You're welcome!battinh đã viết:Heartfelt thank!![]()
![:D :D](./images/smilies/smilies/SmiliesDTK004.gif)
![tangbong tangbong](./images/smilies/smilies/SmiliesDTK053.gif)
Thế là đã rõ rồi.1. "Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo ".
Đây là sự trùng hợp với nho giáo ''Nhân chi sơ tính bản thiện''. Em bé chưa có cảm biết về ý căn là gì? (tương tự như người mù bổn sinh thì không bao giờ biết màu sắc như thế nào để diễn tả?)Khongduyen123 đã viết: Ví một lưới nhện có 5 sợi tơ (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân căn) mỗi chơn con nhện dính liền với sợi tơ, thân con nhện ví cho'' ý căn'', khi một con mồi vướng vào sợi tơ làm rung động chơn con nhện,'' thức '' của căn ấy được phát sanh.
Huynh Khongduyen kính,Khongduyen123 đã viết: KD tập theo cách của con nít chưa biết nói, rất đơn giản tức là trực nhận xúc từ nơi thần kinh ngoài da tức là đứng biết đứng, ngồi biết ngồi, không xuyên qua một tư tưởng nào, nếu có một tư tưởng nào sanh lên lập lại thì KD biết đó là thức tri, còn biết xúc cảm thọ (nóng lạnh ) đều đều (biết tưởng tri)hoặc tâm biết không rõ ràng tức là tâm đang dần dần rơi vào trạng thái hôn trầm, hãy quan sát một cách tự nhiên và nhiệt tâm hướng tâm về cảm thọ xúc toàn thân, cái cảm thọ xúc mới, cách tập của KD là tác ý cứ đứng và ngồi trên ghế được lặp đi lặp lại liên tục cho tới chừng nào tâm thuần thục biết xúc cảm thọ hiện tại thật rõ ràng mới thôi, rồi mới đi dạo vài vòng, quán thân trong thân, an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm có thể tập làm mỗi ngày cho thuần thục sao đó mới thôi.
Sự tu tập Chánh niệm tỉnh giác chắc là không giống ai, bởi trong giấc ngủ cũng như bất cứ ở nơi nào không có người thì một là chánh niệm vào Pháp, hai là lúc đi bộ, chạy, đạp xe thì cột vào Phật (A Di Đà).Nếu cái biết của tâm bị mất bị cắt đoạn trống không không hay biết là do nhân tác ý ở trên, nếu cái biết mờ mờ ảo ảo rồi mất tức là bị hôn trầm, trạo cử, khi xả thiền nên để ý xem tâm lúc ấy như thế nào ? như mới vừa ngủ dậy chư tỉnh táo lắm tức đã hôn trầm, trạo cử, còn tỉnh táo bình thường thì do nguyên nhân trên mà ra, Thiện huynh nên để ý quan sát cho thật kỷ rồi cho KD biết.(p/s. thỉnh thoảng có nhiều lần được thì bị mất thời gian (tức là đang tu tập nghĩ mới 5 phút thôi, nhưng thật sự là 10 phút; 15 phút. Lạ lắm?) có thể bị hôn trầm, trạo cử ở cái mắc khúc này!?)
Kính,
cái này thì "đúng với kinh Nguyên Thủy" vẫn còn Méo chứ mà "không đúng với kinh Nguyên thủy" nữa là Méo Xẹo luôn đó Đh.binh đã viết:Kính đề nghị các trưởng lão Nam Tông (như Cục Đất, Biển Tâm, Hlich v.v...) xem dùm những bài viết của "không Biết" đúng hay sai .
"Không biết đã viết"
- Các kinh Phuơng Quảng là kinh Bắc tông, sao lại thành ra tiểu kinh Nam tông được ?- Thưa Ni sư, thế nào là Thánh đạo Tám ngành?
- Hiền giả Visakha, đây là Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
-- Thưa Ni sư, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi hay vô vi?
-- Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi.
-- Thưa Ni sư, ba uẩn được Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp?
-- Hiền giả Visakha, ba uẩn không bị Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn thâu nhiếp. Hiền giả Visakha, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những pháp này được thâu nhiếp trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư duy, những pháp này được thâu nhiếp trong tuệ uẩn
(Tiểu kinh Phương Quảng – Kinh 44 Trung Bộ kinh)
- Giới, Định, Huệ là tam vô lậu học, sao lại thành ra ba uẩn được.
Kính nhờ các vị trưởng lão Nam Tông xem xét các bài "không biết" đưa lên có phù hợp với thánh giáo hay không. Nếu không đúng với kinh Nguyên Thủy tức là giáo lý của Phật đã bị bóp méo rồi.
Kính
cái này thì lại nhầm rồi đạo hữu, "Tâm dẫn đầu các Pháp" là nguyên văn trong bài viết của ĐH khongduyen; ngu tôi chỉ trích lại lời của ĐH ấy và nêu ý kiến là không đồng ý. Sau đó tôi còn trích dẫn link tham khảo nguyên văn tiếng Pali, diễn giải và dịch nghĩa theo câu kinh Pali đóbinh đã viết:Thế là đã rõ rồi.1. "Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo ".
Nguyên văn là "ý dẫn đầu các pháp" mà nick "không biết" lại trích dẫn là "Tâm dẫn đầu các pháp" vậy là trích dẫn sai .
(không biết là vô tình hay cố ý).
Trên đây chỉ là lý thuyết thôi, cần phải tu tập và cần trãi nghiệm như thực, chỉ học cho hiểu thôi thì uổng công lắm.(lý thuyết cũng khó lắm rồi, tu tập lại càng thêm khó vì thế lực của Ma vương không cho chúng ta thoát khỏ sự thống trị của chúng.)hlich đã viết:![]()
Chào đạo hữu Hlich,Chào đạo hữu Khongduyen123,
Đạo hữu an lạc ạ! Mở đầu xin trích Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu bốn đoạn đầu,![]()
Cám ơn đạo hữu, KD vẫn an lạc, tuy sức khỏe lúc này rất kém thường hay bị bệnh lặc vặc, chính nhờ sự nhắc nhở của sắc vô thường này nên sự tu tập buông bỏ và buông xả có một chút kha khá.
Như KD đã viết ở trên :
Không có ai hỏi, tức nhiên là đã thông suốt rồi !?hỏi : do nhân gì ? do duyên gì ? đoạn kinh văn trên dạy tuệ tri, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời .
và do nhân gì ? do duyên gì ? đoạn kinh văn dưới trong 4 NX lại dạy nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời .
KD tạm dùng văn tự để diễn đạt, chư đạo hữu hãy hiểu ý quên lời :1. "Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
''Nếu'' với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo ".
2. "Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình ".
''Nếu'' tức chỉ có ''ý'' chứ chưa qua hành động của ''Thân'' hay ''khẩu'', tuệ tri như thật biết, như thật thấy, như thật nghe, như thật ngữi, như thật nếm, như thật xúc (đầy đủ 6 thức), tâm buông bỏ nhẹ nhàng, trạng thái của tâm không lạc không ưu.
Vậy tuệ tri là gì ?
Tuệ tri chính là ngũ căn và ngũ lực, trí tuệ biết cả hai khía cạnh ''nhân Khổ não'' và ''nhân an lạc''nên các thiền sư Nam Tông (PGBT) viết ''tức phiền não, tức bồ đề'', một ''nhân'' trong bài kinh Chuyễn Pháp Luân, và một ''nhân'' trong bài kinh Vô Ngã Tướng, ''ngọc quý'' trong áo (kinh Diệu Pháp).
Câu " Ý dẫn đầu các pháp" rất chính xác khi pháp sanh khởi và pháp hoại diệt qua 6 căn.
Ví dụ một người khi lắng nghe pháp thoại, đây là tâm thâm và đây là tâm sân, vị này như thật biết, như thật thấy.... buông bỏ các loại tâm ấy để dàng (không còn tái diễn).Câu ''Tâm dẫn đầu các pháp'' rất chính xác vì các trạng thái của tâm cảm thọ ''ưu'' đang diễn tiến, tuệ tri như thật biết, như thật thấy, như thật nghe, như thật ngữi, như thật nếm, như thật xúc (6 căn), nhưng tâm chưa có đủ khả năng buông bỏ cách dể dàng, nên tâm cần phải nổ lực '' nhiệt tâm'' buông xả để vượt qua,khi tâm cảm thọ ưu sanh lên, tâm biết sự sanh khởi và'' nhiệt tâm'' buông xả , cứ nhẫn nại tin tấn '' nhiệt tâm'' buông xả cho tới khi nào tâm này hay trạng thái tâm này tự tan biến mất, tâm trở nên vắng lặng hết ưu phiền.3. "Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi "
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
4. "Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi, "
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
Vậy nhiệt tâm là gì ?
Nhiệt tâm chính là ngũ căn ngũ lực nhưng phải cần tu tập cho thuần nhiễn (tuệ cần tu tập).
Nếu chì có ''Ý'' mà không có ''tâm'' tạo tác thì ''thân'' hay '' khẩu'' làm sao tạo nghiệp ?Ý dẫn đầu, ý làm chủ vì từ ý mà chúng ta "nói lên hay hành động". Đoạn 3 và 4 là tỉ dụ của đoạn 1 và 2. Phần đạo hữu diễn tả chính là cái lúc và thế nào khi "đụng chuyện" mà ý có thể buông xả "lậu" hoặc là để "lậu" khống chế vậy.
Có câu tạo nghiệp là do ''thân, khẩu, ý'' nhưng không có tâm tác ý tạo thì nghiệp làm sao thành tụ !?
''Ý dẫn đầu các pháp" là giai đoạn đầu, và khi ''tâm dẫn đầu các pháp'' tức các ''nhân'' đã thành tụ chỉ chờ khi đủ duyên thì '' quả '' sẽ trổ !? nếu không thì 4 NIỆM XỨ sẽ chỉ còn 3 NIỆM XỨ tức chỉ còn quán thân, quán thọ và quán pháp, phải không ?
Phần dưới bài kinh giải thích rất rõ về ''tuệ tri' , về quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp :8. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm, không bị dục tham chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của các dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không trộn lẫn với thuốc nhuộm hoặc gôm lặc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu vàng, và ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm,không bị dục tham chi phối, có khi các chú thuật không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được,còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
9. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú với tâm không bị sân xâm chiếm, không bị sân chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của các sân đã khởi lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng! ... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không bị lửa đun sôi, không sôi lên sùng sục, không sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị sân xâm chiếm, không bị sân chi phối, có khi các chú thuật không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được,còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
10. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của các hôn trầm thụy miên đã khởi lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng! ... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối, có khi các chú thuật không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
11. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của các trạo hối đã khởi lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng! ... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước không bị gió thổi, không bị dao động, không bị chấn động, không bị nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị trạo hối miên xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối, có khi các chú thuật không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được,còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
12. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của các nghi hoặc đã khởi lên, trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng! ... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước thuần tịnh, trong sáng không bị khuấy động, đặt giữa ánh sáng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối và như thật biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ðây là nhân, đây là duyên, này Bà-la-môn, có khi các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày, lại có thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
13. Khi được nói vậy, Bà-la-môn Sangàrava bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn...từ này cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(phẩm Bà La Môn - Tăng Chi 5 Pháp)
Lời Phật dạy thì không ai có đủ tư cách để diễn giải lại đâu đạo hữu. Vì sao vậy?chanhhoitrong_123 đã viết: Còn câu "y kinh diễn nghĩa tam thế PHật oan" câu này không phải đơn giản, nế́u diễn giải y như kinh PHật một cách cứng ngắt thì nói oan cho PHật, còn nếu lý giải một cách thông thoáng bừa bải mà không đúng với ý PHật thì sao? vậy xin hỏi người có những tiêu chuẩn như thế nào để có thể diễn giải một cách đúng nhất lời PHật dạy mà không bị rơi vào hai cực đoan cứng ngắt và thông thoáng một cách bừa bải ?
trong bốn Đại giáo pháp thì chỉ nói tổng quát Pháp và Luật chính là những lời dạy của Phật, qua câu trả lời này chúng ta thấy rõ thêm là Pháp và Luật đó bao gồm đầy đủ 8 đặc điểm (hay là Tiêu chí theo như lời của Đh):(III) (53) Pháp Tóm Tắt
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Mahàvana, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, sau khi Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
2. - Này Gotamì, những pháp nào bà biết: "Những pháp này đưa đến tham dục, không phải ly tham; đưa đến hệ phước, không đưa đến ly hệ phước; đưa đến tích tập, không đưa đến không tích tập; đưa đến dục lớn, không đưa đến ít dục; đưa đến không biết đủ, không đưa đến biết đủ; đưa đến tụ hội, không đưa đến nhàn tịnh; đưa đến biếng nhác, không đưa đến tinh tấn; đưa đến khó nuôi dưỡng, không đưa đến dễ nuôi dưỡng". Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng: "Ðó là không phải Pháp, đó là không phải Luật, đó là không phải lời dạy của bậc Ðạo sư".
3. Và này Gotamì, những pháp nào bà biết: "Những pháp đưa đến ly tham, không đưa đến tham dục; đưa đến ly hệ phước, không đưa đến hệ phước; đưa đến không tích tập, không đưa đến tích tập; đưa đến ít dục, không đưa đến dục lớn; đưa đến biết đủ, không đưa đến không biết đủ; đưa đến nhàn tịnh, không đưa đến tụ hội; đưa đến tinh tấn, không đưa đến biếng nhác; đưa đến dễ nuôi dưỡng, không đưa đến khó nuôi dưỡng". Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng: "Ðó là Pháp, đó là Luật, đó là lời dạy của bậc Ðạo sư".
(phẩm Gotamì - Tăng Chi 8 Pháp)
hihi, câu trả lời này của Phật thì quá nặng về phần giới Luật, ngu tôi nghĩ chắc Đh cũng cảm thấy ngán và dội bởi những điều học như thế này; và nó có phần trái ngược với sự "chấn động tim can, xúc động bàng hoàng" ban đầu khi Đh đến với đạo Phật có phải không Đh? nhưng đây là những lời gốc Phật dạy đó Đh. Đh hãy áp dụng câu thần chú "Không tán thán, không hủy báng..." thử đi nhé- Bạch ngài, nghe nói các tỳ khưu ở Kosambī ấy là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng đang đi đến thành Sāvatthi. Bạch ngài, con nên thực hành đối với các tỳ khưu ấy như thế nào?
- Này Sāriputta, như thế thì ngươi hãy hỗ trợ (các vị nào) đúng Pháp.
- Bạch ngài, con nên hiểu đúng Pháp và sai Pháp như thế nào?
- Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là “Pháp;” tuyên bố Pháp là: “Phi Pháp;” tuyên bố phi Luật là: “Luật;” tuyên bố Luật là: “Phi Luật;” tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;” tuyên bố vô tội là: “Phạm tội;” tuyên bố phạm tội là: “Vô tội;” tuyên bố tội nặng là: “Tội nhẹ;” tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nặng;” tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;” tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội còn dư sót;” tuyên bố tội xấu xa là: “Tội không xấu xa;” tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội xấu xa.” Này Sāriputta, người nói sai Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.
Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc. Này Sāriputta, trường hợp vị tỳ khưu
tuyên bố phi Pháp là “Phi Pháp;”
tuyên bố Pháp là: “Pháp;”
tuyên bố phi Luật là: “Phi Luật;”
tuyên bố Luật là: “Luật;”
tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;”
tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: “Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;”
tuyên bố điều không được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều không được thực hành bởi đức Như Lai;”
tuyên bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: “Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;”
tuyên bố điều đã không được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;”
tuyên bố điều đã được quy định bởi đức Như Lai là: “Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;”
tuyên bố vô tội là: “Vô tội;”
tuyên bố phạm tội là: “Phạm tội;”
tuyên bố tội nhẹ là: “Tội nhẹ;”
tuyên bố tội nặng là: “Tội nặng;”
tuyên bố tội còn dư sót là: “Tội còn dư sót;”
tuyên bố tội không còn dư sót là: “Tội không còn dư sót;”
tuyên bố tội xấu xa là: “Tội xấu xa;”
tuyên bố tội không xấu xa là: “Tội không xấu xa.”
Này Sāriputta, người nói đúng Pháp sẽ được nhận biết do mười tám sự việc này.
(http://budsas.org/uni/u-luat-daipham/dp-10.htm)
Chú Hỉ đã viết:
Đây là sự trùng hợp với nho giáo ''Nhân chi sơ tính bản thiện''. Em bé chưa có cảm biết về ý căn là gì? (tương tự như người mù bổn sinh thì không bao giờ biết màu sắc như thế nào để diễn tả?)Khongduyen123 đã viết: Ví một lưới nhện có 5 sợi tơ (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân căn) mỗi chơn con nhện dính liền với sợi tơ, thân con nhện ví cho'' ý căn'', khi một con mồi vướng vào sợi tơ làm rung động chơn con nhện,'' thức '' của căn ấy được phát sanh.
Theo Thắng pháp thì cảm thọ, tác ý không phải là "tâm" mà là "tâm sở". Khi tâm/ý/thức sinh khởi thì luôn có một số tâm sở cùng sinh khởi; ngoài ra còn một số tâm sở khi có mặt, khi không có mặt. Tâm được ví như ông vua và tâm sở được ví như các quan bên cạnh vua.tâm cảm thọ, ..., tâm tác ý
Chú Hỉ đã viết:Khongduyen123 đã viết: KD tập theo cách của con nít chưa biết nói, rất đơn giản tức là trực nhận xúc từ nơi thần kinh ngoài da tức là đứng biết đứng, ngồi biết ngồi, không xuyên qua một tư tưởng nào, nếu có một tư tưởng nào sanh lên lập lại thì KD biết đó là thức tri, còn biết xúc cảm thọ (nóng lạnh ) đều đều (biết tưởng tri)hoặc tâm biết không rõ ràng tức là tâm đang dần dần rơi vào trạng thái hôn trầm, hãy quan sát một cách tự nhiên và nhiệt tâm hướng tâm về cảm thọ xúc toàn thân, cái cảm thọ xúc mới, cách tập của KD là tác ý cứ đứng và ngồi trên ghế được lặp đi lặp lại liên tục cho tới chừng nào tâm thuần thục biết xúc cảm thọ hiện tại thật rõ ràng mới thôi, rồi mới đi dạo vài vòng, quán thân trong thân, an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm có thể tập làm mỗi ngày cho thuần thục sao đó mới thôi.Huynh Khongduyen kính,
Hỉ đang tu tập như Huynh nói vậy, phải mất hơn 5 trời, mới thấy được có chút chút công phu.1 Tức là các vọng tưởng, vọng thức (tưởng tri, thức tri) điều dẹp qua một bên,2 chỉ hằng sống với tâm thức tỉnh giác. 3 Như trẻ nít là ăn biết mình ăn, ngủ biết mình ngủ, lễ Phật biết mình lễ Phật... 4 Có lẽ khác về phương tiện thực hành riêng biệt.![]()
1_ phiền não ngủ ngầm đấy, KD bị nhiều rồi...hi..hi.. chừng nào KD hết các loại này thì mới xong.
2_ Chỉ có các vị vô sanh mới thật sự là hánh giả, còn chúng ta chỉ tạm gọi là giả hành.
3_ Người lớn từ con nít trưỡng thành mà già theo thời gian nên chuyện ăn uống, ngủ nghỉ rất thiện xảo và điêu luyện nên luân hồi sanh tử lên xuống vào 4 cõi thấp giống như ăn cơm bửa vậy, chừng nào biết sợ thì mới ăn uống, ngủ nghỉ đúng với thiên nhiên, KD đi tham quan nhiều rồi nên bây giờ chán sống theo cách đó...hi...hi.....
4_ Có thể buông bỏ cái nhỏ này nắm bắt cái lớn khác, hoặc buông xả cái gì mình ''không thích'', KD nhờ vậy mới có thêm kinh nghiệm. hi..hi....
(p/s. thỉnh thoảng có nhiều lần được thì bị mất thời gian (tức là đang tu tập nghĩ mới 5 phút thôi, nhưng thật sự là 10 phút; 15 phút. Lạ lắm?) có thể bị hôn trầm, trạo cử ở cái mắc khúc này!?)
Nếu cái biết của tâm bị mất bị cắt đoạn trống không không hay biết là do nhân tác ý ở trên, nếu cái biết mờ mờ ảo ảo rồi mất tức là bị hôn trầm, trạo cử, khi xả thiền nên để ý xem tâm lúc ấy như thế nào ? như mới vừa ngủ dậy chư tỉnh táo lắm tức đã hôn trầm, trạo cử, còn tỉnh táo bình thường thì do nguyên nhân trên mà ra, Thiện huynh nên để ý quan sát cho thật kỷ rồi cho KD biết.
Kính,Sự tu tập Chánh niệm tỉnh giác chắc là không giống ai, bởi trong giấc ngủ cũng như bất cứ ở nơi nào không có người thì một là chánh niệm vào Pháp, hai là lúc đi bộ, chạy, đạp xe thì cột vào Phật (A Di Đà).
Ba là nếu riêng về tỉnh giác thì cột vào quán sổ tức trong lúc lái xe, hay trong lúc làm việc.v.v. Nên vì lẽ này mà lắm lúc bị mất thời gian. (p.s chớ không phải mất thời gian tức là không biết mình đang làm gì? các 6 giác ở đâu...)![]()
Lúc trước KD học nhiều thầy nên mỗi ngày dành nữa tiếng đồng hồ cho một pháp tu, 5 - 6 pháp tu mất 3- 4 tiếng lận.....hi..hi.... nhờ vậy mới biết khôn ''nhất nghệ tinh, nhất thân vinh'' là vậy đó.
Nhưng trở ngại lớn nhất hiện nay là, khi đối diện với người thân, đồng nghiệp hay khách lạ là bị duyên theo đối tượng, quên hết các thân thọ tâm pháp.
Thiện huynh có tập đâu mà quên !? phải không !?
Đây là kinh nghiệm quý báu đấy.....hi ..hi....KD đã nếm qua mùi vị này....coi bộ thú vị lắm đấy...hi...hi......ai chưa qua sự khảo sát này chưa đủ lớn khôn (trí) !?- Hiện Hỉ đã khám phá rằng mình chưa có một tí công phu nào cả. Chưa có học được cái gì, tức là đang bị lầm lẫn tuệ tri, thức tri nơi kinh điển là ý mình, thật sự tất cả điều do vọng tưởng tạo thành. Chỉ có chút ít trí tuệ rồi lầm với tuệ tri. Khổ khổ,![]()
Thí dụ về công phu:(Ví dụ, Tổ Bồ Đề Đạt Ma ngồi thiền 9 năm, Lục Tổ 16 năm sống với phàm phu, Hay trong các phim kiếm hiệp võ thiếu lâm, muốn có một công phu nội thân cần phải luyện cho mình thành mình đồng, gan sắt!)
Công phu nghĩa là gì có huynh đệ có thực hành thì mới biết, chớ còn viết ra giấy mực có diễn tả hết năm thì người khác cũng không hiểu.
Công phu đó là Giới Định và Huệ ở ngay nơi Bát Chánh Đạo này. Nếu không có căn bản nền tảng dững dàng về Bát Chánh Đạo thì không thể thực hành. Bất cứ một pháp môn nào.
Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến. và 171 khách