Đức Phật

Mời các bạn thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì Phật giáo Nam truyền.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Đức Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐỨC PHẬT
Hòa Thượng Piyadassi Mahathera
(Trích trong Con Đường Xưa - The Buddha's Ancient Path do Minh Châu và Đặng Tấn Hậu dịch)


Vào năm 623 trước Tây Lịch, một vị Bồ tát đã giáng sinh tạimiền Bắc Ấn Độ, họ ngài là Cồ Đàm (Gotama), tên ngài là Sĩ Đạt Ta (Siddhattha), tức là "đạt được ý nguyện". Cha ngài là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyas) cai trị phần đất tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kspilavatthu) gần biên giới Népal. Mẹ ngài là hoàng hậu Ma Ha Mai Gia (Mahamaya).

Vào ngày rằm tháng tư âm lịch, trên đường về quê cha để sanh nở, hoàng hậu Mai Gia đã hạ sanh một thái tử tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dưới cành cây Vô ưu.

Vườn Lâm Tỳ Ni cách thành phố Benares 100 dặm về hướng Bắc, gần Hy Mã Lạp Sơn. Ba trăm mười sáu năm sau, vua A Dục (Asoka) đã cho xây một cột trụ để đánh dấu nơi thái tử Sĩ Đạt Ta ra đời. Ngày nay chúng ta còn thấy cột trụ này tại vườn Lâm Tỳ Ni với 93 cổ ngữ: "Hida Buddhe Jake Sakyamuni" (Nơi đây một vị Phật, bậc hiền triết của dòng họ Thích Ca Mâu Ni đã ra đời).

Thầy Huyền Trang đã tìm thấy cột trụ này vào giữa thế kỷ thứ 7 khi thầy đi Ấn Độ thỉnh kinh và nhà khảo cổ trứ danh Cunningham đã khám phá cột trụ này tại vườn Lâm Tỳ Ni vào năm 1896.

Đây là chứng cớ đức Phật là một nhân vật lịch sử đã sống và lưu lại thánh sản cho chúng sanh. Cuộc đời của ngài là nguồn cảm hứng vô tận và tấm gương lành để chúng sanh noi theo.

Bảy ngày sau khi hạ sanh thái tử, hoàng hậu Mai Gia qua đời. Bà di mẫu Go Ta Mi thay chị nuôi cháu. Kinh điển ghi lại thái tử lúc trẻ tuấn tú, khôi ngô có đủ 32 tướng tốt và 80 tướng phụ đẹp. Được vua cha chìu chuộng, mời đủ các thầy chỉ dạy, thái tử văn vỏ song toàn.

Lúc thiếu thời, thái tử thường trầm tư thiền định. Trong khi đó, vua cha ước muốn thái tử sẽ thành lập gia đình, sanh con thừa kế ngai vàng. Vì sợ thái tử xuất gia sống đời đạo sĩ, vua Tịnh Phạn đã cố gắng trói buộc ngài trong đời sống xa hoa lợi dưỡng không để ngài thấy sự khổ thế gian. Sống trong cung vàng điện ngọc, thái tử không biết cái gì là sầu muộn.

Theo tục lệ lúc bấy giờ, năm ngài 16 tuổi, thái tử thành hôn cùng công chúa Da Du Đà La (Yasodhara), là con gái duy nhất của vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamita thuộc dòng họ Koliyas.

Sống trong cung vàng điện ngọc, tuổi đời càng cao, thái tử càng trầm tư về ý nghĩa của cuộc sống con người. Nhân một buổi du ngoạn, ngài chứng kiến ba cảnh khổ: một người già, một người bệnh và một người chết. Những cảnh đau khổ này đã chấn động tâm tư ngài. Hình ảnh thứ tư ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với ngài là hình ảnh một người tu sĩ, hiền hòa, thông thái, sống đời không nhà đi tìm chân lý. Càng gần thế gian, càng thấy sự khổ đau, thái tử càng nhận thức thế gian không có hạnh phúc lâu bền. Ngài nhận thức đời sống con người hoàn toàn vô nghĩa nếu không tìm ra con đường đưa đến hạnh phúc vĩnh cửu.

Thái tử tự hỏi: "Rồi một ngày, tuổi thanh xuân sẽ chấm dứt với sự già nua cằn cỗi, cơ thể sẽ hư hoại, yếu kém. Cuối cùng, cái chết sẽ đến một cách bất ngờ, chấm dứt đời sống" Nhận thấy sự khổ đau của đời sống, ngài quyết định chiến thắng thần chết, tìm đường giải thoát khỏi cảnh sanh, già, bệnh, chết cho chính ngài và nhân loại.

Năm tròn 29 tuổi, vào lúc công chúa Da Du Đà La vừa hạ sanh thái tử Rahula(1), thái tử Sĩ Đạt Ta quyết định từ bỏ cung vàng điện ngọc, vua cha và vợ đẹp con thơ. Vì lòng từ bi đối với nhân loại, ngài phát tâm khước từ đời sống lợi dưỡng cá nhân, dấn thân sống đời đạo sĩ tĩnh lặng trong rừng sâu, đi tìm chân lỹ vĩnh cửu, vượt ra khỏi mọi sự trói buộc, tìm giải thoát cho chính mình và nhân loại.

Trước hết ngài đến tu học với hai vị thầy nổi tiếng đương thời là Alara và Uddaka Ramaputta. Sau một thời gian ngắn, ngài đắc tầng thiền cao nhất. Nhưng không thỏa mãn vì biết chưa đạt được sự giải thoát khổ đau, ngài từ bỏ nơi này để tiếp tục con đường vô định đi tìm chân lý.

Vào thời ấy, thực hành khổ hạnh được xem là phương pháp tìm cầu chân lý cao thượng nên ngài quyết định tu khổ hạnh tại rừng Uruvela (Khổ Hạnh Lâm) cùng với năm vị đạo sĩ - Kiều Trần Như (Kondanna), Bạt Đề (Bhaddiya), Thực Lực (Vappa), Ma Ha Na Ma (Mahanama), và Át Bệ (Assaji).

Ngài đã hành trì pháp tu khổ hành bằng cách ăn mỗi ngày một hạt mè, mặc y phục bằng giẻ rách, ngủ cạnh thây ma và nằm trên cây gai. Lối tu hành xác này khiến thân thể ngài suy nhược hoàn toàn. Sau sáu năm khổ hạnh, sự chết gần kề, ngài vẫn không đạt tới mục tiêu tối thượng.

Do kinh nghiệm tu chứng, ngài nhận biết lối tu khổ hạnh không dẫn đến giải thoát. Nhớ lại lúc thiếu thời, khi trầm tư dưới gốc cây, ngài đã hưởng được nhiều phỉ lạc của tâm định, ngài nhận thức thiền định là phương pháp dẫn đến giác ngộ. Ngài quyết định từ bỏ lối tu khổ hạnh, bảo vệ sức khỏe và tâm thần để tiếp tục công cuộc truy tìm chân lý.

Với ý chí mãnh liệt, không thầy chỉ dạy, không bạn đồng hành, Bồ tát đơn độc tìm con đường giác ngộ. Băng qua sông Ni Liên Thiền tại Gaya (ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng), dưới một cội Bồ đề mát mẻ thanh tịnh thích hợp cho thiền định, ngài lập lời thề: "Dù cho máu có cạn, da thịt có khô, ta sẽ không rời nơi nầy cho đến khi đắc quả Chánh đẳng chánh giác"(2).

Áp dụng thiền quán niệm hơi thở(3), ngài đạt vào sơ thiền, kế đó là nhị thiền.

  • - Ngài nhớ lại tiền kiếp vào canh một (từ 6 giờ chiều đến 10 giờ đêm).

    - Vào canh hai (từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng), ngài thấy được lý nhân quả. Tâm ngài hoàn toàn trong sạch. Ngài thấy đây là khổ, đây là nguồn gốc sự khổ, đây là sự chấm dứt khổ, và đây là con đường diệt khổ. Ngài nhận thức đây là ô nhiễm, đây là nguồn gốc ô nhiễm, đây là sự chấm dứt ô nhiễm, và đây là con đường diệt trừ ô nhiễm.

    - Đến canh ba (từ 2 giờ sáng đến 6 giờ sáng), ngài đã chấm dứt "ý muốn tái sanh" và cắt đứt dòng sanh tử luân hồi. Ngài tuyên bố: "Đây là đời sống cuối cùng, ta không còn tái sanh nữa".
Chính sự giác ngộ đã giúp ngài giải thoát khỏi ái dục (Kamasava), khỏi "ý muốn tái sanh" (Bhavasava) và vô minh (Avijjasava).

Bồ tát Cồ Đàm đã khám phá chân lý Tứ Diệu Đế và trở thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, bậc Tối Thượng Y Vương(4) trị tất cả các bệnh khổ thế gian. Lúc đó là đêm trăng tròn tháng tư âm lịch. Ngài vừa đúng 35 tuổi.

Sau khi chứng ngộ, đức Phật dùng huệ nhãn quan sát khắp thế gian, thấy chúng sanh vô minh chìm đắm trong biển khổ, nhưng cũng có người có trí tuệ có thể lãnh hội được chân lý. Vì lòng từ bi vô lượng, ngài quyết định truyền bá giáp pháp, chỉ vẻ cho nhân loại Con Đường Xưa(5), mà chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đã, đang, sẽ đi qua.

Được biết năm đạo hữu nhóm Kiều Trần Như đang tu khổ hạnh tại vườn Lộc Uyển ở Isapatana (Sarnath ngày nay), cách Bồ Đè Đạo Tràng 150 dặm, đức Phật đi đến nơi này để khai tâm cho họ

Tại vườn Lộc Uyển, vào đêm trăng rằm tháng bảy, đức Phật dạy cho năm vị đạo sĩ như sau: "Này chư vị, có hai thái cực mà chúng ta phải tránh. Cái gì gọi là hai? Đời sống lợi dưỡng và đời sống khổ hạnh, hai thái cực này không dẫn đến giải thoát. Như Lai đã chứng nghiệm con đường Trung đạo dẫn đến giác ngộ, an lạc, và Niết bàn. Cái gì gọi là Trung đạo? Đó là Bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định". Sau đó, đức Phật giảng về Tứ Diệu Đế. Đây là lần đầu tiên đức Phật chuyển bánh xe giáo pháp (Anuttaram dhammacakkam) và thànhlập Tăng đoàn với năm đạo hữu nhóm Kiều Trần Như là những đệ tử đầu tiên. Đến cuối hạ, lúc mùa mưa chấm dứt, đệ tử của ngài gồm có thể trưởng giả Yasa và 54 người bạn. Đức Phật dạy cho 60 vị Tỳ khưu đầu tiên như sau: "Chư vị đã giải thoát. hãy vì lợi ích cho trời người, mỗi người hãy đi một ngã truyền bá giáo pháp toàn hảo lúc ban đầu, toàn hảo lúc giữa, toàn hảo lúc cuối. Hãy công bố đời sống đạo hạnh".

Từ đó, với lòng từ bi và trí tuệ vô lượng, đức Phật cúng chư vị đệ tử đi hoằng pháp khắp nơi trên xứ Ấn. Khi truyền bá chánh pháp, ngài không bao giờ phân biệt giai cấp, chủng tộc. Nam cũng như nữ,giàu cũng như nghèo, người hạ tiện cũng như bậc thượng lưu, người trí thức cũng như kẻ ít học, bậc Ba la môn cũng như người nô lệ, bậc vua chúa cũng như kẻ ăn xin, bậc hiền triết cũng như kẻ tù tội - tất cả đến nghe pháp, xin quy y nơi ngài và tu tập theo con đường hòa bình và giác ngộ, con đường này mở rộng cửa cho tất cả chúng sanh.

Số tăng sĩ càng ngày càng đông, các ngôi chùa, tu viện mọc lên khắp nơi, và trong những thế kỷ về sau các trường đại học Phật giáo được thành lập như Nalanda, Vikramasila và Odantapuri là những nơi phát huy văn hóa toàn cõi Châu Á.

Sau 45 năm hoằng pháp, đức Phật nhập diệt ở Câu Thi Na (Kusimara) tại rừng cây Sala vào lúc ngài 80 tuổi. Lời nhắn nhủ cuối cùng của ngài cho các hàng đệ tử là:

  • Vayadhamma samkhara appamedena sampadetha.
    Cái gì do duyên hợp sẽ tan rả.
    Hãy tinh tấn tu tập giải thoát.


GHI CHÚ:

(1) Rahula nghĩa là "sợi dây trói buộc".
(2) Samma-sambodhi.
(3) Anapanasati,
(4) Bhisakko.
(5) Purana maggam.

-----------------------------------

Hoan hỷ thay chư Phật giáng sanh!
Hoan hỷ thay Giáo pháp cao minh!
Hoan hỷ thay Tăng già hòa hợp!
Hoan hỷ thay Tứ chúng đồng tu!
(Kinh Pháp Cú).

Bát chánh đạo mối đường đã trổ,
Tứ Diệu Đề là chỗ nghỉ ngơi.
Đèn lòng soi sáng khắp nơi
Thinh thinh Trí tuệ một trời quang minh.


Cảm niệm ngày Phật thành đạo.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.114 khách