Mười thiện xảo trong định an chỉ

Mời các bạn thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì Phật giáo Nam truyền.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Mười thiện xảo trong định an chỉ

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

MƯỜI THIỆN XẢO TRONG ĐỊNH AN CHỈ
(Sách Thanh Tịnh Đạo, Chương IV, trang 210-222, Thích Nữ Trí Hải dịch)
42. Tuy nhiên, nếu tu tập theo cách đó mà hành giả vẫn không đắc định thì cần phải nhờ đến mười thiện xảo trong sự đắc định an chỉ như sau:
  1. Làm sạch nội, ngoại xứ.
  2. Duy trì quân bình giữa các căn.
  3. Thiện xảo về tướng.
  4. Nỗ lực tâm vào lúc đáng nỗ lực.
  5. Chế ngự tâm lúc đáng chế ngự.
  6. Khích lệ tâm lúc đáng khích lệ.
  7. Nhìn tâm với thái độ xã khi cần nhìn với xã.
  8. Tránh những người không định tĩnh.
  9. Gần gũi những người định tĩnh.
  10. Quyết tâm đối với định.
43. 1. Làm sạch nội, ngoại xứ: Khi tóc, móng tay, móng chân, lông trên thân mọc dài, hoạc thân thấm đầy mồ hôi, gọi là nội xứ không sach. áo dơ, hôi hám cũ kỹ, bở mục hoặc trú xứ dơ bẩn là ngoại xứ. Khi nội xứ, ngoại xứ đều bất tịnh thì tri kiến trong tâm và tâm sở cũng bất tịnh, như ánh sáng từ một cây đèn có bình dầu, tim (bấc) và dầu không sạch, các hành không hiện rõ cho một người cố hiểu chúng bằng tri kiến không sạch và khi người ấy chú tâm vào đề mục thiền, nó không đi đến tăng trưởng, lớn mạnh và viên mãn.

44. Nhưng khi nội và ngoại xứ đều sạch thì tri kiến trong tâm và tâm sở được trong sạch như ánh sáng của một cây đèn có bình dầu, bấc và dầu đều sạch; các hành trở nên rõ rệt cho người cố hiểu chúng với tri kiến trong sạch và khi vị ấy tu tập đề mục thiền, nó được tăng trưởng, lớn mạnh, viên mãn.

45. 2. Duy trì các căn: có nghĩa là làm quân bình năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ. Vì nếu tín căn mạnh mà những căn khác yếu thì tấn căn không thể thi hành nhiệm vụ nó là nỗ lực, niệm căn nhiệm vụ an trú, định căn nhiệm vụ không tán loạn và tuệ căn với nhiệm vụ thấy rõ. Trong trường hợp ấy, tín căn cần được châm chước bằng cách xét lại bản chất của từng pháp liên hệ, nghĩa là những đối tượng chú ý hoặc bằng cách đừng để ý đến chúng, theo kiểu với tín căn quá mạnh. Có thể chứng minh điều này với câu chuyện về trưởng lão (S. iii, 119) Vakkali(*).

46. Nếu tấn căn quá mạnh thì tín căn không thể làm cái nhiệm vụ quyết định và các căn khác cũng không thể làm những nhiệm vụ chúng. Bởi thế trong trường hợp này, tấn căn cần được châm chước bằng xã, khinh an, định. Ðiều này có thể chứng minh với câu chuyện trưởng lão Sona (A. iii, 374-6). Cũng thế, với các căn còn lại, khi bất cứ một căn nào trở nên quá mạnh thì những căn khác không thể làm nhiệm vụ của chúng.

47. Nhưng, điều được đặc biệt khuyễn cáo là quân bình tín với tuệ, định với tấn. Vì một người tín nhiều, tuệ ít thì tin tưởng không phê phán, không căn cứ. Một người tuệ nhiều tín ít thì dễ lạc vào kiểu láu cá và cũng khó trị như người bị lạm thuốc. Nếu quân bình hai căn ấy thì chỉ tin khi có lý do để tin. Và giãi đãi dễ thắng lướt một người định nhiều tấn ít, vì định dễ sinh biếng nhác. Trạo cữ thắng lướt một người tấn nhiều, ít định, vì tinh tấn dễ sinh trạo cữ. Nhưng nếu định song đôi với tinh tấn thì không thể rơi vào giãi đãi và tinh tấn song đôi với định thì không rơi vào trạo cử. Bởi thế, hai căn này cần được quân bình, định "an chỉ" phát sinh khi có sự quân bình giữa tấn căn và định căn.

48. Lại nữa, định và tín cần quân bình. Người tập định cần có niềm tin mạnh vì nhờ tín mạnh mà đắc an chỉ. Vả lại có sự quân bình giữa định và tuệ. Một người tu tập định cần có sự nhứt tâm mạnh vì nhờ tuệ mà thể nhập các đặc tính (vô thường, khổ, vô ngã), nhưng với sự quân bình giữa định, tuệ, hành giả còn đạt đến an chỉ.

49. Tuy nhiên, niệm là pháp cần yếu đối với mọi trường hợp vì niệm làm cho tâm khỏi rơi vào trạo cữ vì các căn tín, tấn, tuệ. Niệm cũng làm cho tâm khỏi rơi vào giãi đãi vì cái căn dễ phát sinh giãi đãi là định. Bởi thế, trong mọi trường hợp, niệm là điều đáng muốn, như muối là cần thiết trong các thứ nước chấm, như thủ tướng cần thiết trong mọi công việc của vua. Bởi vậy, Luận nói: "Niệm được Thế Tôn gọi là phổ quát vì tâm có niệm làm chỗ y cứ, niệm được biểu hiện nhờ sự che chở hộ trì và không có sự nỗ lực và điều phục tâm nếu không có niệm".

50. 3. Thiện xảo về tướng là sự khéo léo làm phát sinh tướng nhứt tâm chưa phát sinh qua biến xứ đất... Sự khéo léo phát triển tướng đã sinh; khéo léo giữ gìn tướng đã phát triển. Ở đây muốn đề cập thiện xão thuộc loại sau cùng này.

51. 4. Thế nào là nỗ lực tâm khi cần nỗ lực? Khi tâm đâm ra giãi đãi vì ít tinh tiến... Thì thay vì tu tập ba giác chi khinh an, định, xã, hành giả, nên tu tập trạch pháp, tính tiến, hỉ. Vì đức Thế Tôn dạy: "Nếu các tỳ kheo, giả sử có người muốn làm cho một đốm lửa nhỏ cháy lên mà bỏ cỏ ướt, củi ướt và rưới nước, rắc bụi lên thì có làm cho đốm lửa bừng cháy được không? - Bạch Thế Tôn, không. - Cũng thế các tỳ kheo, khi tâm đã lười biếng thì không phải lúc tu tập khinh an giác chi, định giác chi, xã giác chi. Tại sao? Vì một tâm lười biếng không thể nhờ những pháp ấy mà phấn chấn lên được. Khi tâm lười biếng, cần phải tu tập trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỉ giác chi, vì một tâm lười biếng có thể nhờ các pháp này mà được kích động. Như người muốn một đốm lửa nhỏ cháy rực lên mà bỏ thêm cỏ khô, phân bò khô, củi khô, lấy miệng thổi không rắc bụi lên thì có thể làm cho đốm lửa cháy sáng lên được" (S. v., 112).

52. Và ở đây, sự tu tập mỗi giác chi là thức ăn cho giác chi ấy, như kinh dạy: "Này các tỳ kheo, có những pháp thiện, bất thiện, có những pháp có tội, không tội, có những pháp liệt, thắng, có những pháp dự phần đen trắng. Ở đây nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, thì đó là món ăn làm cho trạch pháp giác chi chưa sanh khởi, hay trạch pháp giác chi đã sanh được tu tập, tăng trưởng, làm cho viên mãn. "Cũng vậy, này các tỳ kheo, có phát cần giới (ārambhadhātu: mới khởi sự cố gắng), tinh cần giới, dũng mãnh giới, ở đây nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, là món ăn làm tinh tấn giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn". Cũng thế, "này các tỳ kheo, có những pháp phát sinh hỉ giác chi, ở đây nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, thì đầy là món ăn cho hỉ giác chưa sanh được sanh khởi, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn". (S. v. 104)

53. Ở đây, "như ý tác ý" các pháp thiện... Có nghĩa là sự tác ý đi sâu vào các tính chất riêng biệt (biệt tướng và (ba) đặc tính chung (tổng tướng). Như lý tác ý đối với phát cần giới... Có nghĩa là sự chú ý phát sinh khi khởi lên tinh cần... Sự tinh tấn mới khởi lên thì gọi là phát cần giới. Tinh cần giới mạnh hơn vì nó bỏ rơi biếng nhác. Dũng mãnh giới (parakkamao-dhātu) lại còn mạnh hơn tinh cần giới (nikkama-dhātu) vì tiếp tục kiên trì trong những giai đoạn kế tiếp. "Những pháp phát sinh hỉ giác chi" là tên gọi chỉ hỉ, sự chú ý để khởi nó lên gọi là "như ý tác ý".

54. Ngoài ra, còn có bảy pháp đưa đến sự phát sinh trạch pháp giác chi là:
  1. Đặt câu hỏi.
  2. Làm sạch nội ngoại xứ.
  3. Quân bình các căn.
  4. Tránh những kẻ thiếu trí tuệ.
  5. Thân cận người có trí.
  6. Ôn lại lĩnh vực tri kiến sâu xa.
  7. Quyết định đối với trạch pháp.
55. Có mười một pháp đưa đến phát khởi tinh tấn giác chi:
  1. Ôn lại sự khủng khiếp của các đoạ xứ.
  2. Thấy lợi ích trong sự đạt đến những điều thù thắng thuộc thế gian, xuất thế gian nhờ tinh tấn.
  3. Nhìn lại con đường mình đi: Con đường mà chư Phật, Ðộc giác, Thanh văn đã đi, ta cũng sẽ đi, con đường ấy không thuộc về một kẻ biếng nhác.
  4. Sự xứng đáng nhận đồ khất thực vì nó phát sinh quả báo lớn cho người bố thí.
  5. Nhớ đến sự hùng vĩ của đấng Ðạo sư: "Ðức Ðạo sư của ta tán dương người tinh tấn. Nền giáo lý siêu tuyệt này, một giáo lý đem lại nhiều lợi cho chúng ta chỉ tôn quý nhờ ở thực hành mà thôi".
  6. Nghĩ đến sự lớn lao của pháp tài: "Chính các gia tài lớn là Diệu pháp này phải do ta nắm giữ, không thể do một kẻ biếng nhác".
  7. Từ bỏ hôn trầm thuỵ miên bằng cách tác ý đến quán tưởng, đổi tư thế uy nghi, đi dạo giữa trời...'
  8. Tránh những kẻ biếng nhác.
  9. Gần những người siêng năng.
  10. Ôn lại bốn chánh cần.
  11. Quyết định đối với tinh tấn.
56. Có mười một pháp đưa đến sự sinh khởi hỉ giác chi:
  1. Niệm Phật.
  2. Niệm pháp.
  3. Niệm tăng.
  4. Niệm giới.
  5. Niệm thí.
  6. Niệm chư thiên.
  7. Niệm sự bình an.
  8. Tránh gần người thô lỗ.
  9. Gần người thanh tao.
  10. Đọc lại những kinh khích lệ.
  11. Quyết tâm đối với hỉ.
Như vậy, hành giả tu tập trạch pháp, tinh tấn, hỉ giác chi bằng cách khởi lên những pháp trên. Ðây là tu tập tâm vào lúc cần tu tập.

57. 5. Chế ngự tâm vào lúc cần chế ngự: khi tâm hành giả bị giao động, vì quá hăng say thì thay vì tu tập trạch pháp, tinh tấn, hỉ, vị ấy nên tu tập ba giác chi là khinh an, định, xã; như Thế Tôn dạy: "Này các tỳ kheo, ví như có người muốn dập tắt một đống lửa lớn, mà bỏ cỏ khô, v.v... lên, không rắc bụi lên, thì có thể dập tắt không? - Bạch Thế Tôn, không - Cũng thế, này các tỳ kheo, khi tâm giao động, thì không phải lúc để tu tập trạch pháp, tinh tấn, hỉ giác chi, vì một tâm giao động không thể nhờ các pháp này mà an tĩnh lại. Nhưng khi tâm giao động, thì đấy là lúc cần tu tập khinh an, định, xã giác chi. Vì một tâm giao động nhờ những pháp này mà được định tĩnh... Như một người muốn dập tắt một đống lửa lớn, mà bỏ cỏ ướt, rắc bụi lên đấy, thì có thể dập tắt". (S. v. 114)

58. Và sự tu tập khinh an, định, xã là thức ăn cho những giác chi ấy, như kinh nói: "Này các tỳ kheo, có thân khinh an, tâm khinh an, nếu như lý tác ý, làm sung mãn, thì đấy là món ăn cho khinh an giác chi chưa sanh được sanh, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn. Cũng thế, này các tỳ kheo, có tịnh chỉ tướng bất loạn tướng, nêu như lý tác ý, thì đấy là món ăn làm cho định giác chi chưa sanh được sanh, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn. Cũng vậy, các tỳ kheo có các pháp trú xứ cho xã giác chi, nếu như lý tác ý, làm cho sung mãn, thì chính là món ăn làm cho xã chi chưa sanh được sanh, đã sanh được tu tập, tăng trưởng, viên mãn. (S. v. 104)

59. "Như lý tác ý" trong ba trường hợp trên, có nghĩa là sự tác ý đề khởi lên sự khinh an, định, xã bằng cách quan sát cái cách chúng đã khởi lên nơi mình trước kia như thế nào. "Tịnh chỉ tướng" tức là định, "bất loạn" cũng đồng nghĩa.

60. Ngoài ra, còn có bảy pháp làm sinh khởi khinh an giác chi:
  1. Dùng thực phẩm bực thượng.
  2. Ở trong khí hậu tốt.
  3. Giữ tư thế thoải mái dễ chịu.
  4. Làm theo trung đạo.
  5. Tránh kẻ hung hăng, bạo động.
  6. Gần gũi người thân hành an tinh.
  7. Quyết tâm đối với sự khinh an.
61. Có mười một pháp đưa đến sanh khởi định:
  1. 1. Làm sạch nội ngoài xứ.
  2. Thiện xảo về tướng.
  3. Quân binh các căn.
  4. Chế ngự tâm khi cần chế ngự.
  5. Tu tập tâm lúc cần tu tập.
  6. Khích lệ tâm lười biếng bằng tín và ý thức khẩn trương (trước cái chết).
  7. Nhìn mọi sự xảy ra với thái độ xả.
  8. Tránh những kẻ không định tỉnh.
  9. Gần gũi người định tỉnh.
  10. Ôn tầm các thiền và giải thoát.
  11. Quyết tâm đối với định.
62. Năm pháp đưa đến sanh khởi xã giác chi:
  1. Giữ thái độ "xã" đối với các hữu tình.
  2. Giữ thái độ "xã" đối với các hành (loài vô tình).
  3. Tránh những người ưa bày tỏ sự yêu mến đối với các hữu tình và các hành.
  4. Gần gũi đối với những người có thái độ xã đối với hữu tình và các hành.
  5. Quyết tâm đối với xả.
Nhờ khởi lên những pháp nói trên, hành giả tu tập các giác chi khinh an, định và xã. Ðây là chế ngự tâm lúc cần chế ngự.

63. 6. Thế nào là "khích lệ tâm vào lúc cần khích lệ"? Khi tâm lười biếng vì tuệ chậm lụt hoặc vì không đạt đến hỉ lạc của sự bình an, hành giả nên kích động tâm ấy bằng cách ôn lại tám lý do để có ý thức khẩn trương là:
  1. Sanh.
  2. Già.
  3. Bịnh.
  4. Chết.
  5. Nỗi khổ ở các đoạ xứ.
  6. Khổ luân hồi sanh tử ở quá khứ.
  7. Khổ sanh tử luân hồi vị lai.
  8. Khổ hiện tại trong sự tìm kiếm thực phẩm.
Và hành giả phát sanh niềm tin bằng cách nhờ đến những đức tính đặc biệt của đức Phật, Pháp và Tăng.

64. 7. Thế nào là nhìn với thái độ xã khi cần nhìn với xã? Khi hành giả đang tu tập như vậy, mà tâm được tịnh chỉ bình thản trước đối tượng, không giãi đãi, không giao động, không lười biếng thì khi ấy, hành giả không cần bận tâm đến việc tập luyện, chế ngự hay khích lệ tâm, vị ấy giống như một người đánh xe khi những con ngựa đang tiến đếu. Ðó là "nhìn tâm với xã".

65. 8. Tránh những người không định tỉnh là tránh những người chưa từng bước chân trên đạo lộ xuất ly, những kẻ đa đoan thế sự, những người có tâm tán loạn.

9. Gần những người định tỉnh: là thỉnh thoảng, nên đến gần những người đã dấn bước trên đường xuất ly và đã đắc định.

10. Quyết tâm đối với định: là trạng thái quyết định đối với sự định tâm, xem định là quan trọng, hướng tâm về định, nưong tựa vào định, khuynh hướng định. Ðấy là mười thiện xảo về định an chỉ.

66. Người đã được sơ tướng
Cần đến mười thiện xảo
Ðể đạt định an chỉ
Và hoàn tất mục tiêu.
  • Nhưng nếu dù nỗ lực
    Vẫn không kết quả gì
    Bậc trí vẫn kiên trì
    Không bỏ dở công việc
    Vì kẻ nào bỏ dở
    Không tiếp tục dụng công
    Không được sự thù thắng.
Ở trong giáo pháp này
Bậc có trí quan sát
Tâm minh khuynh hướng nào
Tinh tấn và tịnh chỉ
Luôn luôn phải song hành.
  • Khi thấy tâm thụt lùi
    Thì hãy khéo khích lệ
    Khi dây cương quá chặt
    Hãy dẫn ngựa bước đều.
Ong khéo luyện được nhị
Nhờ nổ lực đúng mức
Lá, chỉ, tàu, bình dầu
Làm cho người được hưởng
Hãy vượt qua giãi đãi
Cũng như sự giao động
Hướng tâm trên quang tướng (sơ tướng)
Như các ẩn dụ trên.

GHI CHÚ:

(*) Trưởng lão đau nặng gần chết, cứ ân hận và không được trông thấy đức Thế Tôn. Phật vì lòng từ mẫn, đến thăm trưởng lão và dạy không cần thấy xác thân hủ bại làm gì. Nhưng ai thấy Pháp là thấy Phật và thấy Phật có nghĩa là thấy pháp. Rồi ngài dạy trưởng lão quán sắc vô thường và cái gì vô thường là khổ, cái gì khổ là phi ngã. Như vậy, là dùng tuệ để làm quân bình tín quá mạnh nơi trưởng lão.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.92 khách