Bạn Không biết thân mến!Về THỂ DẠNG thì Kinh Pháp cú vi phạm giới luật và không giữ đúng truyền thống truyền thừa kinh điển của giáo lý Nam Truyền.
Bạn đã hoàn toàn sai lầm khi cho rằng kinh Phật thì không có "thi kệ", rằng Kinh Pháp Cú "toàn là thơ với thơ" nên vi phạm giới luật. Ngay đoạn kinh bạn trích dẫn trong Tăng Chi Bộ cũng đã có bài kệ tương tự với bài kệ trong kinh Pháp Cú. Bàng bạc trong kinh điển cũng xuất hiện rất nhiều bài "thi kệ", bạn xem lại đi nhé!
Bạn hiểu cụm từ "dạng có niêm luật" trong câu "không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật" là "thi kệ" thì quả là hồ đồ. Không phải ngẫu nhiên mà HT Minh Châu đã cẩn thận ghi kèm từ nguyên gốc Pali là "chandaso", có lẽ HT không yên tâm với chuyển ngữ "niêm luật" vì sợ người đọc nếu không hiểu rõ ngữ cảnh sẽ hiểu nhầm ý kinh. Hai tỳ khưu Meṭṭhakokuṭṭha vốn xuất thân dòng dõi Bà-la-môn. Giai cấp Bà-la-môn vốn độc quyền trong việc truyền thừa và phúng tụng kinh Vệ-đà (Vedas) bằng một thứ cổ ngữ của riêng giới Bà-la-môn quý phái, gọi là tiếng Vedic. Như vậy, trong ngữ cảnh này, cụm từ "dạng có niêm luật" phải được hiểu là "niêm luật" của cổ ngữ Vedic, chứ không phải Đức Phật cấm "thi kệ" trong các kinh điển. Quan điểm này cũng được nhắc đến như sau:
(http://www.budsas.org/uni/u-gtdp/gtdp04.htm)Có một lần, hai vị đại đức Yamelu và Tekula xin phép Đức Phật để ghi chép và chuyển dịch những bài giảng của Ngài sang tiếng Vedic, vốn là văn tự của giới quý tộc dùng để phúng tụng kinh Vệ Đà, để bảo đảm tính nhất quán và chính xác của các bài kinh, nhưng Phật không đồng ý. Ngài cho rằng các bài giảng của Ngài phải được phổ biến đến mọi người qua ngôn ngữ địa phương để họ có thể nghe, hiểu và thực hành được
(http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-s ... anguage=vi)Hồi Bụt còn tại thế, ngôn ngữ được xử dụng cho kinh và luật là tiếng Ardhamagadhi. Nhưng địa bàn hoằng pháp của Bụt rất rộng, cho nên tại các địa phương không thuộc trung tâm lưu vực sông Hằng, các thầy và các sư cô thường phải giảng dạy giáo pháp bằng các thứ tiếng địa phương, và điều này đã được Bụt chấp nhận và khuyến khích. Một hôm, tại tu viện Cấp Cô Độc, hai đại đức Yamelu và Tekula xin phép Bụt được dịch tất cả các kinh của Người nói ra cổ ngữ Vedic thường được dùng trong các thể phúng tán của các kinh Vệ đà. Hai đại đức thưa rằng sở dĩ họ muốn làm như vậy là vì lời của Bụt dạy rất đẹp mà đến khi được dịch ra các thứ tiếng địa phương thì có thể trở thành méo mó, và làm cho người ta hiểu lầm ý Bụt. Dịch lời Bụt ra thành thể phúng tụng theo cổ ngữ là một cách bảo vệ cái đẹp và tính cách chính xác của giáo lý. Bụt đã không đồng ý với hai thầy. Người không muốn giáo lý của Người trở nên một bảo vật dành riêng cho giới trí thức quý phái. Người muốn giáo lý của Người là một thực thể sống động trong mọi giới quần chúng. Vị vậy Bụt đã nói: “không, tôi không muốn các thầy đưa giáo lý vào hình thức phúng tụng cỗ ngữ. Tôi muốn mọi người có thể học và hành giáo lý trong tiếng mẹ đẻ của chính mình”.
Còn cụm từ "Như vầy tôi nghe..." thường được mở đầu cho các kinh, nhưng đây không phải là quy đinh bắt buộc cho 100% các bài kinh. Kinh Pháp Cú là tập hợp các bài kệ ngôn ngắn gọn của Đức Phật trong rất nhiều thời điểm, ngữ cảnh khác nhau nên không nhất thiết trước mỗi bài kệ lại phải đi kèm cụm từ này. Cụm từ này cũng không thể là "cái tem chống hàng giả" của kinh điển, vì đơn giản là nó rất dễ dàng được làm giả. "Tem chống hàng giả" của Pháp bảo chỉ có thể là nội dung thâm sâu của kinh văn đó có thực sự chứa đựng những tinh hoa đặc thù của Đạo Phật không, như là Tam Pháp Ấn "Khổ- Vô Thường-Vô Ngã", Tam Vô Lậu Học "Giới-Định-Tuệ", Lý Duyên Khởi, Luật Nhân Quả, Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo...
Cũng lưu ý bạn rằng Pháp Cú Sớ Giải chỉ là bản Phụ lục của Kinh Pháp Cú, nên càng không nhất thiết phải có cụm từ "Như vầy tôi nghe..."mà bạn vẫn thích bám chấp như vậy.
Này các Tỷ kheo, nay trong thời của Ta có một Tăng hội một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, tất cả đều là bậc Lậu tận.
1250 là con số các vị đã "lậu tận", tức là các vị A-la-hán. Còn tổng số các vị Tăng Ni trong Giáo đoàn thì chắc chắn lớn hơn rất nhiều. Hơn nữa, ý nghĩa các con số trong cổ ngữ không phải giống như cách chúng ta hiểu hiện nay. Các con số trong đoạn kinh bạn trích dẫn đều là các con số rất chẵn và mang ý nghĩa biểu tượng . Giống như con số 84.000 pháp môn chẳng hạn.
Xá Vệ là kinh đô của Đế quốc Kiều Tát Di La, nên nhiều bài kinh gọi Đế quốc rộng lớn này là "Xá Vệ quốc". Vua Ba Tư Nặc là một Phật tử thuần thành nên dân chúng trong Đế quốc của ông theo Đạo Phật rất đông. Do đó con số "năm mươi triệu Phật tử" cũng hoàn toàn không phải là con số vô lý, bạn Không biết ạ.
Bạn cũng nghi ngờ câu chuyện "lợn rừng thách đấu sư tử" thì xin bạn vào Youtube để mục sở thị xem nhé: https://www.youtube.com/watch?v=EsrfrskUnII
Như vậy đã được gọi là "lợn rừng thách đấu sư tử " chưa hả bạn? Còn nếu bạn vẫn thích bám chấp vào văn tự để vặn vẹo rằng động vật có biết nói đâu mà gọi là "thách đấu", thì xin bạn giải thích cho tôi chuyện này: Tôi có một người bạn được một nhân viên Sứ quán Đức tặng cho một con chó rất tinh khôn. Con chó rất hiểu ý chủ, dù là chủ cũ người Đức hay chủ mới người Việt, cứ như là nó hiểu cả tiếng Đức lẫn tiếng Việt vậy. Dĩ nhiên loài chó thì không thể biết ngôn ngữ loài người nói chung chứ đừng nói đến là biết 2 ngôn ngữ Đức và Việt. Thực ra động vật có thể giao tiếp với con người hay giữa động vật với nhau không phải bằng ngôn ngữ mà thông qua trực giác. Do đó câu chuyện "lợn rừng thách đấu sư tử" hoàn toàn không phải là câu chuyện bịa bạn ạ.
Không biết đã viết:
Một Phật tử định kỳ đến chùa công quả, chấp tác, lễ Phật vào ngày rằm, mồng một cũng có thể nói với người khác rằng: "Mai là ngày rằm rồi, đến phiên tôi được vào hầu Phật rồi". Nói vậy thì có phạm lỗi gì không hả bạn?và ở đây tôi lại phải lưu ý chữ "đến phiên chàng vào hầu Phật". Đức Phật khi còn tại thế luôn có người hầu cận bên cạnh được gọi là "Thị giả", có chuyện gì thì Phật đều yêu cầu người thị giả của mình giúp đỡ hoặc làm thay, làm gì có phiên lượt nào dành cho cư sĩ?.
Thị giả là người chuyên hầu cận bên cạnh Phật, như Ngài A Nan chẳng hạn. Nhưng cũng có lúc Phật đi giáo hóa mà không mang theo thị giả, hoặc ngược lại cũng có lúc Ngài A Nan có việc Phật sự phải đi xa. Những lúc đó sẽ có người hầu Phật thay Ngài. Hoặc cũng có công việc mà một mình Ngài A Nan làm không xuể, khi đó Ngài có thể nhờ đại chúng phụ giúp. Ngoài thị giả là người chuyên công việc hầu cận bên Đức Phật thì bất cứ ai, tu sĩ hay cư sĩ, đã là Phật tử con của Phật thì đều có thể phụng sự hầu Phật trong một số công việc được.
Bạn Không biết đang tiếp tục làm công việc "Y kinh giải nghĩa- Tam thế Phật oan" đó!