ khi nào có sự hiểu biết thực sự thì mới có được hạnh phúc thực sự. Không phải là thức hạnh phúc (ngoài đời) mà mọi người vẫn lặn ngụp, đắm chìm trong đó, mà là thứ hạnh phúc sanh khởi bởi vì bạn luôn bình an, tự tại với mọi sự như chúng đang là.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

VẤN ĐÁP VỀ THUẬT NGỮ
  • TÍN (Saddha)
Thiền sinh: Thưa thầy, trong cuốn ĐỪNG COI THƯỜNG PHIỀN NÃO đề cập rất ít tới đức tin. Xin thầy giảng thêm về ý nghĩa của tin (tín) và tầm quan trọng của nó ạ.

Thiền sư: Tín (Saddha) là đức tin, sự tin tưởng hay tin cậy. Khi chúng ta hành thiền, tất cả các căn (các phẩm chất tâm linh: Tín -Tấn - Niệm - Định - Tuệ), bao gồm cả tín căn đều cần phải tăng trưởng. Lòng tin vào chính bản thân mình hay sự tự tin vào khả năng thực hành pháp, vào sự hiểu biết về pháp hành mình đang theo đuổi cũng cần phải phát triển. Chỉ khi đặt lòng tin vào một cái gì đó, thì chúng ta mới có thể thực sự áp dụng và thực hành được nó. Chúng ta phải nhận biết được đức tin đang có trong mình - dù rằng nó nhiều ít ra sao. Nó chính là cái nâng đỡ và gìn giữ cho chúng ta trên đường đạo. Những người biết cách suy nghĩ chân chánh, những người có trí tuệ thường có đức tin rất mạnh. Tin mà không có trí tuệ đi cùng để kềm chế thì sẽ rất dễ trở thành loại đức tin mù quáng, mê tín. Chúng ta cũng có thể tự kiểm tra xem đức tin của mình có tăng trưởng lên hay không. Chúng ta có thực sự biết và thực sự hiểu được lợi ích của pháp hành mình đang theo đuổi hay không? Bây giờ chúng ta có bao nhiêu đức tin so với trước kia, khi chúng ta mới bắt đầu thực hành? Điều quan trọng là chúng ta phải tự nhận biết được đức tin đang có trong mình.

Hầu hết mọi người đã từng được nghe, đọc về việc phải cân bằng các căn trong ngũ căn (Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ) và hầu hết mọi người cũng dành rất nhiều thời gian cố gắng làm cân bằng giữa tấn (Viriya) và định (samāthi) với nhau. Rất ít người biết và thực hành việc làm cân bằng giữa tín và tuệ. Những người rất trí thức và suy nghĩ quá nhiều thường có ít đức tin. Họ hỏi quá nhiều. Nhưng những người có nhiều đức tin mà chẳng bao giờ chịu hỏi cả thì trí tuệ cũng sẽ trở nên yếu ớt.

Theo truyền thống thì đức tin thường được diễn dịch là lòng tin vào Tam Bảo. Nhưng làm thế nào mà một người mới bắt đầu thực hành pháp đã có ngay đức tin vào Tam Bảo được? Đức tin mà người thiền sinh cần phải có là lòng tin và sự hiểu biết về những gì họ đang thực hành theo. Những người có suy nghĩ chân chánh và do vậy cũng làm những việc chân chánh đều thấy rằng nhờ những việc làm đó mà sự hứng thú và đức tin của họ đã tăng trưởng lên một cách tự động.

Thiền sinh: Trong trường hợp tín và tuệ mất cân bằng, quá nhiều câu hỏi và quá ít đức tin, thì có dẫn đến nghi không?

Thiền sư: Có! Chắc chắn là có! Tất cả ngũ căn đều phải làm việc cùng với nhau. Bất cứ căn nào quá mạnh, hoạt động quá tích cực, thì sẽ đều dẫn đến làm suy yếu cả bốn căn còn lại. Các căn còn lại sẽ không còn tác dụng nữa, chúng không thể hoạt động có hiệu quả nữa. Người nào quá thiền định, tuệ sẽ không mạnh và không thể tăng trưởng được, tinh tấn cũng trở nên yếu ớt vì sức tập trung quá nặng của định, và niệm cũng không thể sắc bén. Nhưng nếu ba căn đó (tuệ, tinh tấn và niệm) không hoạt động tốt, thì tín sẽ bị tổn hại; bạn sẽ bắt đầu mất dần đức tin vào pháp hành.

Nếu tuệ quá mạnh, quá nhiều tri thức, quá nhiều câu hỏi, quá nhiều suy nghĩ thì sẽ không thể có định, tâm sẽ không có được sự ổn định cần thiết. Điều đó sẽ lại làm phá hoại các căn còn lại, và tất nhiên tín cũng sẽ lại bị chịu đòn oan. Cả năm căn đều cần phải cân bằng thì mới có thể hoạt động có hiệu quả được.

Thiền sinh: Hình như thầy dùng từ tri thức để nói về tuệ căn trong ngũ căn, nhưng theo con hiểu thì tri thức không phải thực sự là tuệ.

Thiền sư: Chúng ta đã đề cập đến ba loại trí tuệ khác nhau trước đây: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ (Sutamayā paññā, cintāmayā paññā, bhāvanāmayā paññā: trí tuệ do học hỏi từ kiến thức sách vở; trí tuệ do tư duy, suy luận và trí tuệ do tu tập mà có). Tôi vừa nói đến hai loại trí tuệ đầu mà chúng ta có thể áp dụng được, đó là văn tuệ và tư tuệ. Còn khi bạn đã có tu tệ (bhāvanāmayā paññā) thì tất cả mọi thứ đã trở nên cân bằng rồi. Bạn không thể có quá nhiều tu tuệ được. Bạn không thể "đưa vào" hay tạo ra loại tu tuệ này được, cố làm vậy bạn chỉ có thể "làm méo mó" các căn thêm mà thôi. Đầu ra luôn luôn phải phụ thuộc vào đầu vào.

Thiền sinh: À, vậy thì con hiểu rồi. Càng có nhiều tu tuệ sẽ càng có nhiều đức tin, nhưng càng có nhiều đức tin thì chưa chắc là sẽ có nhiều tu tuệ.
  • NIỆM THÂN (Kāyānupassanā)
Thiền sinh: Quán thể trược (Kāyagatāsati) và quán tử thi (Sīvathikā) là những pháp hành niệm thân được biết đến rất nhiều. Tại sao thầy không dạy những pháp hành đó?

Thiền sư: Thầy tôi dạy rất nhiều về những vấn đề tinh yếu của thiền; nhưng ngài không dạy những pháp hành đó. Khi bạn học hiểu về bản chất của tất cả các pháp (Dhammānupassanā - niệm pháp) thì niệm thân cũng đã được bao hàm trong đó rồi. Khi bạn thực hành niệm tâm (Cittānupassanā) và niệm pháp (Dhammānupassanā), thì niệm thân (Kāyānupassanā) và niệm thọ (Vedanānupassanā) cũng đang được thực hành cùng lúc. Thầy tôi không thực hành thiền Chỉ (Samatha) trước rồi mới chuyển sang Vipassanā mà ngài vào thẳng thiền Vipassanā. Niệm thân là phần thuộc về thiền Chỉ trong kinh Tứ Niệm Xứ, bạn chỉ chú tâm đến các khái niệm chế định.

Thiền sinh: Theo kinh nghiệm của con thì pháp hành niệm thể trược(29) rất ích lợi. Nó cho con những thông tin hữu ích và lưu giữ đằng sau tâm để sẵn sàng sử dụng mỗi khi có tâm tham dục khởi sanh. Con không còn thực hành theo sách đó nữa, nhưng con thấy nó rất quan trọng trong một giai đoạn nào đó.

Thiền sư: Chắc chắn rồi, nó có thể rất có ích và cần thiết trong một giai đoạn nào đó - chính vì thế đức Phật mới dạy chứ.

Nếu chúng ta thực sự cố gắng tìm hiểu tâm mình liên tục không gián đoạn, thì dần dần tất cả mọi mặt của pháp hành đều trở thành một phần kinh nghiệm và sự hiểu biết của chính mình. Chúng ta không nên quên rằng, dù bắt đầu từ pháp hành nào chăng nữa, cuối cùng thì nhiệm vụ của chúng ta vẫn là để học cách đối phó với những phiền não trong tâm mình.

CHÚ THÍCH:

(29) Quán ba mươi hai bộ phận trong cơ thể như: móng, lông, tóc, răng, da... để thấy được bản chất bất tịnh của cơ thể. Quán ba mươi hai thể trược cùng với quán tử thi là những đề mục niệm được cho là để đối trị tham dục và là những đề mục có thể dẫn đến các tầng thiền chỉ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • NIỆM (Sati) VÀ TÀ KIẾN (Micchā ditthi)
Thiền sinh: Con có nghe thầy nói với một thiền sinh rằng niệm (Sati) có liên quan đến tà kiến (Micchā ditthi). Thưa thầy, vậy làm sao hai cái đó lại có thể đi cùng nhau được?

Thiền sư: Trong Bát Chánh Đạo đều đề cập đến những cái "chánh" như Chánh Kiến, Chánh Tư duy..., và như vậy suy ra, có "chánh" thì tất sẽ có "tà". Để có được "Chánh niệm" (Sammā-sati), thì cần phải có Chánh kiến và Chánh Tư duy đi cùng. Không có hai cái đó thì không thể gọi là Chánh niệm - Sammā-sati. Chỉ khi Niệm có được tính chất không phóng dật (Appamāda), không dễ duôi, không quên lãng đề mục đúng đắn cần quan sát hay nói cách khác khi Niệm có phần trí tuệ trong đó, thì nó mới có thể là Chánh niệm - Sammā-sati.

Bây giờ nếu bạn bảo một người hoàn toàn không biết tý gì về thiền hãy tự quan sát chính bản thân mình, bạn nghĩ là họ sẽ làm như thế nào? Họ hành thiền từ góc độ suy nghĩ, tư cách nhìn như thế bào, bạn có biết không? Cái thân CỦA TÔI, cái tâm CỦA TÔI! Đó là tà kiến chứ chẳng phải là chánh niệm gì cả. Chính vì vậy, một điều vô cùng thiết yếu trong thiền là người thiền sinh phải có được những thông tin đúng trước khi họ bắt tay vào thiền tập. Vì vậy, khi hướng dẫn thiền sinh mới, tôi cố gắng chỉ ra cho họ thấy rằng cái chúng ta quan sát chỉ là những hiện tượng tự nhiên, chỉ là tự nhiên, chỉ là pháp đang vận hành mà thôi. Tôi thường yêu cầu thiền sinh suy nghĩ đến những câu hỏi như là: Có phải chỉ có mỗi mình bạn mới thấy được những cảm giác và các trạng thái tâm khác nhau như vậy sao? Thiền sinh cần phải tự hiểu ra rằng tất cả những thứ đó đều chỉ là một phần của tự nhiên, chúng không thuộc về bất cứ một ai cả.
  • ĐỊNH (Samāthi)
Thiền sinh: Con xuất phát từ một trường phái thiền mà coi định (Samāthi) và việc chứng đắc các tầng thiền chỉ có tầm quan trọng rất lớn. Xin thầy giảng giải thêm về cách hiểu của thầy về định như thế nào?

Thiền sư: Tôi thích loại định được phát triển nhờ trí tuệ. Khi có trí tuệ, khi tâm hiểu biết được các pháp, thì ngay đó tâm đã có sự ổn định và có được cái gọi là Chánh định rồi (Sammā-sammādhi). Chánh định mang lại sự trong sáng, rõ ràng của chánh niệm và tuệ giác. Rất nhiều thiền sinh cứ nghĩ rằng họ chỉ đạt được Chánh định khi có được cái cảm giác nhập định, xuất thần nào đó. Loại định này được xây dựng nên cùng với những căng thẳng, ức chế trong tâm. Trong những trạng thái như vậy, họ sẽ không thể học hỏi được cái gì và độ sáng suốt, rõ ràng của chánh niệm cũng không thể tăng trưởng. Trạng thái tâm được gọi là định là một trạng thái rất thoải mái, thư giãn, mát lạnh và tĩnh lặng. Nó có khả năng thu nhận lớn và rất nhạy cảm với bất cứ cái gì đang diễn ra và vì vậy có khả năng hay biết lớn hơn rất nhiều.

Rất nhiều thiền sinh có cách hiểu rất sai lầm về việc phát triển định tâm. Họ chú tâm, họ đầu tư rất nhiều sức lực vào đó, nhưng rất nặng nề; không có một chút thư thái, nhẹ nhàng nào cả. Trong thiền Vipassanā, tất cả những gì chúng ta cần chỉ là một sự ổn định nội tâm vừa đủ để duy trì chánh niệm liên tục trong từng khoảnh khắc. Chúng ta chỉ cần một nội tâm ổn định để hay biết những gì đang diễn ra, chỉ thế thôi. Chúng ta không cần định của các tầng thiền chỉ; bạn không thể sử dụng toàn định Appanā samāthi) của thiền chỉ để thực hành thiền Vipassanā được. Những thiền sinh đã đắc được các tầng thiền chỉ, trước tiên họ cần phải thoát ra khỏi các tầng thiền đó thì mới có thể thực hành được thiền Vipassanā.

Toàn định của các tầng thiền chỉ có thể đè nén được phiền não; khi ở trong các tầng thiền chỉ các phiền não loại thô không còn tồn tại nữa. Toàn định của thiền chỉ đè nén năm loại triền cái. Nhưng toàn định chỉ đè nén được dục tham (Kāma-chanda), chứ không thể đè nén được các loại tham khác (Lobha), Hữu ái (Bhava-tanhā), khát vọng trở thành, sự khao khát sinh tồn, vẫn hiện diện đầy đủ trong tất cả các tầng thiền chỉ.

Định chỉ trở thành hoàn toàn viên mãn khi nó có đủ cả ba chi phần: Chánh niệm (Sammā-sati). Chánh Tinh tấn (Sammā-vāyāma) và Chánh định (Sammā-samādhi). Khi có chánh niệm liên tục cùng với thái độ chân chánh và suy nghĩ chân chánh thì định sẽ phát triển một cách tự nhiên.

Thiền sinh: Thưa thầy, khi mới đến đây con thấy rất khó chấp nhận việc nói chuyện và giao tiếp của các thiền sinh. Con không tin là có thể đạt được tâm định khi có những thái độ hành thiền như vậy. Phải mất cả một thời gian tương đối dài, con mới dần dần chấp nhận được rằng thực hành thiền trong khi nói chuyện cũng có giá trị của nó và đó cũng là một pháp hành quan trọng. Sau khi đã vượt qua được sự chống đối trong tâm như vậy và bắt đầu thử thực hành theo, thì con phát hiện ra rằng không những con vẫn duy trì được tâm định mà còn cảm thấy rất nhẹ nhàng, uyển chuyển - ít xáo động hơn. Tại sao vậy thưa thầy? Điều gì đã xảy ra?

Thiền sư: Định tâm đạt được từ tĩnh lặng thì hơi căng cứng - hay là dễ vỡ như bạn nói. Nó phải phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện bên ngoài và vì vậy sẽ dễ dàng mất đi khi sự yên lặng bị phá vỡ. Định tâm kiểu đó làm bạn cảm thấy mạnh nhưng lại rất mong manh.

Khi phải thực hành trong những điều kiện đòi hỏi, mình phải cố gắng nhiều như trong lúc nói chuyện và giao tiếp, thì bạn sẽ khó phát triển định tâm hơn. Trong những lúc như thế, bạn sẽ chỉ có thể phát triển được định tâm khi giữ được một cái tâm rộng mở cùng với thái độ chân chánh. Tuy nhiên, bởi vì bạn cần phải khéo léo hơn nhiều để phát triển định tâm trong những hoàn cảnh như thế, nên định tâm đó sẽ lại kéo dài lâu hơn. Loại định tâm này năng động và linh hoạt hơn bởi vì nó không phải phụ thuộc vào những điều kiện cố định. Mỗi khi bạn mất chánh niệm, bạn sẽ bình tĩnh lấy lại nó và kết nối trở lại với pháp hành.

Thực hành trong cuộc sống hàng ngày, luôn duy trì được chánh niệm và định tâm liên tục trong mọi lúc là một điều rất khó, có những lúc bạn quên mình đi lao mình vào việc này việc nọ, rồi lúc nào đó mới lại chợt nhớ ra là phải chánh niệm. Miễn là bạn luôn duy trì được thái độ chân chánh và nhận biết ra những lúc tự đánh mất mình như thế, chỉ như thế thôi đã là tốt lắm rồi. Còn nếu bạn cứ khư khư chấp thủ vào cách suy nghĩ cứng ngắc rằng chỉ có thể phát triển được định tâm và chánh niệm trong những môi trường tu tập đặc biệt nào đó, là bạn sẽ trở thành cứng ngắc và rồi sẽ kẹt lại trong pháp hành không thể tiến lên được nữa.
  • TRẠCH PHÁP, GIÁC CHI VÀ TỈNH GIÁC (Dhamma-vicaya, Bojjhanga, Sampajañña)
Thiền sinh: Trong cuốn ĐỪNG COI THƯỜNG PHIỀN NÃO, thầy không nói đến thuật ngữ trạch pháp (thẩm xét và tìm hiểu bản chất của các hiện tượng thân tâm - Dhamma-vicaya). Nhưng hình như thầy có lý giải một chút về nó chương Chánh Niệm một cách thông minh, phải không ạ?

Thiền sư: Đúng, đúng như thế.

Thiền sinh: Xin thầy giảng thêm về ý nghĩa và tầm quan trọng của trạch pháp.

Thiền sư: Thiền Vipassanā là một công việc của trí thông minh. Chính vì thế nên trạch pháp là vô cùng quan trọng. Mục tiêu của thiền Vipassanā là để có được trí tuệ. Nếu bạn muốn có trí tuệ, bạn phải bắt đầu bằng trí tuệ, bạn phải đầu tư trí tuệ để có thêm nhiều trí tuệ hơn nữa. Đó là lý do tôi vẫn thường hỏi các thiền sinh rằng: Nếu còn là phàm phu (puthujjana)(30), và phàm phu là "những kẻ đầy phiền não" - thì làm sao có thể hành thiền được mà không bị phiền não xen vào.

Bởi vì chúng ta còn đầy phiền não nên không thể hành thiền mà không có phiền não, vậy thì phải bắt đầu từ đâu? Phàm phu thì phải bắt đầu hành thiền với thông tin hướng dẫn về vô si, tức trí tuệ. Mặc dù trong tất cả những con người phàm phu đều đầy rẫy phiền não, song họ cũng có được một vài phần trí tuệ nào đó. Đạo Phật phân trí tuệ ra làm ba loại khác nhau: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ (Sutamayā paññā, Cintāmayā paññā, Bhāvanāmayā paññā). Loại đầu tiên là thông tin, là kiến thức sách vở nói chung; loại thứ hai là tư duy và suy luận lô-gíc; loại thứ ba là tuệ giác trong thiền. Trạch pháp nằm trong tư tuệ.

Khả năng sử dụng trạch pháp này đến từ đâu? Từ thông tin, kiến thức, chúng ta phải có thật nhiều thông tin đúng đắn trước đã. Khi đã có được loại kiến thức cơ bản hay kiến thức tổng quát như thế, chúng ta sẽ biết cách phải suy nghĩ như thế nào cho phải. Bản thân tôi đã may mắn có được một người thầy rất tốt, người đã trao truyền cho tôi biết bao nhiêu kiến thức và những lời khuyên vô cùng giá trị để áp dụng trong quá trình thiền tập. Tôi vô cùng tri ân cái "khoảng không gian" mà ngài đã dành cho tôi để được tự học hỏi. Mỗi khi phát hiện ra một điều gì mới mẻ trong quá trình thực hành, tôi lại mang đến kể cho ngài nghe. Ngài thường hỏi: "Tại sao?" Thường thường là tôi không biết câu trả lời thế nào và ngài không bao giờ nói cho tôi ngay lập tức. Bởi vì tôi thực sự hết lòng muốn biết, nên tôi mang hết cả tâm lực của mình ra để tìm kiếm câu trả lời. Đối với loại công việc tìm hiểu, trạch pháp như thế này nếu chỉ có mỗi chánh niệm thì không đủ. Tôi thực sự phải động não rất nhiều. Đó mới chính là sự quán chiếu và tìm hiểu pháp bằng trí thông minh của mình, hay còn gọi là trạch pháp (Dhamma-vicaya). Tôi thực sự muốn biết, và đối với tôi đó quả thật là một thử thách vô cùng tích cực - giống như một trò chơi - và tôi tìm đủ mọi cách để tìm cho ra bằng được câu trả lời. Tôi thường tìm ra được nó nhưng không phải lúc nào cũng tìm ra được câu trả lời đúng. Khi thầy tôi thấy tôi loay hoay mãi mà không ra được thì lúc ấy ngài mới giải thích cho tôi hiểu.

Trong Thất Giác Chi hay bảy chi phần dẫn đến giác ngộ, có ba giác chi là nhân, và bốn giác chi còn lại là quả. Ba nhân là: Chánh niệm (Sati), trạch pháp (Dhamma-vicaya) và tinh tấn (Viriya). Những chi phần này là những "đầu vào" mà bạn có thể chủ động đưa vào được. Bốn quả là: hỷ (Pīti), khinh an (Pasadhi), định (Samādhi), và xả (Upekkhā). Những chi phần quả này, chúng ta không thể tạo ra chúng, cũng không thể bắt chúng phải xảy ra được. Khi nói về ba loại trí tuệ, tôi đã nói rằng trạch pháp (Dhamma-vicaya) nằm trong tư tuệ Cintāmayā paññā). Xả giác chi nằm trong tu tệ (Bhāvanāmayā paññā), đây là loại tâm xả phát sánh do nhờ chánh trí và sự hiểu biết đúng đắn.

Trí thông minh hay trí tuệ là điều vô cùng cần thiết trong thiền Vipassanā. Trạch pháp là một loại trí tuệ và vì vậy nó rất quan trọng. Đối với những người thông minh và biết nghĩ cho chính mình, thiền Vipassanā sẽ rất hiệu quả. Họ sẽ rất dễ hiểu, tu tuệ (Bhāvanāmayā paññā) sẽ đến rất dễ dàng đối với những người có trí thông minh bẩm sinh cao và có tư tuệ mạnh Cintāmayā paññā). Đối với những người tư tuệ kém, ít tư duy, suy nghĩ lô-gíc yếu thì sẽ phải mất nhiều thời gian hơn. Những người có tư tuệ yếu như thế cần phải dựa rất nhiều vào kiến thức sách vở - hay văn tuệ (Sutamayā paññā). Họ cần phải thu thập thêm rất nhiều kiến thức và cần phải nghe theo lời khuyên của những người khác. Họ cần phải có người nói cho mình biết phải làm gì, bởi vì họ không có khả năng tự tìm ra câu trả lời cho chính mình.

Theo kinh điển, có bảy nhân duyên khiến cho trạch pháp sanh khởi, đó là:
  1. Thường xuyên hỏi pháp, đàm luận về pháp, quán chiếu và tìm hiểu pháp, tư duy về pháp.
  2. Vệ sinh sạch sẽ cả bên trong lẫn bên ngoài. Việc này sẽ giúp cho tâm mình được sáng suốt rõ ràng. Sự sáng suốt trong tâm là một nhân duyên khiến cho trí tuệ sanh khởi (Vệ sinh bên ngoài nghĩa là làm sạch thân thể và môi trường sống - liêu cốc, sân vườn... đến mức mình có thể làm được - nhưng điều quan trọng hơn là vệ sinh bên trong, nghĩa là dọn sạch các phiền não ra khỏi tâm mình).
  3. Học cách làm cân bằng ngũ căn (Ở đây có rất nhiều việc cần phải làm. Bạn cần phải nhận diện được các căn này có trong mình, và cần tìm xem căn nào quá mạnh, căn nào quá yếu để có thể cân bằng lại cho tốt).
  4. Tránh xa những kẻ không có trí tuệ.
  5. Gần gũi, thân cận những người có trí tuệ.
  6. Suy xét, quán chiếu về trí tuệ sâu sắc, quán chiếu và tư duy những vấn đề sâu sắc.
  7. Có ước muốn làm tăng trưởng trí tuệ trong mình.
Thiền sinh: Thưa thầy, trạch pháp (Dhamma-vicaya) và chánh niệm tỉnh giác (sati-sampajañña) khác nhau như thế nào? Xin thầy giảng giải thêm về sự chánh niệm tỉnh giác này.

Thiền sư: Cả hai (trạch pháp và chánh niệm tỉnh giác) đều là trí tuệ. Trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthāna Suttra) có nói chánh niệm phải có cả tỉnh giác đi kèm, cả hai đều cần phải có mặt. Tất cả bốn loại tỉnh giác đều có liên quan đến trí tuệ. Nói một cách đơn giản thì loại tỉnh giác đầu tiên là thích nghi tỉnh giác (Sātthaka-sampajañña), loại thứ hai là lợi ích tỉnh giác (Sappāya-sampajañña). Hai loại tỉnh giác đầu tiên này thuộc về văn tuệ (Sutamayā paññā) và tư tuệ Cintāmayā paññā). Chúng có liên quan rất nhiều đến sự thực hành của chúng ta trong thực tế. Nhưng khi pháp hành đã có đà tiến và hiểu biết đã tăng trưởng, chúng ta sẽ kinh nghiệm được loại tỉnh giác thứ ba là giới vức tỉnh giác (Gocara-sampajañña), đó là sự hiểu biết rằng chỉ có các tiến trình danh sắc đang diễn tiến, không có người nào trong đó cả. Loại tỉnh giác cuối cùng, vô si tỉnh giác (Asammoha-sampajañña), là hiểu biết về vô thường, khổ, vô ngã. Hai loại tỉnh giác cuối thuộc về tu tuệ (Bhāvanāmayā paññā). Hai loại đầu, thích nghi tỉnh giác và lợi ích tỉnh giác, là nhân; hai loại sau là quả, là những tuệ giác sanh khởi lên trong quá trình tu tập.

Loại tỉnh giác đầu tiên, thích nghi tỉnh giác (Sātthaka-sampajañña) liên quan đến sự thích hợp, sự hợp tình hợp lý của những hành động, thái độ của người thiền sinh. Điều thích hợp nhất phải làm bây giờ là gì? Loại thứ hai, lợi ích tỉnh giác, có liên quan đến tính lợi ích của những hành động và thái độ đó. Lúc này cần vận dụng cái gì để có lợi ích nhất đây? Cách nào, cái gì phát huy tác dụng hiệu quả nhất bây giờ? Tất cả những điều này đều là trạch pháp cả (Dhamma-vicaya). Bạn thấy được tâm đang hoạt động ra sao trong hiện tại, và bạn cũng thấy được cả bức tranh toàn cảnh; lĩnh vực hoạt động của chánh niệm, tâm mình đang bỏ sức cố gắng ra sao, mối quan hệ giữa tâm và đối tượng quan sát như thế nào? v.v... Rồi tâm sẽ tự hỏi: "Bây giờ tôi phải làm gì?" Nếu chỉ chú mục nhìn vào đề mục thôi thì không đủ. Chính vì vậy bây giờ tôi bắt đầu đặt vấn đề nghi vấn thuật ngữ "thuần chánh niệm" (bare attention). Chúng ta hiểu thế nào về thuần chánh niệm đây?

Hai loại tỉnh giác đầu thật ra chỉ là trí tuệ theo nghĩa thông thường. Nó là loại trí tuệ hoạt động khi bạn đang hành thiền, là cái mách bảo cho bạn biết cách làm một việc gì đó như thế nào. Làm như thế này thì có lợi hay không? Chẳng hạn bạn biết rằng nếu sử dụng nhiều sức hoặc cố gắng hơn sẽ ảnh hưởng đến thiền tập của mình như thế nào. Trong cuộc sống hàng ngày cũng thế, trí tuệ thông thường này cũng làm việc và giúp bạn có được những quyết định khôn ngoan trong bất cứ công việc nào mình định làm, để thấy ra được việc đó có thích hợp hay không, có lợi ích hay không...

Thiền sinh: Con vẫn chưa hiểu rõ sự khác nhau giữa chánh niệm tỉnh giác (Sati-sampajañña) và trạch pháp (Dhamma-vicaya).

Thiền sư: Nghĩa của chúng thường chồng chéo lên nhau, nhưng chỉ có hai loại tỉnh giác đầu tiên là trạch pháp. Đây là theo cách hiểu của tôi.

Tôi muốn giải thích thêm một chút về giới vức tỉnh giác (Gocara-sampajañña). Diễn đạt theo cách khác, chúng ta có thể nói rằng giới vức tỉnh giác có mặt khi tâm chú ý nhiều hơn đến bản chất của pháp trong các sự việc và kinh nghiệm hơn là đến các khái niệm chế định. Điều này chỉ xảy đến khi pháp hành đã có được đà quán tính. Nhìn vào bản chất thực tại của sự việc, hiện tượng hơn là vào khái niệm chế định sẽ trở thành một việc gần như là tự nhiên đối với tâm hành giả. Khi đó, bản chất của các pháp đã trở thành chỗ làm việc hay đất sống của trí tuệ (dịch sát theo nghĩa đen của từ gocara-sampajañña). Nếu loại chánh niệm này được duy trì trong một thời gian dài, thì bản chất vô thường, khổ, vô ngã (Dukkha, anicca, anattā) của các pháp sẽ không còn bị hiểu sai nữa.

Thay vì thực sự hiểu vô thường, khổ, vô ngã, người ta lại dành quá nhiều thời gian để tư duy về chúng, suy nghĩ về chúng trong lúc thực hành thiền mà chẳng có được bất cứ hiểu biết thực sự từ trực giác và kinh nghiệm thực tế nào cả. Chính vì vậy tôi cũng không thích sử dụng nhiều những từ như vô thường, khổ, vô ngã khi nói pháp. Tôi thích đề cập đến nó chỉ khi thiền sinh trình pháp về những kinh nghiệm thật của chính mình, về những điều họ quan sát và kinh nghiệm được, chứ tôi không thích khi cứ phải nghe họ kể rằng họ đã thấy được vô thường hay vô ngã gì gì đó - những điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.

Nếu chỉ có sự định tĩnh và cố gắng tinh tấn giữ chánh niệm thôi thì không đủ, bạn cần phải kiểm tra lại xem tất cả ngũ căn (Pañca indriyas) có hiện diện trong mình hay không. Bạn có thể tự hỏi: "Tôi có tin tưởng vào những gì mình đang làm hay không? Tôi có thực sự biết mình đang làm gì hay không". Khi đã có kinh nghiệm thực hành, bạn sẽ luôn luôn thấy được năm căn có hoạt động hay không, và chúng có cân bằng với nhau hay không.

Thiền sinh: Thế còn Thất giác chi hay bảy chi phần dẫn đến giác ngộ thì sao ạ? Chúng ta có cần phải kiểm tra hay không?

Thiền sư: Có. Thất giác chi cũng được chia ra thành các giác chi thuộc nhân và các giác chi thụoc quả. Bạn chỉ cần kiểm tra các nhân: niệm (Sati), tinh tấn (Viriya), và trạch pháp (Dhamma-vicaya), hay tuệ (Pañña). Bạn phải đặc biệt chú ý đến tinh tấn giác chi, trong ba giác chi thuộc về nhân, nó là phần khó nhất. Với niệm và tuệ (hay trạch pháp) thì không có vấn đề gì cả, chúng luôn luôn là thiện (nghĩa là không có phiền não ẩn mình trong đó), nhưng tinh tấn lại luôn luôn là chỗ hay gây rắc rối nhất. Tinh tấn mà có phiền não đi cùng là tà tinh tấn. Hầu hết các thiền sinh đều cố gắng tinh tấn với tâm tham trong đó, vì vậy họ sử dụng loại tinh tấn đi cùng với phiền não. Có hai loại ham muốn: một là tham (Lobha) là ham muốn bất thiện, hai là ước nguyện (Chandra) là ham muốn thiện. Bạn phải xem lại thật rõ ràng xem mình đang cố gắng tinh tấn với tâm tham (Lobha) hay với tâm ước nguyện (Chandra).

Khi tinh tấn với tâm tham, bạn sẽ bị căng thẳng và sẽ phải trả giá, phải chịu khổ. Khi thành công thì bạn sung sướng, nhưng khi thất bại thì buồn chán, thậm chí còn bị trầm cảm. Nhưng khi bạn tinh tấn với tâm ước nguyện (Chandra - là ước muốn một cách trí tuệ, ước nguyện được phát triển về mặt tâm linh), bạn sẽ không phải chịu khổ và tâm bạn sẽ trở nên rất mạnh mẽ. Khi thành công bạn không cảm thấy hào hứng quá mức, khi thất bại bạn cũng không chán chường, buồn khổ. Đó chính là kết quả của chánh tinh tấn. Có chánh tinh tấn, bạn sẽ không bao giờ bỏ cuộc mà sẽ cố gắng nhiều hơn nữa, cố gắng lại nhiều lần. Vì vậy điều quan trọng là phải thường xuyên kiểm tra tâm xem lại động cơ của mình có chân chánh không.

Hỏi pháp và tìm hiểu pháp rất lợi ích cho việc phát triển trạch pháp giác chi. Chú giải kinh Tứ Niệm Xứ nói rằng có bốn loại câu hỏi dành cho mỗi giác chi mà người thiền sinh cần phải xem xét. Chẳng hạn: thiền sinh cần phải biết khi nào niệm giác chi có mặt, khi nào vắng mặt; tại sao nó có mặt và tại sao nó tăng trưởng. Mỗi câu hỏi phản ánh một trình độ hiểu biết khác nhau; để nhận biết xem cái gì đó có mặt hay không thì không khó lắm, nhưng hai câu hỏi sau thì có thể có rất nhiều câu trả lời khác nhau. Để đạt được những hiểu biết ở trình độ này có thể là tương đối khó. Hãy tự hỏi mình những câu hỏi như vậy, cố gắng tìm hiểu cho ra vấn đề hay thảo luận với những người khác; những cách đó có thể giúp bạn tăng trưởng thêm trí tuệ. Loại tìm hiểu và quán trạch này cũng được xem là một trong những nhân duyên khiến trạch pháp sanh khởi.

CHÚ THÍCH:

(30) Phàm phu: Những con người phàm tục chưa đắc bất cừ tầng đạo quả nào trong bốn tầng đạo quả từ Tu đà hoàn đến A la hán. Trong con người phàm phu vẫn còn nguyên vẹn mười loại kiết sử hay phiền não tùy miên là: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham, sân, sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử, vô minh. Tầng thánh quả đầu tiên là Tu đà hoàn hay Dự lưu cắt đứt ba loại kiết sử đầu tiên là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Bậc thánh Tu đà hoàn vĩnh viễn không còn tái sanh lại trong bốn đường ác đạo là địa ngục, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh nữa, mà chỉ còn tái sanh nhiều nhất là bảy lần nữa (Thất lai) trong cõi dục giới trước khi đạt đến quả giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi sanh tử. Tầng thánh thứ hai là Tư đà hàm không cắt tuyệt được thêm loại kiết sử nào nữa, mà chỉ làm suy yếu hai loại kế là tham, sân. Bậc thánh Tư đà hàm chỉ còn tái sanh lại một lần duy nhất (Nhất lai) trong cõi dục giới. Tầng thánh thứ ba, A na hàm cắt đứt hoàn toàn năm kiết đầu tiên (ba kiết sử đầu được cắt bởi đạo quả Tu đà hườn và tham, sân), và không còn tái sanh lại trong cõi dục giới nữa (Bất lai). Bậc A na hàm sẽ tái sanh lên cõi Phạm thiên và sẽ đắc quả vị A la hán và nhập Niết bàn tại cõi đó. Tầng thánh cao nhất là thánh quả A la hán cắt đứt hoàn toàn mươi loại kiết sử, vĩnh viễn không còn tái sanh nữa - ND.[/b]


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • QUAN SÁT VÀ VƯỢT QUA PHIỀN NÃO
Thiền sinh: Thưa thầy, có khi nào như thế này được không: tâm có phiền não nhưng cũng đồng thời có trí tuệ hay biết rằng phiền não đang có mặt, và cả sự thư giãn, thanh thản ngay giữa sự hay biết ấy?

Thiền sư: Có, có thể được, khi phiền não được hay biết một cách rõ ràng chỉ như một đề mục, khi có sự hiểu biết rõ ràng như thế thì có thể được chứ. Chính vì vậy tôi vẫn thường nhắc các thiền sinh hãy quan tâm chú ý nhiều hơn đến cách mình quan sát đề mục như thế nào. Nếu biết quan sát một cách đúng đắn, nếu tâm quan sát không bị nhiễm phiền não thì họ có thể quan sát phiền não một cách hoàn toàn khách quan, không thiên vị. Rất nhiều thiền sinh nói rằng họ đã làm được như thế, họ giữ được trạng thái tâm quan sát riêng hẳn ra, tách biệt với phiền não; họ cũng thể hiện rõ ràng sự cảm nhận hoàn toàn không có phiền não trong tâm quan sát đó.

Thiền sinh: Đó là cảm giác thanh thản và giải thoát ngay cả khi đang có phiền não phải không ạ?

Thiền sư: Đúng thế, họ có thể thấy rất rõ rằng những phiền não đó chẳng có liên quan gì đến "mình" cả. Đó chính là lúc sự hiểu biết về vô ngã đang có mặt.

Thiền sinh: Khi phiền não được quan sát như thế thì nó có còn là phiền não nữa không?

Thiền sư: Có thể có hai phương diện, hai tính chất khác nhau của trí tuệ đang làm việc. Có thể đó là trí tuệ giải phóng tâm quan sát khỏi quá trình tự đồng hóa với phiền não, và do đó mang lại sự giải thoát trong quan sát ấy. Nhưng nếu chỉ nhìn nó thôi thì phiền não cũng không thể biến mất được. Chỉ khi nào hiểu được chính bản thân phiền não đó, chỉ khi hiểu thấu hoàn toàn được nó, thì nó mới ra đi thực sự.

Thiền sinh: Xin thầy giảng thêm về ba cấp độ của phiền não.

Thiền sư: Khi bạn không thấy bất cứ phiền não nào trong tâm, lúc đó chúng chỉ tồn tại như là những tiềm năng bên trong, và được gọi là phiền não tùy miên hay phiền não ngủ ngầm (Anusaya). Ở cấp độ này phiền não bị ẩn dấu và chúng ta không thể hay biết được chúng. Chúng ta chỉ có thể quan sát được phiền não khi chúng nổi lên trên bề mặt của tâm thức - đó chính là cấp độ thứ hai - và khi chúng đã thể hiện ra ngoài thành hành động và lời nói thì đã trở thành cấp độ thứ ba. Tiếng Pali, phiền não ở cấp độ thứ hai được gọi là Pariyutthāna, và cấp độ thứ ba được gọi là vītikhama.

Thiền sinh: Như vậy phiền não ở cấp độ thứ nhất là không thể thấy được được và chúng luôn luôn chỉ muốn làm chủ mình?

Thiền sư: Đúng, chúng chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, và chỉ sanh khởi lên khi có đủ các nhân duyên cần thiết cho chúng sinh khởi. Khi đã khởi lên, chúng được gọi là Pariyutthāna. Chỉ có các tuệ giác ở cấp độ đạo quả mới có thể đoạn trừ được loại phiền não ngủ ngầm này.
  • HIỂU TÂM TỪ (Mettā bhāvanā)
Thiền sinh: Hình như thầy không khuyến khích việc thực hành thiền tâm từ. Thầy có cho rằng thiền tâm từ là không thích hợp đối với các thiền sinh đang hành thiền Vipassanā không?

Thiền sư: Không phải tôi nói rằng nó không thích hợp. Nhiều lúc nó rất có ích lợi đấy chứ. Thầy tôi cũng thường dạy tôi thực hành thiền tâm từ trong một số giai đoạn nhất định của pháp hành. Thực sự thì nó phụ thuộc vào cá nhân từng thiền sinh. Có rất nhiều pháp hành nhập môn lúc ban đầu cho thiền tập. Đối với một số người, đức Phật dạy họ thiền tâm từ để bắt đầu bước vào thiền, nhưng ngài cũng dạy những người khác bắt đầu từ thiền Tứ Niệm Xứ.

Khi thực hành thiền Tứ Niệm Xứ (thiền Vipassanā) bạ phải thực hành với một cách suy nghĩ rằng: mình hành thiền không phải là để cố tạo nên một cái gì cả. Đừng cố tạo nên các kinh nghiệm, hãy tiếp nhận các kinh nghiệm hay những sự việc diễn ra đó như nó đang là và hãy cố gắng học hỏi từ nó. Nhưng thiền tâm từ làm gì? Thiền tâm từ là để cố tạo ra một cảm giác từ bi. Có thể bạn đang tức giận một ai đó, nhưng bạn lại cố gắng cảm nhận và trải tâm từ bi tới người đó.

Đối với một số người, hành thiền tâm từ trong lúc đang tức giận như vậy lại có thể tạo nên những xung đột tâm lý ở bên trong. Đối với những người như thế thì thiền tâm từ lại không có tác dụng. Cái thực đang có là tâm sân, và nếu chỉ cố gắng dùng tư duy tri thức để trấn áp nó thì không thể được. Tôi đã từng thử rải tâm từ đến cho những người mà tôi đang ghét, nhưng bây giờ thì trí tuệ của tôi lại không chấp nhận điều đó. Trí tuệ nói với tôi rằng: "Hãy sống thực với chính mình! Hãy quan sát cái tâm sân ấy! Hãy hiểu biết cái tâm sân ấy!" Hình như khi cố rải tâm từ như thế, cái tâm mình nó lại đang tự lừa chính nó. Trước kia tôi đã từng thực hành thiền tâm từ rất nhiều, thậm chí hành thiền suốt cả đêm và nhập vào tầng thiền chỉ (với đề mục tâm từ), ngập tràn trong hỷ lạc suốt cả một ngày như vậy, nhưng nó chẳng làm tôi trở thành một con người ít sân hơn chút nào. Khi ngừng lại không thực hành tâm từ nữa, tôi lại sân trở lại y như cũ.

Sau khi thực hành thiền Vipassanā nhiều năm trời trong cuộc sống tại gia, liên tục quan sát tất cả các sinh hoạt tâm của mình, tôi mới bắt đầu kinh nghiệm được những khoảng thời gian mà tâm mình thực sự không còn chút sân hận nào trong đó. Khi đó thật là dễ dàng rải tâm từ cho tất cả mọi người - không có vấn đề gì cả. Thầy tôi thường ngồi thiền cho đến khi tâm ngài trở nên thực sự bình an và chỉ khi đó ngài mới rải tâm từ. Bởi vì chỉ khi đó mới có được tâm từ thực sự. Chỉ khi nào có tiền trong túi thì bạn mới bố thí được cho người...

Khi tâm không còn sân hận, nếu gặp một người ngang bằng, đồng cảnh ngộ như mình, nó sẽ cảm nhận được lòng từ (Mettā). Khi gặp một người đang gặp cảnh ngộ khó khăn hơn, nó làm khởi lên lòng bi mẫn (Karunā), khi gặp một người đang thuận lợi, bạn sẽ cảm nhận được tâm hỷ (Muditā), còn khi ở vào hoàn cảnh mà bạn chẳng thể làm được gì hơn để giúp họ, nó sẽ là tâm xả (Upekkhā). Nhưng nếu trong tâm vẫn còn lại dù chỉ một chút xíu sân thôi, thì tất cả những trạng thái tâm từ, bi, hỷ, xả ấy cũng chẳng thể nào sanh khởi lên được nữa. Khi tâm sáng suốt và không còn sân hận, bạn cũng sẽ rất dễ thực hành được những pháp hành khác. Nếu nhìn vào một bức hình đức Phật, bạn cũng sẽ cảm nhận được lòng kính tin đối với ngài, bởi vì giờ đây tâm bạn đang ở trong một trạng thái tốt đẹp. Khi đó bạn đang tự động thực hành pháp hành niệm tưởng ân đức Phật (Buddhānussati) một cách tự nhiên.

Có ba cách để bạn có thể nhìn thấy được đức Phật:
  1. Nhìn bằng mắt.
  2. Nhìn bằng tâm (tưởng tượng hình ảnh của ngài trong tâm mình).
  3. Nhìn bằng cách hiểu đức Phật bằng trí tuệ của chính mình.
Chính vì thế đức Phật mới nói rằng: "Người nào thấy pháp sẽ thấy ta". Nhiều người sống cùng với đức Phật mà chẳng hề thực sự thấy ngài bao giờ. Có lần đức Phật đã phải bảo một người đệ tử đi chỗ khác (để hành thiền), bởi vì ông này suốt ngày chỉ ở loanh quanh bên cạnh để nhìn ngắm ngài cho thỏa thích.

Loại tâm từ tôi muốn bạn có được là loại tâm từ thực sự, chứ không phải là loại tâm từ bạn cứ phải cố nặn ra cho mình hay cho người khác. Khi không còn sân hận, tất cả tâm từ, bi, hỷ, xả đều có được cả, khi đó bạn có thể rải tâm từ bao nhiêu cũng được. Tâm từ khởi nguồn từ vô sân, chính vì vậy, điều quan trọng hơn là hãy ghi nhận, quan sát và thấu hiểu tâm sân hơn là cố gượng ép thực hành thiền tâm từ. Tôi nhấn mạnh đến cách đối phó với tâm sân trước, bởi vì nó là thực.

Thiền sinh: Đôi khi con phải dùng đến thiền tâm từ mỗi khi mình đau khổ, khi đó con mới nhận ra rằng mình chẳng có chút từ bi đối với người nào cả, vì vậy con phải tự rải tâm từ cho chính mình để tâm mình trở nên thiện hơn đôi chút.

Thiền sư: Đúng, làm vậy cũng đúng. Bạn nên bắt đầu với chính mình bởi vì chỉ khi nào tự bạn cảm thấy an lạc bạn mới rải tâm từ được cho người khác. Tôi luôn luôn nhắc các thiền sinh khi rải tâm từ phải chánh niệm biết mình đang rải tâm từ ra sao. Tự quan sát chính mình khi rải tâm từ là bạn cũng đang thực hành cả thiền Vipassanā rồi đấy. Hãy quan sát tâm mình đang làm việc, đang rải tâm từ, kiểm tra lại xem mình thực sự đang có tâm từ hay không. Nếu khi đó vẫn còn tâm sân thì bạn cũng nhận ra được ngay là rất khó rải tâm từ bạn còn đang giận dữ.

Thiền sinh: Nếu có thái độ chân chánh thì tâm từ thực sự có tự động khởi lên được không ạ?

Thiền sư: Có, nó khởi lên được mỗi khi bạn có trí tuệ - thái độ chân chánh chính là trí tuệ. Chính vì vậy tôi nhấn mạnh rất nhiều đến tầm quan trọng của trí tuệ, có trí tuệ thì mọi thứ đều có thể làm được. Tôi cố gắng đi từ chỗ quan trọng nhất đó, chứ không bắt đầu đi ngược từ dưới lên trên. Trong Tam học: Giới, Định, Tuệ, giới là nền tảng, định cao hơn và tuệ là cao nhất. Chỉ cố giữ giới mà không có định thì bạn cũng chẳng thể giữ được. Nhưng khi có định bạn sẽ thấy giữ giới rất dễ dàng, và khi có tuệ thì cả giới và định cũng sẽ tự động có mặt.

Giới có hai loại: Đầu tiên chúng ta phải cố gắng thu thúc, kềm chế không làm những hành động bất thiện. Loại giới thứ hai sanh khởi khi tâm đã hiểu ra được vấn đề, nghĩa là không cần phải cố gắng thu thúc, kềm chế nữa bởi vì sự ham muốn đã không còn hay chỉ còn lại rất ít. Cả tham và sân đã bị suy yếu, và đó chính là giới như là một tâm sở - giới tâm sở. Khi trí tuệ đích thực sanh khởi lên, nghĩa là khi đắc đạo quả, ngay lập tức giới trở thanh thanh tịnh và người hành giả liễu ngộ được Bát chánh đạo. Trong thời đức Phật, một số đệ tử có được tuệ căn phát triển ở mức độ rất cao. Bởi vì tuệ quá mạnh nên đôi khi chỉ cần nghe một vài câu pháp của đức Phật là đã đắc đạo quả liền.

Trong phương pháp thiền này, tôi ngày càng nhấn mạnh nhiều đến tầm quan trọng của tuệ. Bản thân tôi trước kia cũng đã từng thử thực hành qua rất nhiều phương pháp khác nhau. Tôi đã từng rất tinh tấn giữ giới và tu tập để phát triển định lực thâm sâu, nhưng tất cả những điều đó chẳng làm cho tôi thay đổi một cách thực sự chút nào. Chỉ khi tâm tôi bắt đầu hiểu ra được sự việc, khi trí tuệ đã lớn mạnh, chỉ khi ấy tôi mới trở thành một con người tốt đẹp. Tất nhiên, trí tuệ tăng trưởng đã giúp tôi giữ giới được ngày một tốt hơn. Một trong những pháp hành tôi thường thực hành khi còn là một cư sĩ là giữ bát quan trai giới (tám giới), không phải bát quan như các thiền sinh vẫn giữ trong thiền viện như thế này, mà là ngũ giới cộng với giới mở rộng về lời nói: cố gắng không chỉ không nói dối mà còn không nói những lời thô ác, không nói lời đâm thọc, không nói lời phù phiếm vô ích. Tôi sớm nhận ra rằng mình phải cần rất nhiều chánh niệm, rất nhiều sự tự hay biết, tự soi chiếu bản thân mình để giữ được trọn vẹn những giới khẩu này, và khi ấy pháp hành của tôi mới bắt đầu có được những bước tiến vượt bực. Điểm xuất phát ở đây cũng lại là trí tuệ. Ở đó có trí tuệ, có sự hiểu biết rằng cách thực hành này như thế rất lợi ích. Khi có trí tuệ, tất cả mọi thứ đều biến thành chân chánh. Tôi thực sự mong muốn các thiền sinh phát triển trí tuệ của mình, bởi vì tôi biết rõ sự khác biệt do nó mang lại lớn đến mức nào.

Thực sự thì tôi không muốn nói nhiều đến tâm từ, song một khi bạn đã biết cách nhìn nhận vấn đề cho đúng thì bạn có thể thấy rõ được tâm từ ngay thôi. Nếu không có sự kiên nhẫn thực lòng, một điều rất gần gũi với tâm từ, thì chắc là tôi đã không thể cống hiến được toàn bộ thời gian và sức lực để dạy dỗ các thiền sinh mỗi ngày như thế này được. Nhưng tôi không dành tâm từ cho riêng cá nhân một ai cả, nó rộng lớn hơn, bao trùm hơn, tâm từ đó là để dành cho tất cả, tất cả mọi người.
  • BA LA MẬT (Parami)(31)
Thiền sinh: Có bốn Ba la mật mà con vẫn chưa thực sự hiểu, đó là Ba la mật quyết định (Adhitthāna). Ba la mật xuất gia (Nekkhamma), Ba la mật trì giới (Sīla) và Ba la mật chân thật (Sacca). Xin thầy cho con biết làm thế nào để hiểu được những Ba la mật này?

Thiền sư: Ba la mật quyết định (Adhitthāna) là quá trình làm vững mạnh quyết tâm. Nó thường được áp dụng để củng cố hoặc tăng cường một số phẩm chất có sẵn trong tâm mình. Điều này có thể thực hiện được bằng cách làm một việc gì đó lặp đi lặp lại nhiều lần, hoặc bằng cách đẩy ngưỡng cố định (sức rướn) của tâm mình mỗi lần thêm một chút nhằm tăng cường sức mạnh cho tâm. Tôi thực hành pháp quyết định này rất nhiều. Theo kinh nghiệm của tôi, quyết tâm mạnh không bao giờ có tác dụng, trừ phi động cơ của nó là trí tuệ. Nếu bạn chỉ cố hết mình bằng quyết tâm, sự cố gắng ấy không bao giờ bền vững, nhưng nếu bạn thực hành một cách bền bỉ liên tục thì trí tuệ sẽ thâu gom tất cả sức mạnh của quá trình thực hành ấy để sử dụng một cách hiệu quả. Khi có mặt trí tuệ thì sự quyết tâm cũng hiện diện cùng.

Thiền sinh: Như vậy tâm sẽ được tăng cường sức mạnh bằng cách thử thách nó?

Thiền sư: Không, thử thách có nghĩa là bạn muốn vượt quá giới hạn năng lực của mình. Tâm được tăng cường sức mạnh bằng cách củng cố, tăng cường thêm những gì đang sẵn có ở đó.

Thiền sinh: Làm thế nào để tăng cường cho những cái đã có sẵn ấy?

Thiền sư: Bạn phải hiểu rõ mình có khả năng làm được điều gì, và làm điều đó nhiều lần. Tôi sẽ cho bạn một ví dụ rất đơn giản như sau: nếu bạn muốn hành thiền suốt đêm, không phải là cứ thế mà cố ngồi suốt cả đêm ngay lập tức. Đêm đầu tiên, bạn bắt đầu thức lâu đến mức mình có thể thức được, rồi đêm thứ hai cố gắng lặp lại điều đó, thức lâu như đêm trước. Nếu giữ được như vậy khoảng chừng hai tuần, thì rồi bạn mới bắt đầu đẩy tâm mình thức thêm một giờ nữa. Rồi sau đó hãy đợi và xem mình có chịu đựng được như vậy khoảng một, hai tuần nữa không rồi mới lại đẩy tiếp thêm.

Thiền sinh: Cám ơn thầy,con đã rõ. Hình như có lần thầy nói rằng Ba la mật xuất gia có nghĩa là ly tham, đúng không ạ?

Thiền sư: Đúng thế. Học cách quan sát tất cả mọi phiền não mỗi khi chúng khởi sanh, đó chính là ly tham, là xuất gia - bởi vì bạn đang cố gắng không để mình đắm chìm trong đó.

Câu hỏi thứ ba của bạn là Ba la mật trì giới. Trì giới là sự thu thúc, sự tự chế và trách nhiệm càng có nhiều trí tuệ thì giới sẽ càng trở nên trong sạch và trọn vẹn.

Thiền sinh: Vâng, con đã hiểu. Nhưng con vẫn còn chưa hểu rõ ý nghĩa của trì giới, có phải đó là giữ bát quan trai giới hay không?

Thiền sư: Không, nó là sự hiểu biết những việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Nó gồm cả làm những việc nên làm, và không làm những việc không nên làm.

Thiền sinh: Vâng, câu hỏi cuối cùng của con là về Ba la mật chân thật (Sacca).

Thiền sư: Sacca có nghĩa là sự thật, nhưng nó cũng mang cả nghĩa khác. Trong trường hợp này, nó là sự chân thật trong lời nói, không thất hứa, chẳng hạn khi đã hứa hẹn cho ai hay làm một điều gì đó bạn phải giữ lời. Nhưng tôi không biết nhiều lắm về nghĩa kỹ thuật của từ sacca này như thế nào. Ở Miến Điện người ta sử dụng "sự thật" này một cách rất đặc biệt. Họ tin tưởng vào năng lực của sự thật, ngay cả khi được sử dụng một cách không đúng đắn lắm. Chẳng hạn, có người vừa nói dối điều gì đó và sử dụng luôn sự việc đó như một sự thật để nguyện: "Tôi vừa nói dối mẹ tôi,đó là một sự thật, do năng lực của sự thật này, nguyện cho tôi được khỏi bệnh". Các nguyện đó cũng có tác dụng thật, nhưng nó không hiệu quả bằng lời nguyện cùng với một sự thật tốt lành.

CHÚ THÍCH:

(31) Ba la mật là các phẩm chất tinh thần, các tiềm năng tâm linh cần thiết cho sự giác ngộ. Một người chỉ có thể đắc đạo quả khi những phẩm chất cao thượng này đã được tu tập, bồi dưỡng đến đầy đủ, trọn vẹn. Ba la mật chia là ba mức độ cao thấp khác nhau: bậc thượng, bậc trung và bậc hạ, tương ứng với ba quả vị khác nhau là quả vị Phật Toàn giác, quả vị Phật Độc giác và quả vị Thanh văn Phật. Có mười ba la mật là: bố thí, trì giời, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
  • BẢN THỂ TỰ TÍNH
Thiền sinh: Một thiền sư Trung Hoa có dạy rằng chúng ta phải buông mình vào tự nhiên, để kiến tánh - thể nhập vào bản thể của chính mình. Thầy hiểu thế nào về việc kiến tánh ấy và việc thể nhập vào bản thể tự tính?

Thiền sư: Cách tôi hiểu nó là chúng ta đã làm một việc tạo ra cái bản thể tự tính từ một cái thực ra chỉ là tự nhiên. Nếu hiểu rằng chúng ta đang nhào nặng tự nhiên thành bản thể tự tính, rằng chúng ta chỉ đang tạo ra thêm một khái niệm chế định nữa, thì những điều bạn vừa nói còn có đôi chút ý nghĩa, và như vậy để hiểu được thiên nhiên thì chúng ta cần phải hiểu "chính bản thân mình". Đó là cách mà chúng ta có thể thể hiện nó bằng ngôn từ vậy thôi. Cũng có đôi khi tôi hay hỏi thiền sinh rằng: "Bạn là ai?". "Bạn là cái gì?".

Tôi không dùng từ bản thể hay ngã, hay tự tính, nó chỉ là một khái niệm, một cách gọi mà mọi người vẫn hay sử dụng mà thôi. Nhưng bạn không thể nói chuyện, trao đổi mà không dùng khái niệm được. Đức Phật nói không có cái ngã, cái tôi nào cả, nhưng ngài cũng dạy: "Hãy nương tựa vào chính mình". Khi nó nương tựa vào chính mình, có nghĩa là chúng ta phải nương tựa vào những phẩm chất tốt đẹp trong mình như là chánh niệm, định tĩnh, trí tuệ.

Thiền sinh: Con hiểu rằng cách diễn đạt về "bản thể tự tính" đó là để chỉ việc buông mình vào cái không tạo tác, vào trong cái vô vi và người thiền sinh phải có được thái độ như thế trong khi hành thiền.

Thiền sư: Nhưng nếu nó thực sự là vô vi thì bạn đâu cần phải "buông mình" như thế. Nếu nó là vô vi, tức là tâm đã giải thoát rồi, cần gì phải "buông" nữa. Chỉ khi nào vẫn còn ôm giữ cái ngã, cái "tôi" để buông thì người ta mới cần phải buông.
  • VÔ NGÃ (Anatta)
Thiền sinh: Thầy thường khuyến khích thiền sinh tự nhắc mình rằng những gì mình kinh nghiệm được chỉ là "tự nhiên". Tại sao thầy muốn thiền sinh quan sát các kinh nghiệm đó với cái nhìn "tất cả đều chỉ là những hiện tượng tự nhiên mà thôi" thay vì với cái nhìn về vô ngã?

Thiền sư: Từ vô ngã (Anatta) thường hay bị người ta hiểu sai. Mọi người hay nghĩ rằng vô ngã nghĩa là mất cái ngã đi và chính cái "vô ngã" này lại trở thành một khái niệm chế định nữa. Trong thực tế chỉ đơn giản là không có cái gì là ngã, là tôi cả, cũng như từ trước đến nay nó chưa từng có bao giờ. Do đó tốt hơn hết là nhìn vào các kinh nghiệm như "đây chỉ là các hiện tượng tự nhiên mà thôi". Những hiện tượng tự nhiên này sanh khởi do bởi nhân duyên. Nhìn sự việc bằng cái nhìn như thế chính là chánh kiến, và nhờ quan sát cách thức những nhân duyên nhất định đưa đến một kết quả nhất định nào đó, chúng ta sẽ hiểu được rằng ở đó chỉ có những nhân duyên, không có cái "tôi" nào cả. Hiểu được duyên khởi là hiểu được vô ngã.
  • ĐAU KHỔ (Dukkha)
Thiền sinh: Hôm trước thầy nói rằng tất cả những gì khó buông bỏ đều là đau khổ. Thầy nói khó buông bỏ là khó buông bỏ hoàn toàn, là dứt tuyệt hẳn hay là buông bỏ tạm thời?

Thiền sư: Bất cứ cái gì khó buông bỏ dều là đau khổ cả - dù buông bỏ hoàn toàn hay buông bỏ tạm thời trong chốc lát. Tham và sân, cái nào khó buông ỏ hơn?

Thiền sinh: Có lẽ chúng cũng giống nhau cả thôi.

Thiền sư: Tham khoc buông bỏ hơn,bởi vì nó vi tế hơn - và si là khó nhất. Hôm trước tôi nói như vậy là ý muốn nói rằng không nên sử dụng từ đau khổ (Suffering- sự đau đớn, khổ não) để nói về dukkha32). Hầu hết các thiền sinh chẳng hiểu gì về sự thật của dukkha cả, nhưng họ hiểu được sự thống khổ, nỗi đau đớn. Thông thường họ chỉ hiểu được mỗi một loại đau khổ, đó là cảm giác khổ, cảm giác đau đớn (dukkha vedanā - khổ thọ) và cách hiểu về khổ như thế hay dẫn đến sự chống đối. Hiểu biết về dukkha khác vậy nhiều lắm.

Nhiều thiền sinh được học rằng vô thường là khổ. Họ cũng học đâu đó rằng sanh diệt là một dấu hiệu của vô thường. Và bởi vì nóng lòng muốn tiến bộ nên họ cố gắng ra sức để nhìn cho thấy sanh diệt. Khi làm như vậy, dĩ nhiên là họ vẫn nhớ những gì đã được học, và bất cứ cái gì đến và đi mà họ thấy được, họ cũng sẽ suy diễn rằng đó chính là khổ. Bởi vì họ thấy đấy là một dấu hiệu của sự tiến bộ, nên tâm họ bắt đầu hướng đến đau khổ, luôn nhìn thấy đau khổ ở mọi nơi và họ bắt đầu sợ hãi. Sợ chính là sân ở dạng thụ động. Đôi khi có thiền sinh sợ quá đến mức gục xuống và khóc lóc.

Nghĩa của từ dukkha sâu rộng hơn nhiều chứ không chỉ mỗi là sự đau đớn và thống khổ về thể xác và tinh thần như thế. Bất cứ loại đau khổ nào, từ những loại thô kịch nhất như đau đớn, sầu muộn cho đến những loại vi tế như bất mãn, bất an, bất toại nguyện, không chắc chắn, bất định, mơ hồ, cảm giác không an toàn... tất cả đều mới chỉ là những mức độ thô nhất của khổ (dukkha) mà thôi. Theo kinh điển, khổ mức độ này được gọi là khổ khổ (dukkha-dukkha). Khổ do sanh, già, bệnh, chết cũng như các trạng thái cảm xúc buồn đau như tức giận, sợ hãi, thất vọng, bất an, xa người mình yêu, gần kẻ mình ghét, muốn mà không được hay được cái mình không muốn... tất cả những loại khổ này nằm trong mức độ đầu tiên của khổ - dukkha.

Mức độ thứ hai được gọi là hoại khổ (Viparnāma-dukkha). Loại này vi tế hơn và khó thấy hơn. Bất cứ loại dục lạc hay thú vui nào, mà thực ra là tất cả mọi thứ hạnh phúc trên đời - dù là thanh cao, vi tế và kéo dài đến đâu - không sớm thì muộn cũng phai tàn. Phải làm đi làm lại một việc gì đó, hay phải cố gắng thành đạt cho được một cái gì, tất cả những thứ đó đều nằm trong loại khổ này. Mỗi khi hành thiền, bạn có thể có được rất nhiều định tâm, hỷ lạc hay sự khinh an, nhẹ nhàng nhưng rồi chúng cũng không kéo dài mãi. Kinh nghiệm những trạng thái ấy cũng là đau khổ. Hầu hết tất cả mọi người đều cảm thấy rất khó hiểu được tại sao tất cả mọi hanh phúc trên đời lại đều là đau khổ như vậy.

Loại khổ thứ ba và cũng là loại cuối cùng là hành khổ (Sankhāra-dukkha) được coi là đau khổ của kiếp sinh tồn. Danh sắc (Nāma-rūpa) là khổ, bản thân sự việc chúng ta đang tồn tại đây cũng là khổ.

Điều hết sức quan trọng là phải hiểu được sự khác nhau giữa việc bị đau khổ hành hạ và hiểu biết về khổ. Đau đớn thể xác hoặc tinh thần - dù thô rõ hay vi tế - cũng đều tự động đi kèm với một loại tâm sân nào đó, khổ thọ (dukkha-vedanā) hoặc ưu não (Domanassa) luôn luôn sanh khởi cùng với tâm sân (Dosa). Tất cả những loại đau khổ đó đều dẫn đến những trạng thái tâm bất thiện và vì vậy lại càng thêm khổ.

Hiểu biết khổ hay liễu tri khổ, tuệ tri khổ không có nghĩa là phải chịu đau khổ về tinh thần. Hiểu biết khổ rất khác, đó là một trạng thái tâm thiện, là một kinh nghiệm giải thoát và chuyển hóa cuộc đời. Mỗi một hiểu biết nho nhỏ về khổ lại giúp cho tâm buông bỏ và do đó lại chứng nghiệm nhiều giải thoát hơn. Hiểu biết khổ sẽ dẫn đến những trạng thái tâm thiện hơn và sẽ làm cho tâm trở nên mạnh mẽ hơn.

Để hiểu biết khổ, chúng ta không những cần phải có những thông tin đúng như thế này mà còn phải có cách suy nghĩ đúng nữa. Đức Phật nói một trong những nguyên nhân khiến chúng ta trôi lăn trong vòng luân hồi vô thủy là không thấy khổ và không hiểu biết khổ. Không hiểu biết khổ, chúng ta sẽ còn tiếp tục vào những gì tốt đẹp ở phía trước để rồi tiếp tục thất vọng. Hầu hết mọi người phung phí rất nhiều thời gian để chiến đấu với đau khổ, cố sức cải tạo và thay đổi thế giới của mình. Chiến đấu với đau khổ như thế không những chỉ kiệt sức vô ích, mà còn tạo ra thêm muôn vàn đau khổ nữa. Suy nghĩ đúng đắn hay chánh tư duy là chấp nhận và ghi nhận đau khổ. Thấy khổ và chấp nhận khổ nghĩa là thấy và chấp nhận mọi sự việc như nó đang là, và một trạng thái tâm chấp nhận như vậy sẽ giải phóng ra rất nhiều năng lượng để bạn có thể sử dụng cho tu tập.

Khi đã ngày càng thuần thục và khéo léo nhận diện đau khổ hơn, chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ ràng mỗi khi chính mình đang "tạo ra" thêm đau khổ mới. Thầy tôi thường dạy rằng chỉ khi nào hiểu được cái khổ của sự sanh (Jāti dukkha) thì tâm mới thực sự hướng tới Niết bàn. Tất cả những gì được sanh ra đều là đau khổ - và khi nó mất đi cũng là đau khổ nữa. Chính vì không hiểu được cái khổ của sự sanh mà chúng ta vẫn luôn muốn có được cái gì đó hay muốn bỏ cái gì đó đi. Một cái tâm hiểu biết khổ sẽ không đi tìm cầu hạnh phúc những cũng không chối bỏ những gì đang trải nghiệm; nó tuyệt dối bình an trước bất cứ những gì đang diễn ra.

Tất cả mọi chúng sanh đều đau khổ, nhưng chỉ những người nhận diện được đau khổ mới có thể phấn đấu để giải thoát chính mình ra khỏi đau khổ. Nhận diện rõ ràng và chấp nhận đau khổ sẽ dẫn đến sự giải thoát nội tâm. Đức Phật nói rằng người nào thấy khổ cũng sẽ thấy được khổ diệt. Chỉ khi thực sự hiểu được khổ thì thực hành con đường đi đến Niết Bàn mới được coi là điều duy nhất đáng làm trên đời.
  • TUỆ GIÁC HAY TUỆ TRI
Thiền sinh: Thầy rất ít khi sử dụng từ tuệ giác (của thiền Vipassanā) m à luôn luôn nói về trí tuệ. Con không rõ có phải là thầy sử dụng một hệ tiêu chí khác với hệ tiêu chí con vẫn quen sử dụng hay chỉ là khác nhau về mặt từ ngữ. Con được học rằng thực hành chánh niệm sẽ đưa đến định tâm, và định tâm sẽ làm sanh khởi tuệ giác và tuệ giác sẽ dẫn đến trí tuệ. Thầy có đồng ý với trình tự đó không hay thầy có cách hiểu khác?

Thiền sư: Tôi vẫn sử dụng cùng một trình tự đó. Những gì chúng ta quan sát là các tiến trình thân và tâm. Cùng với thời gian thực hành, hiểu biết của chúng ta về những tiến trình này cũng thay đổi. Dù chúng ta gọi nó là tuệ giác Vipassanā, hay hỉeu biết, hay trí tuệ thì thực ra cũng không thành vấn đề, đó chỉ là những thuật ngữ khác nhau để chỉ cùng một sự việc mà thôi.

Mức độ hiểubiết cũng phát triển và thay đổi. Chẳng hạn, chánh niệm có thể thấy được rằng cái nó vừa quan sát được là một suy nghĩ. Khi trình độ chánh niệm tăng lên, trí tuệ hiểu rằng "đó là tâm (dang làm việc)". Khi sự hiểu biết rằng "đó chỉ là tâm" đã thực sự vững chắc, trí tuệ sẽ bắt đầu nhận ra rằng "cái này chỉ đang diễn ra".

Một điều rất quan trọng nên nhớ rằng bất cứ một tuệ giác hay một loại trí tuệ nào cũng chỉ có thể sanh khởi lên được khi tâm quan sát không có tham, sân, si.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: CHỈ MỚI CHÁNH NIỆM THÌ CHƯA ĐỦ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM
Những câu trích dẫn dưới đây được rút từ những tư tưởng, dòng suy tư và những gợi ý ngắn của thiền sư Sayadaw U Tejaniya. Bởi vì chúng bị tách rời ra khỏi ngữ cảnh khi thiền sư giảng, nên có thể không phải lúc nào cũng dễ hiểu được, nhất là đối với những thiền sinh không quen thuộc lắm với cách dạy của thiền sư Sayadaw U Tejaniya, hay đối với những người mới nhập môn thiền tập và tìm hiểu Phật pháp.

Do đó, chúng tôi xin gợi ý là chúng ta nên đọc và suy ngẫm để lấy cảm hứng từ những câu trích dẫn mà mình cảm thấy có ý nghĩa và hiểu được, và bỏ qua những câu không phải để nói cho mình. Trăn trở với những câu hỏi mà mình không thể hiểu được chỉ làm cho bạn thêm rối và bực mình thôi.

1. Khi có dù chỉ một chút mong đợi nhỏ nào đó thôi, tâm bạn cũng sẽ bị rối lên ngay. Hãy nhìn lại thái độ hành thiền của mình, và đừng mong đợi kết quả!

2. Khi bạn sử dụng trí tuệ, sự tinh tấn đã có ngay ở đó rồi.

3. Chánh niệm là hay biết những gì đang có mặt ngay chính tại đây.

4. Khi để tâm lười biếng không hoạt động, nó sẽ nghĩ lung tung.

5. Một khi bạn buồn bực điều gì, hãy quay vào nhìn lại bên trong mình. Không có ai hay bất cứ cái gì bên ngoài để bạn trách cứ vì đã gây ra trạng thái tâm ấy cho mình cả.

6. Khi bạn "tưởng" (cho rằng mọi việc cứ phải thế này thế kia như mình nghĩ), thì chính là tâm si đang lũng đoạn.

7. Điều quan trọng là phải học cách phân biệt rõ sự khác nhau giữa đề mục (hay đối tượng quan sát) và tâm (hay biết). Đâu là đối tượng quan sát? Đâu là tâm hay biết?

8. Bất cứ khi nào người ta buồn bực, trầm cảm, đó là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy họ đã mong muốn điều gì đó và không đạt được nó.

9. Suy nghĩ có thể lừa dối bạn - nhưng cảm giác (Vedanā) thì không thế - cảm giác là thật.

10. Muốn nói và chẳng muốn nói - cả hai cùng là một vấn đề.

11. Bạn muốn làm một việc gì đó hay không, không quan trọng. Hãy tự hỏi chính mình xem có cần làm việc đó hay không.

12. Đừng chú ý đến tiếng động, chỉ nhận biết rằng bạn đang nghe. Nghe cũng bao gồm cả biết tiếng động trong đó. Đối với nhìn, ngửi... cũn gy hệt như vậy.

13. Những phiền não nhỏ xíu rồi cũng đều lớn lên. Cuối cùng chúng ta cần phải đạt tới khả năng nhìn ra được ngay cả những biểu hiện vi tế nhất của tham, sân.

14. Tại sao bạn làm việc này? Vì muốn? Cần? Hay vì đó là việc thích hợp nên làm trong hoàn cảnh hiện tại?

15. Khi không có tham, sân ở trong tâm, thì bạn mới có khả năng ra quyết định đứng đắn được.

16. Hãy đặt câu hỏi, nhưng đừng tìm kiếm câu trả lời. Câu trả lời sẽ đến khi tâm đã thu thập đủ dữ liệu cần thiết.

17. Đừng bắt mình phải kiên nhẫn mà hãy quan sát sự thiếu kiên nhẫn của mình.

18. Trí tuệ có thể kiểm doát được tâm; chứ mình không thể kiểm soát được chính tâm mình đâu.

19. Đừng cố duy trì cho được sự quân bình, chỉ cần cố gắng giữ chánh niệm thôi.

20. Nếu gia đình bạn có vấn đề thì hãy giải quyết nó ở ngay tại nhà mình. Bạn không thể giải quyết vấn đề của gia đình ở trong thiền viện được đâu.

21. Hãy biết trân trọng những kiến thức và hiểu biết mà bạn đang có. Hãy làm hết mức mình có thể làm được và biết bằng lòng với những kết quả mình đạt được.

22. Bạn sẽ chú tâm vào cái gì? Nhìn? Nghe? Ngửi? Nếm? Xúc chạm? Hay suy nghĩ? Hay là bạn sẽ dính mắc và bị lôi đi theo cái nhìn, nghe, ngửi, nếm. xúc chạm và suy nghĩ đó? Bạn có bị cuốn đi theo dòng suy nghĩ hay không? Đừng để bị các thói quen cũ cuốn minh đi như thế, hãy thu thúc, kềm chế cái tâm của mình.

23. Khi bạn có thái độ không chân chánh, tâm sẽ không bao giờ vững mạnh lên được. Khi tâm mạnh, nó có thể thấy được bất cứ những gì trong tầm thấy của nó. Đó chính là pháp đang vận hành; không liên quan gì đến cá nhân ai ở đây cả. Đừng bao giờ cố sức nhìn cho thấy cái gì. Mong muốn nhìn thấy đó chính là tâm tham.

24. Đừng bao giờ cố tìm xen tâm nằm ở chỗ nào, nơi chốn là một khái niệm định chế. Bạn nhận biết được tâm do từ một thực tế là tâm đang làm công việc của nó.

25. Cái chúng ta gọi là tâm tính toán, vạch kế hoạch thực ra chỉ là một suy nghĩ. Có thể bạn đang tính toán điều gì đó, nhưng lại không làm bởi vì ý định thực hiện không đủ mạnh. Ý định hay tác ý thực sự thì không phải là suy nghĩ. Nó chỉ là những xung lực là năng lượng của tâm.

26. Hay biết lý do tại sao tâm làm điều gì đó chính là trí tuệ.

27. Đôi khi có những suy nghĩ vi tế đến nỗi bạn không thể biết được có phải nó bị thúc đẩy bởi phiền não hay không nữa, nhưng bạn có thể cảm nhận được điều đó.

28. Hiểu biết thực sự về khổ (dukkha) thì không có đau đớn, khổ não trong đó. Nó sẽ làm tâm mình giải thoát.

29. Khi mới thực hành, suy nghĩ sẽ dừng lại mỗi khi bạn chánh niệm về nó, bạn không thể vừa chánh niệm vừa suy nghĩ được. Chỉ khi chánh niệm mạnh bạn mới có thẻ quan sát được suy nghĩ.

30. Khi đã thực sự hiểu được nguyên tắc hay cơ chế làm việc của cái gì đó, bạn sẽ không bao giờ quên nó.

31. Chúng ta phải nhận ra được phiền não gây hại ra sao. Phẩi mất cả một thời gian rấtdài, tâm ta mới thực sự mệt mỏi và chán chường phiền não; chỉ khi hiểu biết trí thức rằng tham, sân, si là xấu thôi thì không đủ. Thực ra hầu hết mọi người đều muốn được sống cùng tham, sân, si cả. Tất cả chúng ta đèu phải trải qua những giai đoạn khó khăn liên tục nhìn phiền não không ngừng, ở đây không có đường tắt. Chỉ khi nào tâm đã thực sự chán ngán phiền não thì nó mới có thể tự giải thoát cho chính mình.

32. Đừng vội vàng, hãy cứ tiếp tục học hỏi không ngừng.

33. Tại sao khi ở nhà phiền não lại mạnh mẽ hơn? Bởi vì đó là nhà CỦA TÔI, vợ CỦA TÔI, xe CỦA TÔI...

34. Nếu bạn thực sự chánh niệm liên tục, nỗi sợ hãi sẽ không bao giờ khởi lên. Nếu tiếng động chỉ là tiếng động... trí tưởng tượng không bao giờ chạy hoang. Bất cứ cái gì bạn nghĩ là mình thấy, bạn nghĩ là mình nghe chỉ là những ý niệm mà thôi.

35. Loại chánh niệm mà bạn cứ phải cố áp dụng không thể sử dụng được trong cuộc sống hàng ngay. Chỉ có chánh niệm tự nhiên, chánh niệm tự làm công tác của mình mới làm được điều đó. Khi đó trí tuệ mới thấy rõ được thiện và bất thiện, và sẽ buông bỏ bất thiện để chọn lấy thiện. Càng thực hành lâu bạn sẽ càng hiểu rõ được tiến trình này.

36. Trong hay ngoài đều chỉ là những khái niệm,

37. Luôn luôn kiểm tra lại tâmm mình, tại sao nó làm điều này? Nó đang cảm nhận ra sao?

38. Tại sao tâm lại bất an thế này? Trước đó bạn đã làm gì? Hãy nhớ lại xem!

39. Khi tâm bất an là lúc bạn thực sự rất cần hành thiền.

40. Tâm định tĩnh không phải là vì đề mục bạn chọn mà vì có sự hứng thú, say mê, có thái độ chân chánh và có chánh niệm liên tục.

41. Nếu không thực hành nói chuyện trong chánh niệm ở trong thiền việc, bạn sẽ không thể nào thực hành nó ở bên ngoài được đâu.

42. Mỗi khi bạn nghĩ rằng có chuyện rất quan trọng cần phải suy nghĩ, hãy dừng lại và tự hỏi mình xem nó có thực sự quan trọng hay không. Tại sao bạn lại muốn nghĩ đên thế?

43. Guồng cuốn những căng thẳng, bức xúc (stress) trong công việc có thể chậm lại hay thậm chí dừng hẳn nếu mỗi giờ bạn dành ra một vái phút đề thực hành niệm hơi thở - hay là tranh thủ thực hành ngay mỗi khi bạn có được chút ít thời gian rảnh rỗi.

44. Khi mới hành thiền, mọi người thường chưa có đức tin, hoặc có nhưng không đủ, để tiếp tục thực hành, vì vậy họ cần phải có rất nhiều động cơ. Để đức tin tăng trưởng cần phải có thờigian.

45. Những gì bạn nghĩ là hạnh phúc thực ra chỉ là đau khổ.

46. Để dính mắc phải biến mất hay để hiểu tại sao mình lại dính mắc, cái nào quan trọng hơn? Mong muốn loại bỏ một cái gì đó là sân (Dosa).

47. Chánh niệm và trí tuệ sẽ tự động tiêu diệt phiền não, chúng ta chỉ có thểo tạo nhân duyên, điều kiện thích hợp cho nó xảy ra mà thôi. Chúngta cần phải nhận ra và chấp nhận phiền não.

48. Khi bạn cảm thấy tự tin rằng thế là mình đã hiều được phiền não, khi đó chính là tâm si đang hoạt động.

49. Chúng ta phải ọc đihọc lại những bài học của mình rất nhiều lần cho đến khi thực sự hiểu được thì mới xong.

50. Những gì bạn biết không bao giờ đủ. Trí tuệ hiểu được những gì đang diễn ra và những gì cần phải làm. Trí tuệ sẽ tiếp tục lớn mạnh bằng rất nhiều cách khác nhau.

51. Càng chống đối lại những gì đang diễn ra và càng muốn thay đổi nó, mọi việc sẽ lại càng tệ hại hơn mà thôi.

52. Hãy nghĩ cách làm thế nào để chánh niệm được, chứ đừng nghĩ đến các kinh nghiệm (những đìeu mình thấy được hay muốn thấy được trong thiền).

53. Ngay cả khi bạn e ngại, sợ hãi - hãy cứ tiếp tục đi.

54. Khi bạn buồn bực, bất an, mọi thứ đều trở thành những vấn đề khó khăn cả.

55. Chúng ta phải hành động. Nếu chúng ta không làm gì cả, những dòng suy nghĩ sẽ tiếp tục hoành hành, làm mưa làm gió. Phiền não rất mạnh, chúng chạy rất nhanh, vì vậy trí tuệ cũng phải thật nhanh để bắt kịp được chúng.

56. Nếu muốn có được những hiểu biết thực sự, chúng ta phải thực hành trong những hoàn cảnh thực tế.

57. Quán chiếu, trạch pháp là đang sử dụng năng lực của trí tuệ.

58. Trí tuệ không bao giờ tin vào cái gì đó (tin vô căn cứ). Trí tuệ luôn luôn tìm hiểu, quán xét.

59. Chúng ta sử dụng suy nghĩ, nhưng cái chúng ta cố gắng gặt hái được là trí tuệ. Bản thân suy nghĩ không phải là điểm chính; cái chính là những gì ở đàng sau những suy nghĩ ấy; ý nghĩa của nó, quan kiến đúng đắn và sự hiểu biết.

60. Hiểu biết được cách làm một điều gì đó chính là trí tuệ.

61. Chúng ta cần sử dụng khái niệm để nói về trí tuệ và thực tại. Khái niệm chế định và thực tại chân đế luôn luôn tồn tại cùng với nhau.

62. Những người hay dính mắc vào định cần phải được khuyến khích quán chiếu, tìm hiểu nhiều hơn.

63. Những người có tính cách tự nhiên là thông minh và hay tò mò thường tự động nhìn sâu hơn và sát hơn vào bất cứ những gì họ hay biết.

64. Trí tuệ không bao giờ dễ dãi, hời hợt hay coi nhẹ bất cứ điều gì; trí tuệ hiểu rằng nó luôn có thể tiến xa hơn nữa.

65. Nếu nghĩ rằng mọi việc sẽ dễ dàng, đơn giản thôi, nhất định bạn sẽ phải trả giá.

66. Bậc trí tuệ luôn luôn làm việc chăm chỉ hơn người.

67. Chỉ mong có một cuộc sống bình yên là lười biếng.

68. Hãy cẩn thận mỗi khi bạn hạ quyết tâm. Người ta thường chỉ quyết tâm mà chẳng hề nghĩ xem thực tế mình có khả năng làm được hay không.

69. Chúng ta không thể dừng phiền não lại, mà phải học cách làm việc với chúng. Những người hay chơi game điện tử biết rất rõ điều này. Họ phải giải quyết cho xong một vấn đề, hay phải vượt qua một chỗ khó nào đó thì sau đó mới tiến lên được mức điểm cao hơn.

70. Chúng ta không thể nào dùng phiền não để đoạn trừ phiền não. Mỗi khi đối phó với phiền não, chúng ta cần có chánh niệm, hay biết nó - mà không can thiệp vào nó. Trước hết chúng ta cần nhận biết, quan sát và hiểu được những gì đang diễn ra. Mỗi khi gán nhãn cho nó là xấu xa, là chúng ta đã mời gọi tâm sân vào. Hãy luôn luôn kiểm tra lại thái độ của mình.

71. Cái cảm giác về "tôi" luôn luôn khởi lên, nhưng đối với tâm thì nó cũng chỉ là một do đối tượng quan sat như bất cứ đối tượng nào khác. Bạn có thể học cách nhận biết sự có mặt hay vắng mặt của nó.

72. Mỗi khi bạn để cho tâm lười biếng, phiền não sẽ tấn công ngay.

73. Luôn luôn có ít nhất hai nguyên nhân chính tác động đến kinh nghiệm hiện tại của bạn: đà quán tính của những thói quen xấu và những gì bạn đang làm bây giờ.

74. Mỗi lúc hiểu biết ra được điều gì đó, bạn sẽ kinh nghiệm được một cảm giác giải thoát.

75. Con người ta không muốn sống với mọi thứ y như nó đang là; mà luôn muốn sống với mọi thứ như là họ mong mỏi.

76. Ngay cả làm một con người bình thường còn chưa xong, thì còn hy vọng gì đến tuệ giác của thiền Vipasanā.

77. Bản chất của Pháp là như thế này: đạt được nó, bạn không thấy vui, mà không được thì cũng chẳng buồn. Nhiều thiền sinh cảm thấy vui sướng lắm khi có được một kinh nghiệm nhất định nào đó và rất buồn khi không đạt được nó. Đó không phải là thực hành pháp. Thực hành pháp không phải là để có được kinh nghiệm, thực hành pháp là để hiểu biết.

78. Có ba cách thấy:
  • a. Thấy bằng mắt thịt.
    b. Thấy bằng tâm.
    c. Thấy qua một cái khác - cái thấy này chính là tuệ giác.
79. Mục dích thực sự là để hiểu biết (bản chất của nó) mọi sự việc. Khi đó hạnh phúc sẽ theo đến một cách tự nhiên.

80. Trong thiền Vipassanā, chúng ta muốn biết cái gì đang diễn ra, tại sao nó diễn ra, và chúng ta nên làm gì với nó.

81. Lúc bạn muốn có sự an lạc là lúc bạn có vấn đề rắc rối. Mong muốn chính là rắc rối. Điều vô cùng quan trọng là bạn phải thực hành với thông tin đúng, với suy nghĩ đúng và thái độ đúng.

82. Mỗi khi bạn nóng lòng hay vội vàng muốn làm hay muốn biết cái gì đó, tâm sẽ bắt đầu tập trung, nhăm nhăm chú tâm và mong muốn kết quả.

83. Hiểu biết thực sự chỉ xảy đến đúng thời điểm của nó.

84. Giữ giới là làm những gì nên làm và không làm những gì không nên làm.

85. Cảm thọ (Vedanā) là một động từ.

86. Thật là sai lầm khi cứ mong đợi người khác phải tôn trọng mình.

87. Hướng dẫn đến đề mục đúng đắn(33) chính là chánh tư duy (Sammā-sankappa).

88. Bạn không thể làm ra vẻ hay giả vờ là đã hiểu được pháp; trình độ hiểu biết, trình độ tu tập của con người ta luôn luôn thể hiện ra qua hành động và lời ăn tiếng nói của họ.

89. Khi nào không có trí tuệ (Paññā), khi ấy chỉ có tâm si (Moha).

90. Khi hiểu rõ hơn về trí tuệ (Paññā), khi ấy bạn sẽ hiểu rõ hơn về tâm si (Moha).

91. Tưởng (Saññā) và trí tuệ (Paññā) làm việc đồng thời với nhau.

92. Niệm (Sati) nhìn thấy những gì đang diễn ra, còn tuệ (Paññā) biết cần phải làm gì.

93. Cả thế giới này vốn dĩ vẫn không công bằng. Con người ta làm việc xấu bởi vì họ không biết gì hơn thế, bởi vì tâm si.

94. Mong muốn người khác phải giống mình là một sự mong đợi ngu ngốc.

95. Tiến trình để có được sự hiểu biết thường là rất đau đớn.

96. Cố gắng giữ chặt sự chú ý của mình trên đối tượng quan sát là tinh tấn sai đường.

97. Bất cứ cái gì bạn nhận biết chỉ là đề mục (hay đối tượng quan sát). Tất cả đối tượng quan sát chr là những hiện tượng tự nhiên. Hãy để cho moi việc tự diễn ra.

98. Mỗi khi bạn đánh giá, phán xét cái này tốt, cái kia xấu, khi ấy tâm sin đang túm cổ bạn.

99. Dù bạn đã từng làm bao nhiêu việc bất thiện chăng nữa, trí tuệ vẫn có thể giải thoát bạn được ngay trong kiếp sống này.

100. Bạn đã bao giờ có được những khoảnh khắc bình an hoàn toàn không mong cầu, khng bất an lo lắng chưa?

101. Khi tâm cảm thấy hoan hỷ trong sự hiểu biết, nó sẽ có động lực để nhìn sâu hơn.

102. Quán chiếu là quan sát những gì đang diễn ra đẻ hiểu được bức tranh toàn cảnh.

103. Thiền là tu tập, phát triển những trạng thái tâm thiện.

104. Chánh niệm tự nhiên giống như việc lái xe, bạn biết cần phải làm gì, phải làm như thế nào và phải cú ý vào cái gì.

105. Cái gì đang diễn ra ngay khi hiện tại?

106. Tại sao chúng ta ham muốn, thích thú cái này cái kia? Bởi vì chúng ta không nhìn thấy chúng như thực chúng đang là.

107. Thực tại thì không có phương hướng, thực tại chẳng đi đến nơi nào.

108. Mọi sự diễn ra không phải vì bạn muốn chúng phải diễn ra mà bởi vì đúng nhân duyên.

CHÚ THÍCH:

(33) Đề mục trong thiền Vipassanā là những đối tượng quan sát nằm trong bốn niệm xứ: thân, thọ, tâm, pháp. Việc phân biệt đề mục đúng hay sai rất vi tế tùy thuộc vảotìnhđộ tu tập và hiểu biết của từng người. Chẳng hạn, khi có một suy nghĩ khởi lên, thì đề mục đúng ở đây là nhận biết được tâm đang suy nghĩ, hay ở trình độ cao hơn thì thấy được rằng đó chỉ là một tiến trình, một hiện tượng tự nhiên đang diễn ra, không có ai trong đó, không có "tôi" đang suy nghĩ,còn chú ý vào nội dung câu chuyện của dòng suy nghĩ đó thì khi đó không còn là đề mục đúng đắn nữa. Tự nhắc mình hướng tâm đến nhận biết tâm suy nghĩ chứ không để tâm đi miên man theo dòng câu chuyện, đó chính là chánh tư duy - ND).
- HẾT -


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Google [Bot]115 khách