Kính chào quý đạo hửu Alphatran, Hlich, Cục Đất, Biển Tâm, Quan Sát, và các vị đạo hửu khác
Lâu ngày không gặp đạo hửu vẩn khỏe? Mong quý vị vẩn thường nương tựa giáo pháp của Đức Phật trong đời sống hằng ngày.
Xin được trích từ quyển "Đức Phật và Phật Pháp" của cổ trưởng lảo Narada, một vị cao tăng mà Hieule luôn nhắc đến với tâm kính ngưởng
"Người kia đi quanh quẩn giữa một khu rừng mênh mông, đầy chông gai và đá nhọn. Trong khi lang thang bất định, anh sực nhìn lại phía sau và thấy một thớt voi đang rượt theo. Giựt mình, anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng cạn anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng dưới đáy giếng có một con rắn độc. Thớt voi vẫn lù lù trờ tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao lòng thòng trên miệng giếng và vội vã leo phăng lên, bất chấp gai nhọn đầy trên sợi dây cào trầy cả mình mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt nhìn lên, thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai con chuột, một trắng, một đen, đang cặm cụi gặm nhấm sợi dây mà anh đang đeo trên đó.
Vừa lúc ấy, một giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang nằm dưới đáy giếng, sợi dây có gai nhọn cào trầy cả mình mẩy, bầy ong đang vây đánh và hai con chuột, tượng trưng cho ngày và đêm, đang gặm nhấm sợi dây đời sống, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa thích...".
Ðó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai là kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sinh. Bầy ong là những nỗi khổ đau luôn luôn đe dọa sự an lành của chúng ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống. Hai con chuột, một trắng, một đen là ngày và đêm.
Trên bước viễn du trong vòng luân hồi, từ vô lượng kiếp, chúng ta vẫn còn đang lặn hụp trong những kiếp sống triền miên tiếp diễn mà không tìm được đường thoát. Hạnh phúc mà phần đông chúng ta mong tìm chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng vừa khi đạt đến điều mong mỏi ta lại ước mơ điều khác và cứ như thế không ngừng. Chúng ta không bao giờ được thỏa mãn trọn vẹn vì không bao giờ biết là đủ. Lẽ dĩ nhiên, một ước vọng không được toại nguyện làm cho ta đau khổ. Nhưng dầu có được toại nguyện đi nữa, ta lại lo âu, bận tâm suy nghĩ để gìn giữ, sợ nó mất đi.
Khi nói sanh là khổ, không phải chúng ta chỉ nghĩ đến nỗi khổ nhọc hiểm nguy gây nên do cảnh mang nặng đẻ đau mà sâu xa hơn, ta phải nhận thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ, là khởi duyên, tạo cơ hội cho cái khổ bám vào. Nếu không sanh tức không có sự sống và không có sự sống tức là không có khổ.
Vì lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người Phật-tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, tức thoát ra khỏi mọi khổ đau. Nhưng bản chất tự nhiên của chúng sanh là cố bám vào sự sống, giống như anh chàng bị gai quàu trầy cả mình mẩy mà vẫn đeo chắc lấy sợi dây, vì ái-dục là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Chính ái-dục, thô kịch hay vi tế, thúc đẩy ta đeo níu, cố bám chắc vào sự sống dưới mọi hình thức và do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong biển trầm luân.
Khổ có ba trạng thái 1) Khổ khổ = chiển tranh, nạn đói nghèo, tình trạng vô gia cư, y tể căn bản không phát triển, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi, nạn thất nghiệp, kinh tế suy thoái, stress, ung thư, đau tim, mất trí lúc về già, bất toại nguyện mà chúng ta bắt buộc phải kham nhẩn (cỏi ta bà)
2) Vô thường khổ = Ðau khổ vì đời sống là vô-thường, là sắc thái thứ nhì của Dukkha. Khi mà tất cả mọi sự vật đều biến đổi, không có gì ổn định, không có gì bền vững, không có gì tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc thì hậu quả dĩ nhiên là trạng thái vô-thường, bất ổn, bất định, bất điều hòa, những khía cạnh khác nhau của đau khổ (Dukkha). Chính sự biến đổi là dấu hiệu của khổ.
3) Hành khổ = Sắc thái thứ ba của đau khổ là Hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã). Hành (Sankhãra) là một danh từ có rất nhiều ý nghĩa. Ở đây, danh từ này bao hàm tất cả những gì được cấu tạo do nhiều nguyên nhân cùng hợp lại, một cấu hợp, một nhóm, một khối. Theo Phật-giáo thể xác con người là sự cấu hợp của hai thành phần: Danh và Sắc, phần tâm lý và phần vật lý (vật chât).
Thể xác con người không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, mà là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn hay nói một cách khác "Dòng đời là vô tận". Tâm và thân luôn luôn biến đổi như một sự tiếp nối liên tục, một giòng sông luôn luôn trôi chảy và không bao giờ tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Mỗi giây, mỗi khoảnh khắc trôi qua thì ở một điểm nước cũng trôi đi, nhường chỗ cho nước từ một điểm khác trôi đến. Ðiều này đưa ta đến kết luận: danh-sắc hay sự cấu thành của tâm và thể xác, cấu thành chúng sanh phức tạp mà ta gọi là con người không phải là một thực thể tự mình có khả năng tồn tại vĩnh cửu mà chỉ là một tiến trình liên tục diễn tiến. Ðã là một tiến trình thì nó là cái gì luôn luôn biến đổi, không tồn tại lâu dài. Chính vì lẽ ấy mà nó là đau khổ (Dukkha). Vậy sự đau khổ dính liền với con người trong sự cấu thành con người. Chính bản chất của khối ngũ-uẩn là đau khổ (Dukkha). Ðó là sắc thái hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã).
Phật-giáo nhận cái khổ như một sự kiện sẵn có và dính liền với đời sống. Nhưng Ðức-Phật không dừng bước tại đây để buồn rầu hay để cầu nguyện cho chúng sanh. Như vị lương y, khi nhận thấy và xác nhận rằng thật sự có bệnh thì tìm phăng lên nguyên nhân của chứng bệnh và sau khi xác nhận rằng chứng bệnh có thể chữa trị, kê toa và chỉ dạy bệnh nhân phương thức trị liệu thích hợp. Cùng thế ấy, Ðức-Phật xác nhận đau khổ là chứng bệnh trầm kha của chúng sanh, ái dục là nguồn gốc của đau khổ, ái dục có thể tận diệt và phương thức diệt trừ ái dục, chấm dứt đau khổ, là Bát Chánh Ðạo gồm Giới - Ðịnh - Tuệ.
Có lời phê bình cho rằng Phật-Giáo cứ mãi nhắc đến vô-thường và luôn luôn đề cập đến cái chết, như vậy là bi quan, yếm thế.
Phật-Giáo không bi quan. Phật-Giáo cũng không lạc quan. Phật-Giáo chỉ thực tiễn. Trong một ngôi nhà đang bừng cháy người lạc quan nghĩ rằng rồi đây lửa sẽ dịu dần và tắt hẳn. Mọi việc sẽ được an bài tốt đẹp. Nghĩ vậy, người ấy ăn uống no say rồi yên giấc, vững bụng rằng ngày mai trời lại sáng và đâu sẽ vào đó một cách an toàn, không có gì phải bận tâm lo nghĩ. Người bi quan trái lại, vừa thấy lửa bốc cháy đã hốt hoảng lo sợ, rồi tuyệt vọng nghĩ rằng tất cả đã sắp trở thành tro bụi, mọi người đã bị hỏa thiêu, đời sống đã trở nên đen tối và đâm ra âu sầu ủ dột, chán nản, mà không làm gì tích cực để thoát nạn, cho đến khi ngọn lửa thật sự thiêu đốt tất cả. Cùng trong một cảnh ngộ người thực tiễn nhận định rõ ràng rằng thật sự có hiễm nguy và tận dụng khả năng để đối phó với hoàn cảnh một cách thích đáng. Đây là thái độ của người Phật-tử hiểu đạo chân chánh.
Hằng ngày ta có thể nhận định tánh cách vô-thường của vạn pháp. Hoa nở rồi tàn. Con người sanh ra, trưởng thành rồi chết. Mọi sự vật đều luôn luôn biến đổi. Không có cái chi tồn tại vừng bền trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Do lý vô-thường có đau khổ. Ðau khổ là sự kiện dĩ nhiên, một thực tế của đời sống. Phật-giáo dạy chúng ta tận dụng khả năng để quan sát, suy luận và đối phó với thực tế.
Trích trong kinh bộ Samyutta Nikãya, điểm này đạo hửu Cục Đất, Hlich, và Biển Tâm chắc biết rỏ hơn mình
Một lần nọ, Ðức-Phật ngự tại Kosambi (Câu Ðàm Di) trong khu rừng cây Simsapa. Lúc ấy, nắm trong tay một nắm lá, Ngài ngỏ lời cùng các vị Tỳ-Khưu như sau:
"Các con nghĩ thế nào, này chư Tỳ-Khưu, số lá nằm trong tay Như-Lai và số lá trên cây, trong toàn thể khu rừng này, số nào lớn hơn?
- Bạch Hóa Ðức Thế-Tôn, số lá nằm trong tay Ngài hẳn thật không bao nhiêu nhưng lá trên cây, trong toàn thể khu rừng thì rất nhiều"
"Cùng thế ấy, này chư Tỳ-Khưu, những gì Như-Lai chứng ngộ mà không truyền dạy thật là nhiều, như lá trên cây. Chỉ một ít những gì Như-Lai truyền dạy. Tại sao? Này chư Tỳ-Khưu, tại sao Như-Lai không truyền dạy tất cả? Này chư Tỳ-Khưu, là bởi vì những điều ấy quả thật vô-ích, không thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết. Những điều ấy không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ, Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai không công bố những điều ấy. Và, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những gì?
- Ðây là đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là sự khởi phát của đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là sự chấm dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
Và tại sao, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những chân lý ấy? Bởi vì các chân lý ấy hữu ích, thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết, dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ và Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố các chân-lý ấy".
Do vậy mình thấy câu kệ thuộc Nam Tông sau đây rất hay. Các pháp hữu-vi thật không bền vững. Nó có tánh cách sanh diệt là thường vì nhân sanh rồi diệt, diệt rồi sanh (nên thường hay có sự khổ-não). Chỉ có Niết-Bàn là pháp tịch diệt, dứt cả pháp hữu-vi ấy được mới có sự an-vui tuyệt đối.
Do đó người Phật tử thực tiển nên dựa vào "Bốn Thánh Đế", 37 phẩm trợ đạo, "Tám Thánh Đạo", kinh Kim Cang, Bát Nhã Tâm Kinh, kinh Đại Niệm Xứ, hay Niệm Xứ (Mahasatipatthana) hay (Satipatthana) làm chiếc bè "Bát Nhã" cho mình ngay trong kiếp sống này để tìm những giây phút an lạc tuy ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa "Thiểu dục tri túc; an bần thủ đạo; duy tuệ thị nghiệp". Hy vọng với duyên lành chúng ta được gặp Phật Pháp trong kiếp này sẻ là những hạt giống tốt giúp chúng ta luôn luôn gặp Phật Pháp trong những kiếp sống sau này để cuối cùng giống như một ví dụ trước đây mình đã có chia xẻ với quý đạo hửu là lửa tắt củi hết mà ở đây lửa tượng trưng cho ái dục hay nói cách khác tham, sân, và si. Lửa tắt củi hết = một trạng thái tịch tỉnh vượt lên trên nhửng tham, sân, si của một hạnh phúc tối thượng.
Mong đạo Hửu Alpha Tran đọc kỷ đoạn này, khoan phân tách đúng sai. Sau khi đạo hửu hiểu ý mình rồi thì hảy post bài nói ý của đạo hửu để xem chúng ta có hợp ý không. Vậy nhé.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật