Cành Triêu Nhan

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh

CÓ MỘT VẦNG TRĂNG
  • Pháp thoại tại chùa Phật Tổ
    Ngày 29-03-2008
Cuộc đời của đức Thế Tôn có thể ví như một đóa hoa - đóa Giác ngộ đã nở cách nay 26 thế kỷ, nhưng hương từ bi và trí tuệ vẫn luôn tỏa ngát, ngày càng lan xa, trải rộng đến ba nghìn thế giới như một câu mô tả xác đáng trong Thiền Lâm Cú Tập "Nhất điểm hoa mai nhụy, tam thiên thế giới hương"[/i].

Chúng ta thường nhìn thấy mặt đại dương tuy mênh mông nhưng sóng cuộc ba đào, nên chưa bao giờ phản chiếu trọn vẹn được ánh sáng của trăng sao. Thế nhưng có một vỏ sò nhỏ bé, nằm cô đơn yên lặng bên hốc đá với một ít nước bên trong mà vẫn có thể chứa cả không gian thênh thang lồng lồng. Trăng sao, mặt trời, tia nắng... vẫn có mặt trong vỏ sò bé nhỏ ấy. Nằm ẩn mình khiêm nhường trong chỗ khuất, mảnh vỏ sò lạc loài không ai để ý, nhưng hàng ngày với chút nước của trùng dương, nó có thể phản chiếu cả bao la vũ trụ. Hình ảnh đó diễn đạt ý nghĩa "Hoa mai một chút nhụy. Ba ngàn thế giới thơm".

Câu trích dẫn ở trên trong Thiền Lâm Cú Tập khi vừa đọc lên ta nghe đầy chất thơ, nhưng đó không phải là thi ca trừu tượng mà là một điều rất thực trong đời sống chúng ta. Đời người tu mà chúng ta không thực tập tự làm cho mình tỏa hương lành được thì thật là đáng tiếc.

Chúng ta đến và đi trong nhân gian này, sự có mặt của mình ít nhiều cũng lưu lại một chút gì nơi người khác. Đời sống chúng ta lành, đẹp hay không thì vẫn lưu lại gần nhất là nơi con cháu mình, nơi người thân của mình, và nó cũng lưu lại trong bằng hữu của mình nữa. Nếu ta có hương thơm thì hương đó sẽ tỏa ra rất rộng. Cũng thế, chúng ta dâng tặng cho người niềm vui bằng sự quan tâm chăm sóc thì quả lành sẽ đến.

Tôi có bài thơ làm từ lâu, nó lên những cảm nghiệm của tôi về thân phận con người trong cõi nhân gian. Đây là những câu thơ như một lời tri ân gửi đến hai pháp hữu đã mất, đó là hai Sư Bà ở chùa Quán Thế Âm (Đà Lạt). Bài thơ đã may mắn được khắc lên bia mộ mà tôi chỉ nhớ bốn câu sau:
  • Một cánh nhạn vút ngang trời lặng lẽ
    Bong bóng nổi chìm biển cả mênh mông
    Từ chân thân hiện ra cõi bụi hồng
    Đến như mộng rồi đi như giấc mộng.
Sự có mặt của chúng ta trong cuộc đời này như cánh nhạn lướt qua bầu trời rồi mất hút, hoàn toàn không để lại một dấu vết. Đại dương luôn dậy sóng xô dạt vào ra, bọt bóng từng đợt nổi chìm nhưng rồi nó cũng trả nước về cho biển khơi mênh mông tĩnh lặng. Chúng ta đến đi trong đời cũng như bọt bóng nổi chìm, tan vỡ nhanh như trong mộng. Đời sống là giấc một. Một giấc mộng mơ; sống trong mơ, ra đi như mộng và chúng ta là sở hữu giấc mộng của chính mình.

Một trăm năm cho một đời người không đủ dài để ta rong chơi, lao xao tìm kiếm, mải mê trong giấc mộng. Đến một ngày, khi quay nhìn lại mình thì "đời đã xanh rêu". Ấy thế mà ngay khi còn sống, chúng nó làm tình làm tội chính mình và làm tình làm tội cả những người chúng quanh. Ta gây đau khổ cho mình, đọa đày những người chung quanh băng những lời trách móc, chì chiết, giận hờn. Đời sống chúng ta không phải thở bằng những tiêu cực ấy mà nó thở bằng tình thương giữa chúng ta với nhau và với vạn vật muôn loài. Vũ trụ, thiên nhiên, cỏ cây, đất đá, trăng sao... là điều kiện cho ta sống, cho ta thở.

Có một vị thiền sư sống trong một cái am rất bé nhỏ rất nghèo nàn. Vật dụng không có một món gì giá trị. Buổi tối nọ có tên trộm vào tìm kiếm, nhưng chẳng thấy gì để nó có thể lấy đi được. Nó tức giận hỏi: "Sao ông nghèo đến thế?" Vị thiền sư cười bảo: "Nếu anh hỏi in ta, ta sẽ có cái để cho, tuy nhiên khi vào đây anh đã không hỏi một lời. Anh lục lọi nên anh không biết cả có của cải". Tên trộm hỏi: "Của cải để đâu?" Vị thiền sư đáp: "Của cải ra cất trong đây". Nói xong, ông đưa tay chỉ vào ngực mình. Tên trộm to tiếng: "Thứ của đó tôi không xài. Tôi chỉ dùng của cải vật chất có thể đổi được cơm gạo... chứ cái đó thì quên đi". Vị thiền sư cười bảo: "Ta có của quí thì người không lấy, vậy ta tặng cho ngươi những của rất tầm thường đây". Nói xong ông cởi hết quần áo tặng cho tên trộm. Tên trộm ôm mớ quần áo của thiền sư ra đi. Vị thiền sư cười, bước theo và nhìn qua cửa sổ. Lúc ấy mùa đông, ngoài trời rất lạnh nhưng qua song cửa, một màu trăng sáng rỡ trên cao, thiền sư buột miệng: "Tiếc thay, ta còn có một vầng trăng mà không thể cho ngươi được". Và một bài thơ hài cú đã được ra đời ngay lúc ấy:
  • Tên trộm đi rồi
    Để quên bên cửa sổ
    Một vầng trăng soi.
    (Thiền sư Royakyo - Nhật Chiêu dịch).
Những câu thơ thật đẹp và lãng mạn nói lên tâm hồn của một người đã thoát ra ngoài biên giới của đời sống vật chất, cơm áo bình thường. Vì thiền sư trong cảnh trống không của túp lều chỉ đang thở, đang sống cùng màu trăng chiếu qua bên cửa sổ. Và chắc hẳn có người nghĩ rằng đời sống của vị thiền sư này được nuôi dưỡng bằng mây nước trăng sao, bằng thơ văn và hồn thì lơ lững trên chín tầng mây, không thực tế. Nhưng đôi khi trong đời sống chúng ta nếu không có chút thơ thì chúng ta cũng mất đi ít nhiều khả năng hân thưởng cuộc đời. Con người không chỉ sống bằng bánh mì, gạo cơm, nước uống. Chúng ta có được đời sống hôm nay, ngay từ những ngày đầu tiên là chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng những cảm thọ êm dịu, ngọt ngào từ tình thương của mẹ. Những chăm chút, yêu chiều đã theo ta suốt đời, và sẽ còn theo ta cho đến ngày trút hơi thở cuối. Đến độ trưởng thành, trong những môi trường mà ta tiếp xúc, những câu nói, những lời nhận xét hằn học, trách móc, đắng cay hay những lời ân cần, vỗ về... đôi lúc có thể tàn phá đời ta hoặc cho ta vị ngọt đến cuối đời. Thế nên, sự tồn tại của chúng ta không hẳn chỉ đơn thuần cơm ăn, nước uống.

Chất thơ trong con người chúng ta là sự rung động, sự cảm nghiệm về cái đẹp, cái lành và sự chân thật. Trái tim của ta ngoài điều diệu kỳ là bơm máu vào ra để nuôi dưỡng hình hài vật lý, nó còn đáng yêu hơn là biết rung cảm hòa điệu, ngời ca vẻ đẹp của thiên nhiên, của tình yêu và của vũ trụ đất trời. Nếu trong tim ta thiếu vắng chất liệu thi ca thì ta chỉ là một bãi cát hoang dại, khô cằn, là vùng sa mạc chết. Tự bản chất đời sống con người đã là khúc hát, đã là bài thơ.

Tình cảm là một loại thi ca, và khả năng suy nghĩ cũng là một loại thi ca. Thế nên, vị thiền sư tặng hết những gì mình có, ngay cả đến mảnh vải che thân; chơ vơ đứng chịu lạnh nhìn trăng qua cửa sổ, rồi ngân nga: "Tên trộm đi rồi, Để quên bên cửa sổ, Một vầng trăng soi".

Nơi đây ngoài cảnh trời đêm thơ mộng, vị thiền sư đang ngắm trăng và ông muốn gởi tặng cho ta một vầng trăng, chứ không phải cái gì khác. Những câu thơ đã nói lên ý nghĩa này và tiếc cho tên trộm đã bỏ đi mà không kịp nhận món quà ý vị đó. Nhưng điều sâu xa hơn ở đây là làm thế nào ta chiêm ngưỡng được "vầng trăng của chính mình". Vầng trăng bên ngoài thì khi ẩn, khi hiện tùy theo ngày tháng vận hành, thủy triều lên xuống, nhưng với "mảnh trăng lòng" nếu ta biết giữ cho sáng mãi thì dù đi đến nơi đâu, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng có thể chiêm ngưỡng được. Vị thiền sư muốn tặng chúng ta mỗi người một vầng trăng vô tướng trong chính mình, chứ không phải vầng trăng tỏa sáng trên bầu trời khuya đêm ấy.

Liên hệ đến vầng trăng, trong thi kệ người xưa hay dùng những chữ "Mãn nguyệt từ dung" để xưng tụng tán thán dung nhan xinh tốt, đẹp lành và sáng rỡ của đức Thế Tôn. Trong văn học A Hàm, có ghi một chuyện nói lên sự trong lòng, tươi mát từ bậc Giác ngộ lan tỏa đến hết thảy mọi loài chúng sanh như sau:

Một lần nọ, một con chim cắt nhỏ bị người ta rượt bắt, nó bay tìm nơi ẩn trốn. Và nó đã bay vào tay áo của tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng không hiểu sao nó thấy bất an lại bay ra và tìm vào y của đức Thế Tôn thì nó nằm yên trong ấy, cảm thấy rất an bình. Đức Phật thấy vậy liền hỏi Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất, con chim kia trốn được trong y của ông, tại sao nó lại bay ra, không ở lâu trong đó?" Xá Lợi Phất thưa: "Bạch Thế Tôn, tuy con đã chứng quả A La Hán, nhưng thiện nghiệp của con chưa tròn, tập khí bất thiện vẫn còn ít nhiều nên loài chim chiêu cảm được, nó không dám ở trong con. Trong khi năng lượng của Thế Tôn rất trong lành, tươi mát và tỏa rộng nên nó đến trú vào áo Thế Tôn thì cảm thấy an toàn".

Vầng trăng bên ngoài tuy trong sáng, tươi mát nhưng không mát, không sáng bằng vầng trăng của ta ở bên trong. Vị thiền sư muốn nhắn gởi đến chúng ta thông điệp rằng hãy quay về để nhận biết ngay trong ta có một vầng trăng, và khi nhận ra được "ánh trăng lòng" thì đời sống của ta trở nên tươi mát, tự nhiên tỏa sáng! Hoa mai một chút nhụy, thơm lừng đến ba nghìn thế giới.

Có những mức độ để chúng ta có thể giữ cho "vầng trăng" sáng mãi trong lòng mình. Khi tu tập khá một chút, chúng ta có thể tiếp xúc với vầng trăng thiên nhiên bên ngoài, tiếp xúc với cảnh vật, với con người và nếu khéo thì trong tâm sẽ có niềm vui ngay lúc bấy giờ. Nếu tu tập giỏi hơn thì mọi đối tượng, mọi màu sắc, âm thanh đến với mình đều là nguồn an vui và hạnh phúc. Giỏi hơn nữa là chúng ta có thể tiếp xúc trực tiếp với khả năng chế tác niềm vui trong tự thân. Tự ta có thể làm cho lòng mình có niềm vui khi quay về tiếp xúc trực tiếp với khả năng tạo ra niềm vui ấy; cũng như khi nhìn thiên nhiên, đất trời ta thưởng lãm vẻ đẹp của vạn vật xung quanh, và ngay lúc ấy, ta có thể tiếp xúc với tạo hóa, hòa mình cùng với thiên nhiên bao la. Khi bước vào bên trong, chúng ta cảm nhận một điều quan trọng đó là ta đang sở hữu một năng lực nhiệm mầu có thể chế tác được niềm vui và hạnh phúc. Vào sâu hơn nữa, chúng ta an trú ngay nơi đầu nguồn tâm thức, Đó là điều vị thiền sư muốn nhắn nhủ chúng ta. Hãy tiếp xúc với vầng trăng nơi chính mình.

Tất cả mọi thành công đều phải trải qua những bước ban đầu chập chững. Trường giang cuồn cuộn cũng bắt đầu từ những giọt nước đầu nguồn. Một đám cháy lớn thường bắt đầu từ một đốm lửa nhỏ. Và tâm giác ngộ cũng bắt đầu từ công phu hành trị từng bước một. Hương thơm tỏa rộng ba nghìn thế giới cũng chỉ phát xuất từ chút nhụy của một cánh hoa mong manh.

Chung quy, tất cả những gì có được, thành tựu được đều từ việc chúng ta biết làm thế nào tiếp xúc với Phật tính nơi chính ta. Và khi tiếp xúc được với tự tánh, cũng có nghĩa là tiếp xúc với vầng trăng của thiền sư, tiếp xúc được với vũng nước trong lặng nơi vỏ sò, có thể phản chiếu cả vũ trụ, không gian lòng lồng nơi chính ta, và làm cho ta tỏa hương khắp ba nghìn thế giới.

Chúng ta hãy khéo quay về an trú nơi tâm Phật của chính mình. Đừng bỏ quên vầng trăng đang ngày đêm sáng rỡ trong tim.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 02/12/13 16:42 với 2 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NHỊP CẦU TRÊN SÔNG NGÂN
  • Pháp thoại tại tu viện Lộc Uyển
    Ngày 10-08-2008
Theo truyền thống Phật giáo, Vu Lan là một ngày hội lớn. Ngày Vu Lan còn gọi là ngày xá tội vong nhân, cũng là ngày lễ Mẹ với phong tục cài hoa hồng hay hoa trắng, mà nay đã trở thành gần như một truyền thống văn hóa rất đẹp. Ngày này những người Phật tử thường tổ chức lễ Tạ Ơn hay tri ân mẹ, dù mẹ đang còn sống với mình hay đã qua đời. Ngoài ra, ngày rằm tháng bảy còn là một ngày khá ý vị theo truyền thuyết Đông phương kể lại, đó là ngày gặp nhau của Ngưu Lang - Chức Nữ.

Theo truyền thuyết, Chức Nữ là con gái Ngọc Hoàng Thượng đế, yêu một người chăn trâu tên Ngưu Lang. Tuy bắt tội con mình thương không đúng người (không môn đăng hộ đối), nhưng vì con nên Ngọc Hoàng bằng lòng cho đôi trẻ lấy nhau. Khi được về sống bên nhau thì Chức Nữ bỏ bê công việc canh cửi, dệt lụa, Chàng Ngưu thì lười biếng không còn thiết tha chăn dắt đàn trâu của thiên đình. Vì hai vợ chồng phạm thiên điều nên càng thêm lý do để tức giận, Ngọc Hoàng buộc cả hai người phải xa nhau, người đầu sống Ngân, kẻ cuối sông Ngân; dòng sông như một dãi lụa trắng mờ vắt ngang qua bầu trời, chúng ta có thể nhìn thấy mỗi đêm, không phải chỉ vào đêm Thất tịch (ngày 7 tháng 7). Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần vào ngày 15 tháng 7 âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gọi là mưa Ngâu.

Chúng ta có thể hình dung nỗi đau khổ biết ngần nào, khi hai người đang yêu nhau mà phải xa cách, một năm chỉ được gặp mặt một lần vào giữa đêm thất tịch trên cầu Ô Thước bắt ngang qua dòng sông Ngân. Và từ câu chuyện này đã cho ra đời những câu ca dao được truyền tụng trong dân gian:
  • Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu
    Con trời lấy đứa chăn trâu cũng phiền.
Mưa Ngâu là mưa gì? Mưa có nhiều loại và tên gọi khác nhau, như khi nói đến mưa rào người ta nghĩ ngay đến mưa ở Sài Gòn; cơn mưa ào đến rất nhanh rồi đi rất vội, năng lại lên như chưa từng có mưa. Mưa phùn thường có ở miền Bắc, miền Trung, như ở Huế thỉnh thoảng có mưa phùn vào dịp Tết. Gọi là mưa phùn vì hạt mưa chỉ là những chấm nước li ti như bụi phấn bay nghiêng nghiêng chưa đủ thấm ướt áo. Đặc biệt ở Huế có lúc mưa rả rích kéo dài cả tháng gọi là mưa dầm. Và mưa Ngâu, trong văn học giải thích Ngâu là biến âm của Ngư, thế nên có thể hiểu mưa Ngâu ở đây được xem như những giọt nước mắt của Chức Nữ, Ngưu Lang khóc cho thân phận ngang trái của mình trong đêm tương ngộ. Chuyện kể có thể là huyền thoại trong văn học Đông phương nhưng hầu như người Việt nào cũng biết.

Nói đến nỗi tuyệt vọng, chia xa mà lòng vẫn hàng mong nhớ nhau như câu chuyện của Ngưu Lang - Chức Nữ, cổ thi Trung Hoa đã có những câu rất hay như:
  • Quân tại Tương Giang đầu
    Thiếp tại Tương Giang vĩ
    Tương tư bất tương kiến
    Đồng ẩm Tương Giang thủy.
Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương. Nhớ nhau nhưng không được gặp mặt. Chỉ cùng uống nước trong một dòng sông Tương mà thôi.

Cái hay của câu chuyện ở đây không phải chỉ là truyền thuyết, huyền thoại được chuyển tải qua văn học để có thể len lỏi vào xúc cảm con người thông qua mối tình giữa Ngưu Lang và Chức Nữ, mà có còn được hướng đến một thực tế có mặt bàng bạc trong cuộc sống, trong tâm thức của chúng ta ở hiện tại. Thế giới ngày nay với cuộc sống hiện đại, vấn đề truyền thông, sự nối kết, liên lạc với nhau trở nên rất dễ dàng, không còn mất nhiều thời gian, ấy thế mà giữa chúng ta, giữa những người thương với nhau, việc gần gũi cảm thông vẫn còn khó khăn hơn là ở đầu sông Ngân và cuối sông Ngân.

Ngày xưa Ngưu Lang - Chức Nữ phải chờ đến cả năm để được hưởng ân huệ tương phùng nhờ đàn quạ bắc một nhịp cầu thương yêu. Chúng ta với biết bao điều kiện vô cùng tiện ích như hiện nay, việc thiết lập truyền thông chỉ cần đưa tay bấm vào vài nút nhỏ là đã nghe được giọng nói và nhìn thấy được người thân. Ấy vậy mà chúng ta vẫn không làm được, lòng yêu thương vẫn còn là cái gì xa vời vời. Khi tình cờ đọc lại câu chuyện xưa, chúng ta nhìn lại lòng mình, nếu nhận thấy hận thù vẫn còn trong tâm thức, chất nghi kỵ vẫn còn vây kín, ngăn chận không cho chúng ta thoát ra thì biết rằng trong ta đang có tình cảm của Ngưu Lang và Chức Nữ. Dòng sông Ngân vẫn còn là biểu tượng cho sự ngăn cách truyền thông giữa mình và người. Nó ngăn trở sự đối thoại, ngăn trở ta tìm đến cảm thông với nhau. Và nó còn làm cho ta rơi lệ.

Và mưa Ngâu có phải chỉ là những giọt nước mắt của Ngưu Lang - Chức Nữ? Chuyện xưa có thể là huyền thoại nhưng khi nghe chúng ta cũng thấy lòng mình dâng lên chút u hoài, thương cảm. Nhìn lại cũng thấy thật tội nghiệp cho đời sống chính mình, có khi không thua gì Ngưu Lang, Chức Nữ. Chúng ta nhìn lại xem mình đã từng có những "hạt mưa" như thế không? Ta có phải là sông Ngân hay không? Mình có thiết lập được sự cảm thông nối liền hai tâm hồn với nhau một cách dễ dàng hay chúng ta mỗi năm vẫn phải chờ đàn quạ đến bắc một nhịp cầu?

Chúng ta vẫn thường chia sẻ rằng yêu thương là nhu yếu của đời sống con người. Mình thương người hay muốn được người thương, tất cả đều cần có sự truyền thông. Loài người từ khi đạt đến trình độ văn minh, biết sử dụng âm thanh, tiếng nói để biểu đạt ngôn ngữ, tình cảm. Và ngôn ngữ đầu tiên là tiếng nói của yêu thương, tiếng bập bẹ của trẻ thơ khi còn nằm trong nôi, tiếng ru ngọt ngào tình thương qua từng nhịp võng... Tiếng gọi mẹ, gọi cha lúc đầu đời đã bao hàm ý nghĩa thình thương dịu ngọt ấy. Ấy thế mà năm tháng đã đi qua, nhiều khi ngôn ngữ ấy vuột khỏi tầm tay ta, trôi đi đâu mất. Khi yêu thương và được yêu thương là cần thiết trong đời sống con người thì ai cũng có thể tự hào cho rằng mình là người có tình thương hay mình được người thương, nhưng đôi lúc ta hãy tự hỏi mình xem đã thực sự biết thương yêu hay chưa? Đây mới là vấn đề thật sự quan trọng.

Nhìn vào đời sống người tu hành, ta có thể nghĩ rằng họ không có kinh nghiệm gì về lĩnh vực tình cảm. Một khi không có gia đình, không có con cái thì làm sao biết được thế nào là tình yêu nam nữ, làm sao biết được các bậc cha mẹ đã nhọc nhằn, hy sinh, nuôi dưỡng, thương yêu con cái như thế nào? Thế nhưng với tuệ giác của đạo Phật, chúng ta có thể nhìn sâu vào vấn đề muôn thuở vừa nêu trên để tìm ra những gợi ý căn bản nhằm ứng dụng thực tế trong đời sống của mình.

Nhân ngày lễ Mẹ, chúng ta hãy cùng nhau đọc mấy câu kệ trong Kinh Lăng Già dưới đây:
  • Thế gian ly sinh diệt
    Do như hư không hoa
    Trí bất đắc hữu vô
    Nhi hưng đại bi tâm.
Bài kệ trên sẽ đưa chúng ta đi vào vấn đề cần chia sẻ, đó là: Chúng ta thương yêu nhau như thế nào? Làm thế nào để đời sống chúng ta có hạnh phúc? Làm sao cho nhân gian bớt đau khổ vì chiến tranh, họa hoạn và làm cho đời sống của những con người sống chung với nhau trên quả đất này trở nên dễ thương hơn, hài hòa hơn mà không cần đến phương tiện như đàn quạ bắc nhịp cầu (Ô thước) hiểu và thương mới có thể đến được với nhau. Thương yêu là một tình cảm rất tự nhiên, đôi khi mang đặc tình thiêng liêng nên khi tình thương có mặt chúng ta không cần đến một phương tiện gì để liên lạc, để tỏ bày. Tự nó đã có ngôn ngữ riêng của nó - ngôn ngữ của trái tim và đối tượng của nó có thể cảm nhận trực tiếp một cách dễ dàng.

Bồ tát Đại Huệ đã cung kính xướng lời tán thán trước đức Như Lai bốn câu kệ vừa trích dẫn, xin tạm dịch:
  • Thế gian lìa sinh diệt
    Ví như hoa hư không
    Trí chẳng thấy có không
    Mà khởi tâm đại bi.
Nếu khi ta đọc những lời này mà trái tim rung lên niềm cảm xúc thật sự thì có thể nhận ra pháp môn thực tập của các vị Bồ tát cũng là của chính ta: "Xả ly mọi chấp thủ đối với các pháp sinh diệt của thế gian, nhận chân tất cả như hoa đốm giữa hư không thì thành tựu trí tuệ không sở đắc. Lúc ấy mới có khả năng khởi tâm yêu thương rộng lớn".

Yêu thương là một cảm thọ bao gồm hai lãnh vực tinh thần và vật chất. Và đời sống tình cảm của con người cũng có phần cạn và phần sâu của nó. Tình yêu thương qua biểu hiện nam nữ tìm đến với nhau trong cuộc sống, nếu không khéo chăm sóc, nuôi dưỡng và thăng hoa thì chỉ là mức độ cạn của nhu yếu thỏa mãn về thể chất. Nếu bước sâu thêm một chút, ta tìm đến sự cảm thông và đồng điệu của hai tâm hồn, và sâu hơn nữa là đến với nhau bằng những cung bậc hòa điệu của đời sống tâm linh. Đời sống tình cảm con người càng đi sâu vào chiều hướng tâm linh bao nhiêu thì càng vi tế, càng bền bỉ bấy nhiêu. Hình hài chúng ta theo thời gian vô thường đều biến hoại, nhưng tình cảm là một loại cảm thọ gắn chặt với tàng thức tuy cũng đến đi, thay đổi, nhưng không bao giờ mất. Tình cảm khi đi vào vi tế thì không còn cái bóng bên cạnh (trong hạnh phúc đã có mầm khổ đau, trong xum họp vốn đã có chia ly...), điều này luôn đúng dù ở mặt vật lý hay tâm lý, từ cạn nhất cho đến sâu nhất.

Chúng ta có khi nào tự hỏi tình thương mình dành cho người là thực sự đúng hay mình đã biết cách yêu thương chưa? Tình thương ta gửi đến người có phải là quà tặng? Hãy làm một thử nghiệm nhỏ, chúng ta sẽ có được câu trả lời. Chẳng hạn như khi tình thương được cho đi nhưng đối tượng có vẻ không muốn đón nhận, tỏ ra hững hờ, ta trở nên muộn phiền, thậm chí hờn giận tìm cách làm khổ người kia thì đó không phải là quà tặng, mà chúng ta chỉ mong muốn một cái gì đó như là sự trao qua đáp lại. Như vậy tình thương ấy có phải là tình thương trong trắng bất vụ lợi? Nếu chúng ta thực tập để tình thương của mình đích thực là quà tặng thì cái bóng bên cạnh tình thương như ganh ghét, giận hờn không thể có mặt. Nếu trong tâm thức luôn có những bóng mờ che khuất yêu thương - cái bóng của sự giận hờn, bất mãn... thì rõ ràng ta chưa biết yêu thương; ta chỉ là người đi xin mà chưa phải là người hiến tặng. Và đối tượng kia chỉ là chỗ cho ta dựa nương, là điều kiện cho ta lấp đầy khoảng trống tình cảm trong ta. Ta luôn kiếm tìm chỗ nương tựa như con cái, vợ chồng, thầy bạn... để bớt cô đơn, bớt sợ hãi nỗi trống vắng. Ta như loài dây leo quấn chặt vào bất cứ thân cây nào có thể được để cảm thấy an ổn, hạnh phúc. Tình yêu phát sinh từ nhu yếu đối tác này sẽ đưa đến nhiều nỗi bất hạnh - bởi chúng ta không xem tình yêu thương như quà tặng mà xem đó là một món hàng cần sòng phẳng trong sự trao đổi, cho nên lúc nào cũng đòi hỏi sự quan tâm, hồi báo từ người.

Hạnh phúc hay tình thương được ban phát qua sự mong cầu hay trao đổi có điều kiện không phải là hạnh phúc, tình thương có phẩm chất cao quý, bởi vì nó vốn được vay mượn; mà những gì được vay mượn thì thường không bền, đến lúc cần phải trả hay cũng bị đòi lại. Nếu không thực hiện được điều sòng phẳng này, sầu khổ chắc sẽ đến; thử hỏi lúc ấy hạnh phúc, tình thương làm sao có mặt? Ngược lại, khi ta nghĩ về người với một tâm hồn trong sáng, ta chỉ muốn làm một điều gì đó thật đẹp, thật lành gửi đến cho người thì trái tim và tấm lòng ta đã được tỏ bày mà không cần một điều kiện gì bên ngoài tác động. Đây là những điều chúng ta cần thực tập để có thể hiến tặng đến mọi người một tình thương có phẩm chất đích thực. Bước đầu tiên để làm cho tình thương có phẩm chất đích thực là ta phải tu tập sao cho chính ta không còn cảm thấy cô đơn, bất an. Không cảm thấy cần đến nhu yếu hướng ra bên ngoài để tìm cầu, chúng ta sẽ thấy đời sống mình thật sự thảnh thơi, vững chải. Thực hành được điều này ngay trong đời sống gia đình là ta có thể làm cho yêu thương tỏa rộng đến mọi người, làm cho gia đình tràn đầy năng lượng an ổn, hạnh phúc. Và nếu mọi người trên hành tinh này đều làm được như vậy thì chúng ta không cần đến bất kỳ văn bản, điều kiện khế ước gì để chấm dứt tranh giành, chấm dứt hận thù, chấm dứt chiến tranh. Loài người sẽ sống hài hòa trong thái bình và an lạc.

Như đã nói, tình yêu thương vốn có mặt trong trái tim mọi người từ thuở thiếu thời, thế nhưng đôi khi chúng ta quên đi tình cảm căn bản nhất của đời sống này nên đã làm cho nó biến dạng. Khi dùng tuệ giác từ những điều đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng ta để nhận diện vấn đề chúng ta bàn đến, không có nghĩa là ta cần làm cái gì mới hay làm một cái gì khác, mà chỉ là nhìn lại tình thương đang có trong ta mà thôi.

Nếu chúng ta từng thực tập thương yêu như là tặng phẩm cho nhân gian, thì chắc chắn cái bóng tiêu cực song hành với yêu thương như đòi hỏi, tị hiềm, giận hờn... sẽ không có khả năng tồn tại. Hạnh phúc chân thật chỉ đến khi ta cho đi mà không cần điều kiện, không mong đền đáp. Ta trải rộng tình thương như hoa đưa hương, không một chút mong đợi mà chỉ biết hiến dâng. "Trí bất đắc hữu vô, nhi hưng đại bi tâm". Đây chính là phương thức hữu hiệu để chúng ta xóa đi khoảng cách giữa mình và người. Hãy thực tập mở rộng cõi lòng để giữ mối liên hệ yêu thương với tất cả mọi người.

Thông thường chúng ta hay trốn chạy; trốn chạy sự thật; trốn chạy nỗi khó khăn của lòng mình, của chính nội tâm mình. Ngoài ra chúng ta còn trốn chạy trong công việc. Tìm bận rộn trong công việc, vùi mình mười hai giờ một ngày để tìm quên; dù nhu yếu đời sống không cần chúng ta phải đầu tư thì giờ nhiều như thế. Nhưng vì khó khăn của đời sống gia đình, nỗi buồn phiền của nội tâm không có người chia sẻ, ta giam mình vào công việc với hy vọng có thể làm ta quên đi những vấn đề mà ta phải trực diện.

Chúng ta luôn mời gọi những nghĩ suy có mặt trong tâm thức, đây cũng là một hình thức của sự trốn chạy. Ta chưa bao giờ bằng lòng với những lúc ngồi yên, những giây phút tâm tư lặng lẽ. Hết chuyện quá khứ tràn về, ta lại nghĩ đến ngày mai... Tình trạng này rất phổ biến trong đời sống chúng ta, ai cũng biết cách trốn chạy trong những suy tư rối bời của tâm thức. Ngay bản thân tôi, sống trong môi trường tu viện, được giảm đi nhiều lo âu, có nhiều thì giờ để tu tập: không lo ăn mặc, không lo chuyện bon chen bên ngoài nhân gian, không lo tiền bạc... Ấy vậy mà tôi vẫn không hài lòng với điều kiện đang có. Tôi vẫn kiếm ra trăm điều, ngàn chuyện để bận bịu, để lo âu. Chẳng hạn chuyện nhỏ như chuyện uống trà: chưa bao giờ trong một buổi uống trà khi ngồi với quý thầy Việt Nam mà tôi không nói một chuyện gì đó. (Nhìn lại bao nhiêu năm qua ở đây, tôi thấy mình chưa bao giờ yên lặng hoàn toàn, không thể không nói một tiếng nào khi ngồi với quý thầy). Đến nỗi khi ngồi với một thầy Tây phương, tuy tôi không biết nói tiếng Mỹ, thầy kia không biết tiếng Việt, thế mà tôi cũng kiếm ra chuyện để nói. Rất kỳ lạ.

Từ kinh nghiệm nhìn lại, khi tiếp xúc với nhau nếu không nói ra được bằng ngôn ngữ ta cảm thấy ngột ngạt, không thoải mái như vậy, thì việc giữ cho không có tiếng nói thì thầm bên trong, ta càng thấy bức xúc, khó chịu hơn nhiều. Thế nên trong ta dòng tiếng nói thì thầm là dòng chảy thường xuyên. Nói như thế để chứng minh một điều là chúng ta luôn có khuynh hướng làm đầy lòng mình bằng những than thở, vui buồn, sầu khổ, bất an, giận hờn, ganh tị... nếu không thì cũng bằng những dòng ý thức sinh diệt, tuy không biểu hiện cụ thể nhưng rõ ràng nó như dòng thác, như sóng cồn tuôn chảy trong tâm thức liên tục. Đó là điều chúng ta thường hành sử, và khi những điều đó có mặt, với cái nhìn của đức Phật thì ta vẫn chưa biết thương yêu.

Thương yêu muốn có phẩm chất thực sự chắc hẳn là phải ngược lại với quan niệm thông thường của chúng ta. Có nghĩa là chúng ta cần nhìn tất cả sống chết, mất còn, thành bại, hạnh phúc hay khổ đau của nhân gian như hoa đốm phất phới bay, hư ảo không có thực. Ai chứng nghiệm được điều này thì người ấy có thể làm cho tình thương thực sự có mặt trong lòng mình; tình thương lúc ấy mới có thể là quà tặng đầy ý nghĩa đối với người.

Khi trong ta có phẩm chất của tình thương đích thực, dù tiếp xúc với bất cứ dạng người nào, tâm cũng không bao giờ khởi lên những thành kiến, tư kiến. Khi ta nhìn một người bằng cái nhìn vô tư rạng rỡ, thấy rằng họ sao giống những người thân thuộc của mình ngày xưa, cũng đáng yêu, đáng kính và dễ thương, thì đó là lúc tình cảm trong ta đang từng bước đến gần đối tượng, ta đang ấy đi khoảng cách giữa mình và người để cho mối liên hệ yêu thương thực sự có mặt. Rõ ràng khi năng lượng yêu thương, bình an trong ta tỏa rộng thì có thể làm nên đời sống hạnh phúc cho chính ta và cho những người chung quanh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TRÂN QUÝ TỪNG HƠI THỞ
  • Pháp thoại tại chùa Phật Tổ
    Ngày 11-05-2008
Có một câu chuyện rất hay trong Tiểu Bộ Kinh đề cập về các pháp môn tu có thể giúp chúng ta thực tập để cuộc sống của mình được hạnh phúc và an lạc.

Có một vị sa môn cư trú gần bờ biển, thầy tu tập rất tinh chuyên nên được cả thôn làng cúng dường đầy đủ không thiếu một vật gì. Thầy nghĩ chắc mình đã chứng được Thánh quả (A la hán). May mắn cho thầy, có một vị Thiên nhân trong kiếp quá khứ từng là bà con với thầy, hiện xuống cho biết: "Thưa thầy, thầy chưa chứng quả gì hết". Vị sa môn kia nghe vậy giật mình, bèn hỏi: "Thưa Thiên nhân, ai trên cõi đời này đã từng chứng quả A la hán, hay đang trên đường chứng Thánh quả?" Thiên nhân trả lời: "Có một người, đó là đức Thế Tôn ở thành Xá Vệ, người đã thành đạt Thánh vị A la hán. Thầy nên đến đó tham học với ngài". Vậy là thầy ôm bát tới thành Xá Vệ.

Lúc ấy, đức Thế Tôn đang đi vào làng khất thực và sa môn Bāhiya kia rất nôn nóng nên theo bên cạnh đức Thế Tôn thưa: "Bạch đức Thế Tôn, xin ngài từ mẫn dạy cho con tu học". Đức Phật nói: Chưa phải thời, Bāhiya". Thế nhưng thầy Bāhiya vẫn đi theo bên chân đức Phật. Lần thứ hai thầy thưa: "Xin ngài từ bi dạy cho con phương pháp tu học". Đức Phật lại bảo: "Bāhiya, chưa phải thời". Lần thứ ba cũng thế, thầy năn nỉ: "Xin ngài từ bi dạy cho con phương pháp tu học, để con có thể chứng đạt Thánh quả A la hán". Lần này, sau khi thọ trai xong, đức Phật bảo: "Đúng thời rồi, Bāhiya, ta sẽ dạy cho ông". Và đức Phật thuyết một thời pháp rất ngắn:

"Này Bāhiya, thầy nên tu tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong các cảm thọ, sẽ chỉ là cảm thọ. Trong thức tri, sẽ chỉ là thức tri. An trú được như vậy thì đoạn dứt được sầu khổ, bất an hiện đời và chứng quả A la hán".

Đức Thế Tôn chỉ dạy một bài pháp ngắn như thế, nhưng thầy Bāhiya là một người rất ham tu, nên nghe lời Phật dạy xong liền đến dưới bóng mát của một cội cây bên đường thiền tọa. Sau đó thì tâm thầy bừng sáng vì đã thấu tỏ được lời dạy của đức Thế Tôn. Thầy ôm bát đi về, trên đường về chẳng may bị bò húc chết.

Đức Thế Tôn sau khi khất thực xong, trên đường trở về tịnh xá, thấy xác của thầy Bāhiya, ngài bảo các vị tỳ kheo: "Các ông hãy để xác thầy Bāhiya lên chõng tre, hỏa thiêu xong thì rải tro đi. Đây là bạn đồng hành, người đồng phạm hạnh của các ông vừa mới ra đi". Sau khi làm tang lễ cho Bāhiya xong, các thầy vân tập lại bên cạnh đức Thế Tôn, thưa: "Bạch Thế Tôn, vị tỳ kheo này vừa mới đến, học với Như Lai một vài câu rồi ra đi, vậy có thể nhập Niết bàn được không?: Đức Phật xác nhận: "Tỳ kheo Bāhiya đã dứt sạch hết lậu hoặc, chứng Thánh quả A la hán và đã vào Niết bàn".

Câu chuyện ngắn này cho chúng ta đôi điều về bài học của sự thực tập. Thầy Bāhiya chỉ trong một lần nghe bài pháp ngắn của đức Thế Tôn mà đã quán chiếu, tu tập thành công. Nội dung này rất quan trọng và rất cần cho chúng ta trong việc học hỏi và thực tập lời Phật dạy.

"Cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe, cảm thọ chỉ là cảm thọ, thức tri chỉ là thức tri. An trú nơi pháp quán ấy thì có thể đoạn dứt sầu khổ, thành tựu an lạc". Có thể an lạc của sự chứng nghiệm Niết bàn, chứng nghiệm giải thoát vẫn còn xa, nhưng điều chúng ta cần thực hiện trong đời sống bình thường là làm sao cho sầu khổ, buồn giận... rụng rơi. Thực tập được như vậy thì chúng ta có thể sống giữa cuộc đời, giữa lòng người vốn đầy khó khăn, phiền trược, bất toàn... mà vẫn có thể an nhiên, tự tại. Chúng ta hãy thực hành ngay trong cuộc sống thường nhật. Vào những ngày rảnh rổi, hãy dành một ít thì giờ để ngồi yên, toàn thân thư giãn và chú ý đến hơi thở của mình - chú tâm trên mỗi hơi thở vào, mỗi hơi thở ra. Phương pháp thực tập đơn giản, gần nhất là nhận biết hơi thở đi vào, đi ra bên trong cánh mũi. Chỉ đơn thuần nhận biết, quán sát hơi thở vào, hơi thở ra như vậy mà không để ý thức nhận xét gì về hơi thở.

Mọi thưởng thức về phương diện vật chất cho ta sự thoải mái, thích thú đều là những cảm giác phù phiếm ở bên ngoài. Ta hãy biết quay về thưởng thức cái sẵn có trong mình, như hơi thở chẳng hạn. Khi biết quay về thực tập quán sát hơi thở, lợi lạc đầu tiên là chúng ta có thể làm cho hơi thở mình càng ngày càng êm dịu, nhẹ nhàng, khiến cho hơi thở mình trở nên có phẩm chất, nhờ đó mà thân tâm được nuôi dưỡng, tật bệnh được đẩy lùi, và cuối cùng đạt đến công năng kỳ diệu nhất đó là thanh lọc, chuyển hóa được tâm mình. Khi tâm mình xao xuyến bất an, ta chỉ cần làm một việc đem tâm về an trú nơi hơi thở, nhận biết rõ ràng hơi thở đi vào - đi ra là ta có thể lấy lại được sự cân bằng, thư thái của thân và tâm. Nếu có người đưa đến cho ta chuyện phiền não, buồn giận, ta hoàn toàn có khả năng làm được hai điều cùng lúc: việc đầu tiên là ngồi yên lặng, giữ tâm thật bình tĩnh để nghe; thứ đến, ta hãy để tất cả những lời nói kia đi qua đi lại như gió đi ngang qua mành lưới. Đó là cách tu hạnh Bồ tát. Thử nghĩ, nếu có một người chịu khó nghe ta chia sẻ, cho ta trút hết nỗi khổ niềm đau thì ta đâu cần làm gì nhiều mà vẫn giúp cho tâm tư nhẹ lại, nỗi khổ dần vơi đi hoặc thậm chí tan biến. Đây là vấn đề thường xảy ra trong gia đình của chúng ta.

Thực tập hạnh Bồ tát để có thể ngồi yên lắng nghe được những gì người kia muốn nói với mình là ta cũng đang thực sự lắng nghe từng hơi thở, từng cảm thọ đang biểu hiện trong mình. Lúc bấy giờ trong ta "sự nhận biết tỉnh sáng" đang có mặt, chứ không đánh mất mình hay bị cuốn hút theo những buồn phiền, giận hờn... mà người kia đang biểu lộ với mình. Chúng ta nghe như thế nào để vừa có thể phòng hộ được thân tâm mình, vừa cảm thông sâu sắc được với nỗi khổ, niềm đau của người đối diện, đó là cả một sự thực tập công phu. Thế thì chúng ta đã có một phương pháp tuyệt vời đó là vừa giúp người kia giải tỏa được nỗi buồn giận và đồng thời làm cho năng lượng thực tập tích cực của mình được thăng tiến, hóa giải được những tâm hành tiêu cực trong đời sống: "Hãy nghe như chỉ là nghe, thấy như chỉ là thấy, cảm thọ vui buồn chỉ là cảm thọ vui buồn", mà đừng tưới thêm gì từ ý thức vào nữa cả. Đây là phương pháp tu tập rất mầu nhiệm và chỉ cần thực tập ngần ấy thôi cũng đủ làm cho chính ta, đời sống gia đình ta, người thân xung quanh ta trở nên an vui, hạnh phúc.

Có một bà cụ Phật tử tín thuận Tam Bảo rất sâu sắc. Khi qua Mỹ, vì lớn tuổi không làm gì được nên bà bỏ thời gian mấy mươi năm nương vào chùa để vừa được tu tập vừa làm công quả, cũng như làm những việc từ thiện xã hội. Nhưng bất ngờ bà bị tai biến mạch máu não. Con cái lo chăm sóc tận tình cho đến ngày bà đi đứng lại được, nhưng những ngày gần cuối đời, tánh tình bà thay đổi hoàn toàn. Bà trở nên rất hay nóng giận, vung vãi những lời thô ác, không một ai khuyên nhủ gì được. Bà không còn là con người của những ngày được ở trong chùa nữa. Trường hợp kể trên chứng tỏ cho chúng ta biết một điều rằng nghiệp thức của con người nếu không biết tu tập đúng cách thì không phải dễ chuyển hóa; nó có thể vẫn còn nằm yên đấy do vì chưa đủ điều kiện biểu hiện. Những hạt giống bất an, buồn giận, những lời nói thô ác đã gieo vào trong tâm thức mình, nếu ngay lúc này mình không biết nhận diện để chuyển hóa thì nó vẫn còn nằm nguyên ở đó; và rồi ta vẫn còn có thể bị chi phối bởi những tập khí xưa cũ, vẫn nói ra những lời thô tháo, vẫn đem đến buồn giận, bất an cho mình và cho người. Vì vậy, ngay bây giờ chúng ta hãy thực tập trị liệu bằng cách đem tâm về an trú ngay nơi hơi thở, ý thức sâu sắc mỗi hơi thở vào, hơi thở ra, làm cho tất cả những cảm thọ vui buồn, bực bội theo hơi thở mà dần tan biến, đến lúc chúng không còn chỗ trong tâm thức. Chúng ta cần thực hành ngay khi chúng ta còn khỏe mạnh.

Ai ở trong đời cũng đến rồi đi như giấc mộng. Nếu không khéo tu tập thì trong giấc một đời người chúng ta sẽ chuốc lấy bao khổ đau, phiền lụy và tiếp tục rót thêm vào thân tâm những giọt nước ô nhiễm, độc hại. Chúng ta hãy nghe như thầy Bāhiya ngày xưa, chỉ nghe một lời dạy ngắn của đức Phật: "Hãy để cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe, cảm thọ chỉ là cảm thọ, thức tri chỉ là thức tri", mà ứng dụng thành công trong sự thực tập. Pháp môn này ngày xưa các bậc thầy đã từng thực tập và chứng nghiệm được Thánh quả.

Chúng ta hãy thực tập để chứng nghiệm được sự an lạc ngay trong cái thấy, cái nghe, cái nhìn... bằng sự quay về an trú trong hơi thở của chính mình. Khi thực tập thưởng thức hơi thở của mình từng ngày một cách sâu sắc; ta thấy những gì có mặt trong ta, những gì cuộc sống đã ban cho ta, tất cả đều là quà tặng hạnh phúc. Do vậy, từng phút, từng giây ta hãy biết trân quý hơi thở của mình.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TRI ÂN VẠN LOẠI
  • Pháp thoại tại chùa Phật Tổ
    Ngày 12-08-2008
Người Việt Nam chúng ta theo tục lệ thường lấy ngày 23 tháng 12 âm lịch, một ngày gần cuối năm, để đi tảo mộ và ngày đó cũng là ngày đưa ông Táo về trời. Đây là một trong những nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Hầu hết mọi gia đình dù ở miền quê hay thành thị, đến ngày này không ai quên việc chăm sóc mồ mả tổ tiên ông bà, như làm cỏ, quét dọn thật sạch sẽ (gọi là chạp mả). Đồng thời, người ta cũng không quên mua nhang đèn, bánh mứt cúng đưa ông Táo về Trời, nhờ ông tâu trình mọi điều tốt, xấu trong năm cũ cho Ngọc Hoàng theo quan niệm, niềm tin nhân gian mà lâu dần đã trở thành truyền thống. Có khi các chùa cũng hưởng ứng truyền thống văn hóa đặc thù này, cũng làm tờ sớ dài tấu trình mọi việc trong năm của già lam, tự viện.

Ngày xưa, người dân Việt Nam quan niệm mỗi gia đình đều có một vị thần trong nhà bếp, chủ trì việc nấu nướng củi lửa, đó là thần Táo. Khi con người thời cổ sơ biết cách làm ra lửa cũng là lúc nền văn minh bắt đầu có mặt. Đồng thời có những dân tộc tin tưởng và tôn thờ lửa như thần linh. Nhờ lửa mà thức ăn được nấu chín, rồi trải qua quá trình nướng, luộc... làm chuyển hóa những độc tố trong thức ăn để cơ thể con người có thể tiếp thu dễ dàng, và nhờ đó mà thọ mạng con người được duy trì. Lửa mang hơi ấm, mang sức sống cho hành tinh, đồng thời mang niềm vui, sinh khí cho con người. Trong những hội hè, tế lễ của các truyền thống Đông - Tây người ta thường hay tổ chức những buổi ca hát, nhảy múa quanh ánh lửa hồng thâu đêm.

Nhưng thực tế nhất, gần chúng ta nhất vẫn là cái gian bếp trong mỗi gia đình. Đó là nơi chế tác hạnh phúc, nơi tạo ra niềm hưng phấn, sự rạng rỡ trên gương mặt mọi người khi quây quần trong buổi ăn tối đầm ấm cùng gia đình, với những thức ăn nóng, ngon lành được nấu chín từ ông Táo, nhờ ông Táo mang lại. Do vậy, người Việt đã từ rất lâu, cứ mỗi năm vào ngày 23 tháng Chạp đều cúng ông Táo hay bếp lò là điều rất tự nhiên đã trở thành thông lệ. Và tục lệ đó được giữ gìn cho đến ngày nay như một sự tri ân, biết ơn nguồn hơi ấm đã đem đến một phần hạnh phúc, một phần cho sự trường tồn của con người. Cho nên trong những nghi lễ dân gian đối với người Việt Nam, đây là một trong những dịp để thể hiện điều đẹp nhất: Lòng biết ơn hay tri ân.

Tri ân được xem như một đức tính làm nền cho phẩm chất đạo đức của con người trong mọi xã hội dù là văn minh hay chậm tiến, nghèo đói hay trù phú. Những ai mà trong trái tim không có niềm tri ân; tự cho mình không cần nhờ cậy ai, không mang ơn ai thì trong đời sống họ là những người tiêu biểu cho sự bội bạc, vô ơn và chắc chắn họ là người khó có thể hạnh phúc được.

Những ai thường sống với lòng tri ân chân thành bằng trái tim của mình thì đều cảm nhân hạnh phúc mà nó mang lại cho họ nhiều như thế nào. Niềm hạnh phúc gần nhất trong những ngày cuối năm này được thể hiện qua việc quần tụ người thân trong gia đình, họ tộc; mọi người cùng nhau đi tảo mộ, làm lễ cúng ông bà tổ tiên, cùng đưa ông Táo về trời... Đó là niềm vui trong tinh thần tri ân và tạ ân.

Bây giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu một truyền thống văn hóa rất đẹp trong sinh hoạt già lam. Đó là lể Thù Ân. Thù nghĩa là báo đáp; thù ân là báo đáp, đền đáp công ơn. Mỗi tháng hai lần vào ngày lễ tụng giới 14 và 30, trước khi tụng giới bản, quý thầy, quý cô đều có lạy thù ân. Những lạy này nói lên lòng biết ơn, mong muốn đền đáp công ân của muôn người, muôn loài mà mình bằng hình thức này hay hình thức khác đã thọ nhận. Theo đúng thì tất cả có 24 câu (tương ưng với 24 lạy), khi hành lễ được đọc lên nghe rất xúc động, nhưng ở đây chúng ta có thể tóm lược lại còn năm lạy. Xin chia sẻ năm lạy này để chúng ta có thể thực tập.
  • Lạy thứ nhất:
"Đệ tử chúng đẳng nguyện đại vị thiên địa phú tải chi ân, nhật nguyệt kiến lâm chi đức. Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trú Tam Bảo". - Đệ tử chúng con xin vì ơn lớn của đất trời che chở, đức rộng của mặt trời, mặt trăng chiếu soi. Nhất tâm đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.

Lạy xuống lạy đầu tiên, chúng ta đền tạ cái ơn được trời đất che chở, đã nâng đỡ từng bước chân mình. Chúng ta tri ân mặt trời, mặt trăng soi sáng hành tinh này, làm nên sự sống không phải chỉ cho riêng ta mà còn cho vạn loại chúng sanh.

Chúng ta hãy tưởng tượng nếu hành tinh này không có ánh mặt trời thì sẽ như thế nào? Không có ánh sáng, không tiếp xúc được với ánh nắng, với hơi ấm chắc chắn chúng ta sẽ không có năng lượng cho sự sống vận hành. Chỉ qua vài tháng mùa Đông mà ta đã nghe lòng ảm đạm, nỗi buồn chán kéo đến làm cho ta ủ ê, thiếu sinh lực. Và không có ánh nắng mặt trời chắc chắn sẽ không có sự sống trên quả đất này, Chúng ta đang ở đây, quanh năm có nắng ấm nên có thể không cảm nhận được những tia nắng ấm là tuyệt vời, là niềm hạnh phúc như thế nào đối với những nơi thiếu ánh nắng mặt trời, thiếu hơi ấm. Ví thử hành tinh này chỉ ngừng quay trong một đêm thôi, chúng ta phải dừng lại trong đêm đen 24 giờ thì nỗi thê lương, sợ hãi sẽ đến với ta như thế nào.

Ngoài mặt trời ta còn nhờ vào sông núi, cỏ cây, đất đá. Tất cả mọi loài từ con người, cầm thú, cỏ cây... phần lớn đều từ đất mà nẩy mầm, sinh sôi, phát triển và tồn tại. Ta sinh ra từ đất, từ những vòng tay rộng mở của mẹ che chở, nuôi dưỡng, nâng đỡ ta và cũng là nơi chốn cho ta lúc trở về. Đất chưa hề từ chối con người, chưa bao giờ than mệt mỏi vì con người. Đất chịu đựng, bao dung tiếp nhận con người với tình thương của người mẹ, nên chúng ta thường hay nghe nói đến hai chữ đất mẹ. Đức Phật cũng đã từng dạy chúng ta phải thực tập sống như đất, thực hành những hạnh của đất, đó là sống với lòng nhẫn nhục và bao dung. Ơn của đất lớn vô cùng! Chúng ta đang hưởng thụ mà quên đi cội nguồn ban cho ta chất liệu dinh dưỡng, ban cho ra sự sống. Đây là món quà vô cùng hào phóng, mà trời đất thiên nhiên ban tặng cho con người trên hành tinh này.

Nếu không có ánh sáng và năng lượng mặt trời sưởi ấm muôn loài, không có cây cỏ, thực vật vươn lên từ đất, chúng ta sẽ không có môi trường trong lành và lương thực để sống còn. Vì vậy, những bài học căn bản chúng ta cần phải học từ thiên nhiên là bài học vô ngã, tha thứ, nhẫn nhịn, vị tha và sự hiến tặng. Thực hiện được điều này là chúng ta đang tự làm mới mình, làm cho đời sống mình thêm giàu có; mỗi ngày nhìn thiên nhiên, trời đất chung quanh là một ngày mới cho ta thưởng lãm và tri ân. Lòng tri ân như vậy có thể tạo thành chất liệu hạnh phúc và ta có thể tặng niềm vui, nụ cười cho người bên cạnh.
  • Lạy thứ hai:
"Đệ tử chúng đẳng nguyện đại vị quốc vương thủy thổ chi ân, vạn loại hàm linh chi đức. Nhất tâm đảnh lễ thập phương trường trú Tam Bảo". - Đệ tử chúng con xin vì ơn lớn của người xây dựng quốc gia, bảo vệ bờ cõi cương vực, đức rộng của muôn loài hàm linh. Nhất tâm đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.

Lạy xuống lạy thứ hai, chúng ta muốn đền đáp ơn lớn của đất nước, của các vị khai quốc và các vị quốc vương của nhiều thế hệ; vì những người đã mở mang bỡ cõi, cương vực cũng như giữ gìn đất nước, non sông; vì những người gầy dựng nền độc lập của quốc gia, vì đức lớn của muôn loài hữu tình.

Trên hành tinh này, hiếm có một quốc gia nào được hòa bình, độc lập mà không xây dựng trên máu xương của bao nhiêu người. Đôi lúc người ta phải hy sinh cả một thế hệ để đổi lấy tự do, độc lập cho đất nước. Nhìn vào lịch sử Hoa Kỳ, cuộc nội chiến Nam Bắc kéo dài cả bốn năm với biết bao sinh mạng đã nằm xuống, cả hàng trăm ngàn người đã ngã gục để đưa miền đất thuở mới thành lập là những tiểu bang nhỏ tách rời, kết hợp thành một liên bang, xây dựng nên một đất nước độc lập, hòa bình, dân chủ hàng đầu như hiện tại. Chúng ta ở nơi đây, được cưu mang, thừa hưởng sự thịnh vượng, tự do của đất nước người là chúng ta đang mang ơn lớn của các thế hệ tiền nhân (da đỏ, da đen, những người Á Châu...) đã đem sinh mạng, xương máu, mồ hôi, nước mắt... gầy dựng. Sự sống của chúng ta không phải đơn thuần chỉ một đời sống của riêng ta, mà liên hệ chằng chịt với bao nhiêu người, vạn loại. Đối với sự có mặt của người Việt ở nhiều quốc gia trên thế giới, chúng ta phải nhớ đến tình người, lòng nhân ái của những quốc gia, những con người đã cứu vớt, bảo bọc chúng ta đến miền đất an bình, tuy chúng ta vẫn hằng tiếc thương, tưởng nhớ đến những mất mát, chia lìa của người thân trên biển cả, trong rừng sâu để đổi lấy hai chữ tự do.

Thế nên, lạy thứ hai chúng ta muốn thể hiện niềm tri ân đối với các bậc tiền nhân đã xây dựng và bảo vệ đất nước; đảnh lễ những người đã bỏ mình vì chúng ta, che chở chúng ta, đem đến cho chúng ta đời sống tự do và hạnh phúc hôm nay. Chúng ta cũng đảnh lễ tri ân những hàm linh vạn loại có mặt trên hành tinh này, từ loài nhỏ bé như giun kiến, cho đến loài chuột, loài thỏ... đã hy sinh mạng sống làm vật thí nghiệm, nghiên cứu nhằm bào chế các được phẩm hoàn hảo chữa bệnh cho con người. Vì vậy, không một loài nào ta gặp trong đời mà không là người ơn của ta cả. Cho dù ở nơi đâu, trái tim ta vẫn tràn đầy niềm tri ân, biết ơn nhưng người, những loài vì ta mà hy sinh, dâng hiến.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • Lạy thứ ba:
"Đệ tử chúng đẳng nguyện đại vị sư trưởng huấn dục chi ân, phụ mẫu sinh thành chi đức. Nhất tâm đảnh lễ thập phương trường trú Tam Bảo". - Đệ tử chúng con nguyện vì ơn lớn của sư trưởng dạy dỗ, đức rộng của cha mẹ sinh thành. Nhất tâm đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.

Lạy xuống lạy thứ ba, chúng ta lạy ta công ơn sư trưởng dạy dỗ và ân đức rộng như biển cả của cha mẹ sinh thành.

Ngày xưa theo truyền thống đạo đức của văn hóa Đông phương, ơn dạy dỗ của vị thầy được xem lớn hơn ơn cha mẹ. Ơn của của thầy đứng trước ơn cha mẹ. Quan niệm quân - phụ ngày xưa trên thực tế không hẳn đã sai. Thứ bậc sư[/]đứng trước phụ (cha mẹ) là ý muốn nói công ơn dạy dỗ của người thầy xét ở chiều dài của đời sống con người là rất lớn.

Nơi đây, tuy không phải là đất nước có nền văn hóa rực rỡ, lâu đời như Trung Quốc, Ấn Độ... thế nhưng chúng ta may mắn được cư ngụ tại một cường quốc đang dẫn đầu thế giới trong mọi lãnh vực. Chúng ta đang được hấp thụ một nền văn hóa đa dạng (hội tụ bởi nhiều chủng tộc trên thế giới); được học hỏi một nền học thuật tối ưu do bởi những bậc thầy giỏi truyền dạy, chính họ đã mở mang kiến thức và nâng cao trình độ hiểu biết của chúng ta và đó được xem như một tặng phảm vô giá. Dù ở đâu, vị trí của người thầy trong đời sống cũng được đặt nặng là điều tự nhiên.

Cha mẹ sinh ra hình hài ta là chỉ mới hoàn thiện phần đầu. Người thầy dạy ta, tặng cho ta trí thức chính là người hoàn thiện tính cách cũng như những phẩm chất làm nên giá trị con người của ta. Người Việt chúng ta hơn ai hết rất kinh nghiệm điều này. Thế hệ ông bà, cha mẹ khi đưa ta đến đây đã vất vả vô cùng; họ phải tranh đấu trong hoàn cảnh thiếu hụt hàng ngày, để nuôi nấng, chăm sóc con cháu mình và làm bằng mọi cách cho chúng được đến trường. Họ ươm mầm hy vọng, mong sao cho con cháu mình được dạy dỗ, học hành thành đạt, có bằng cấp, nghề nghiệp trong tay. Họ hy sinh bản thân để nuôi dưỡng thế hệ kế thừa vươn lên, cho nên nấc thang quân - sư - phụ vẫn có giá trị gần như tuyệt đối. Quan niệm này ăn sâu thành nếp nên đã gầy dựng được cho các thế hệ thứ hai, thứ ba của người Việt gặt hái những thành công rực rỡ tại hải ngoại.

Bước vào đời sống tâm linh, các bậc thầy có một địa vị khác biệt trong tâm thức đệ tử, tín đồ. Người thầy tâm linh là người khơi mở tâm ban đầu cho chúng ta bước vào con đường đạo; dẫn dắt chúng ta đi vào thăm dò đời sống bên trong của chính mình, để rồi từ đó tự mình có thể đào xới, khám phá chính mình. Vị thầy tâm linh đúng nghĩa, đó là người trao tặng cho ta phương pháp tu tập để gột rửa, thanh lọc, loại trừ khổ đau trong thân tâm, cũng đồng nghĩa là giúp ta đến được đầu nguồn của hạnh phúc ngay ở trong ta.

Hai chữ hạnh phúc nghe đơn giản nhưng chắc hẳn không phải chỉ có tiền của, danh vọng là liền có được nó. Thử lấy ví dụ gần nhất như tổng thống nước Mỹ, danh tiếng vang lờng, nhưng trong ông vẫn đầy lo âu, phiền não như bao nhiêu người. Địa vị, quyền uy, danh tiếng luôn đi kèm với nhiều trách nhiệm, bổn phận, và đó là gánh nặng, là bất an, là khổ. Do vậy, có địa vị cao, uy quyền tột đỉnh trong xã hội hay thủ đắc nhiều tiện nghi vật chất sang trọng, cho đến sở hửu tình độ trí thức học thuật, bằng cấp cao... ở nhân gian đôi khi không giải trừ được niềm đau, nỗi khổ của tâm mình. Rõ ràng chúng ta thấy hạnh phúc, an lạc thực sự không có mặt trong những tiện ích vật chất của đời sống, trong những niềm vui cạn cợt từ việc thỏa mãn của bản ngã, của cái tôi. Hơn nữa, dù có cao sang quyền quí, sống trong tột đỉnh danh vọng, có thọ mạng dài hơn một trăm năm, cuối cùng rồi chúng ta cũng theo tiếng gọi thì thầm của đất, trả thân này về với đất, không thể khác.

Ơn lớn của con đường tâm linh là các bậc thầy đã khai sáng, mở ra cánh cửa đầu tiên trong cuộc sống cho chúng ta nhận chân được thứ hạnh phúc đích thực từ chính con người mình. Nếu chúng ta sống một đời vị tha, bao dung thì lòng ta an bình, tĩnh tại, tràn ngập niềm vui. Ta có thể giải trừ được nhiều nỗi đau khổ, bất an, u uất... trong tâm, vượt qua được những khổ ải của cuộc đời.

Các vị thầy tâm linh thường lay ta thức dậy, mở con mắt trí tuệc ho ta, giúp ta nhận biết trong hình hài năm uẩn này còn có một sự sống bằng tuổi thọ của hư không vô sinh bất diệt, vượt thoát tử sinh trong ba cõi; ấy là tâm Phật bất động, là Niết bàn tịch tĩnh. Vì vậy, ơn các vị thầy tâm linh thật lớn lao vô cùng.

Khi năm vóc sát đất lạy tạ công ơn các bậc thầy dạy dỗ, cũng là lúc chúng ta nhớ đến các bậc sinh thành đã đưa ta vào đời, đã cho ta thân hình nguyên vẹn. Ân đức lớn lao này khó có ngôn từ nào có thể diễn đạt; người ta chỉ có thể ví công ơn cha mẹ như núi cao, biển rộng, như suối nguồn vô tận mà mà thôi.

Nếu ta sinh ra không được cha mẹ nuôi dưỡng cho lớn khôn, thân thể này không phát triển hài hòa thì tất cả những thành tựu; những tiện ích và mọi giá trị đang có trong cuộc đời biết đặt vào đâu? Ngược lại, khi cuộc đời có đầy đủ mọi thứ nhưng không có thân người thì còn ý nghĩa gì? Công danh, sự nghiệp, vật chất, của cải... mọi thứ sẽ không còn giá trị khi hình hài này không có mặt. Ngoài ra, khi của cải, tài sản, nhà cửa, xe cộ, người thân... đầy đủ nhưng nếu ta tật nguyền, ốm đau hay ta sớm bắt tay với thần chết thì mọi thứ cũng đều vô nghĩa. Như vậy, cha mẹ dù chưa cho ta điều gì to lớn, nhưng cho ta một hình hài như thế này đã là quá tuyệt vời! Cho nên ơn của người đưa ta vào đời là sâu nặng.

Ông bà, cha mẹ bao đời của ta đã luôn sống giữ gìn đạo đức, nề nếp gia phong. Đời sống các vị rất đẹp, rất lành nên sinh ra ta có đầy đủ nhận thức, không bị tật nguyền..., đó cũng là một ơn quá lớn đối với chúng ta rồi, không cần tặng thêm cho chúng ta điều gì cả. Không cần di chúc để lại gia tài to lớn, nhà cửa, của tiền..., chỉ cần nhìn lại chúng ta đang có một hình hài toàn vẹn, khỏe mạnh là đã xứng đáng cho chúng ta tri ân vô vàn đối với các bậc sinh thành.

Nếu ta có một đời sống vật chất đầy đủ nhưng trong trái tim không có sự tri ân, không biết ơn nghĩa thì chúng ta vẫn là người bất hạnh, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến nhiều thế hệ tương lai của chúng ta. Con cháu ta chắc chắn không kế thừa được chất liệu cao đẹp, tốt lành từ tinh thần tri ân để làm nên hạnh phúc bởi cha mẹ không có gì để trao gởi. Cho nên tinh thần tri ân không những là món quà làm cho đời sống chúng ta hạnh phúc, mà tự thân nó là một phẩm chất đạo đức. Phẩm chất đạo đức của đời sống cá nhân và gia đình thể hiện qua việc biết nuôi dưỡng lòng tri ân, biết thương yêu chia sẻ, chắc chắn tạo nên một dòng chảy tốt đẹp qua nhiều thế hệ, từ đó có thể góp phần thúc đẩy sự thiện lành cho xã hội chúng ta một cách bền vững và lâu dài.

  • Lạy thứ tư:
"Đệ tử chúng đẳng nguyện đại vị lịch đại tổ sư truyền pháp chi ân, thất tổ cửu huyền chi đức. Nhất tâm đảnh lễ thập phương trường trú Tam Bảo". - Đệ tử chúng con vì ơn lớn truyền pháp trong quá khứ của các thế hệ tổ sư, đức rộng của dòng tộc nội ngoại nhiều đời. Nhất tâm đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.

Lạy xuống lạy thứ tư, đầu tiên chúng ta đảnh lễ tri ân các bậc thầy đã giữ gìn và trao truyền Phật pháp, dảnh lễ thù ân dòng họ tâm linh đã nuôi lớn đời sống tâm thức chúng ta. Thứ đến, chúng ta đảnh lễ các thế hệ tiền nhân hai bên dòng họ nội, ngoại từ bao nhiêu đời về trước. Bốn chữ "cửu huyền thất tổ" đại biểu cho phả hệ sinh thân của chúng ta; hàm nghĩa hình hài này có mặt không phải chỉ từ cha mẹ, mà do từ hạt mầm của ông bà tổ tiên nhiều đời trước đã sinh ra cha mẹ mình. Rõ ràng chúng ta có mặt trên đời ngày hôm nay không phải nhờ một mình cha mẹ hiện đời, mà nhờ vào rất nhiều thế hệ tổ tiên đã nuôi dưỡng, bảo trì nòi giống để nay ta mới có mặt.

Chúng ta nên biết rằng các thế hệ tổ sư, các bậc thầy tâm linh đã trải qua nhiều đời dấn thân tu hành, khám phá và không ngừng hoằng dương chánh pháp để ngày hôm nay, tại đây, chúng ta may mắn được ngồi với nhau cùng tu tập, được nghe giáo pháp, được học những trang kinh là một hành trình quả thật không đơn giản. Từ điều kiện vật chất tiện lợi tạo nên môi trường tốt cho chúng ta tu học, đến những phương thức nâng cao đời sống tâm linh, phát triển tuệ giác... tất cả đều là mồ hôi, tâm huyết, sự thông tuệ của người đã dày công xây dựng và hiến tặng.

Tìm một người thầy giỏi để dạy chữ, đào tạo kiến thức ở ngoài đời nhiều lúc không phải dễ, huống hồ tìm một vị thầy khả chứng để hướng dẫn tâm linh. Thầy dạy học ở đời không phải là thầy tâm linh, không phải là người dạy cho ta biết tu tập. Người thầy hướng dẫn việc tu tập phải là người có công huân hành trì, có kinh nghiệm nội tại mới có thể dạy cho người khác thực hành theo được. Nếu chỉ là người thông kinh điển mà chưa thực sự nếm trải hương vị Phật pháp thì những lời truyền đạt của vị ấy không thể đánh động vào tâm thức người học, người nghe và như vậy khó có thể giải trừ được tận gốc rễ những phiền não, khổ đau trong thân tâm để đến với an lạc thực sự.

  • Lạy thứ năm:
"Đệ tử chúng đẳng nguyện đại vị thiện hữu pháp lữ chi ân, viễn cận thân bằng chi đức. Nhất tâm đảnh lễ thập phương trường trú Tam Bảo". - Đệ tử chúng con, xin vì ơn lớn bạn đạo gần xa, đức rộng của láng giềng thân hữu. Nhất tâm đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương.

Lạy xuống lạy thứ năm, chúng ta đảnh lể tri ân những thiện hữu, pháp lữ, là những người bạn tu của chúng ta. Viễn cận thân bằng là những người bạn gần và xa, tức những người bạn trong đạo và bạn ngoài đời của mình.

Trong cuộc sống thường ngày chúng ta rất cần có người bên cạnh. Ở ngoài đời đôi khi con cái lớn lên đi học xa, hoặc lập gia đình rồi nhiều lúc không còn gần bố mẹ, hay vì hoàn cảnh, công việc làm ăn nên mỗi người đành phải mỗi nơi. Do vậy, người gần chúng ta bấy giờ nhiều khi là những người bàn, những bằng hữu trong các mối quan hệ ở đời.

Người tu cũng cần có bạn để chia sẻ, giúp đỡ những lúc khó khăn, vấp ngã, gọi là pháp hữu hay pháp lữ. Có bạn để tâm sự, giải tỏa nỗi niềm. Có bạn để hỗ trợ, giúp ta tinh tấn trên con đường dài tu tập. Rất nhiều thiền sư trong quá khứ không phải sáng tâm, ngộ đạo nhờ thầy mà nhờ bằng hữu. Cho nên chúng ta hãy nghe những câu như: "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn" hay "Học thầy không tày học bạn".

Ngôn ngữ nhà chùa thường đề cập đến khái niệm "Pháp, tài, lữ, địa". Đây là bốn điều kiện cần có để yểm trợ cho một người tu. Trong đó lữ là bạn hữu, muốn nói đến tầm ảnh hưởng quan trọng của những người bạn trong đời sống tu hành. Pháp là phương cách hành trì, tu tập. Chúng ta có được một pháp môn thích hợp để ứng dụng là điều may mắn. Tài là vật chất, tiền của là những điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng cho đời sống mình. Nếu ta quá thiếu thốn, quá nghèo đói thì khó có thể tu tập được. Hiện tại, chúng ta là những người có hoàn cảnh thuận lợi để tu tập: không quá giảu tiền như tỷ phú, cũng không quá nghèo khổ đến mức thiếu ăn. Địa là hoàn cảnh, môi trường sống của chúng ta. Ở trong môi trướng phức tạp, những vùng không có bóng dáng đạo Phật, ở nơi chốn đầy dẫy sự bất an... thì cho dù chúng ta có ham tu cách mấy, hoàn cảnh cũng không cho phép.

Chúng ta nhìn lại mình nếu thấy hội đủ bốn điều kiện kể trên thì đó là một điều thật may mắn. Có không gian thanh bình, tĩnh lặng để thực tập, có tăng thân chung quanh đầy ấp năng lượng hỗ trợ, che chở. Có các vị cư sĩ thương quý yểm trợ những lúc chúng ta cần. Những điều kiện tốt lành này sẽ đem đến cho ta niềm tin chắc chắn, cho ta khả năng tiến xa hơn trên bước đường tâm linh.

Mỗi một ngày còn được hít vào thở ra, còn đi đứng vững vàng trên mặt hành tinh này, là chúng ta đang thọ nhân công ơn to lớn của rất nhiều người. Từ ơn của những người lãnh đạo quốc gia, ơn các vị thầy trui rèn cho trí thức, ơn của các bậc thầy tâm linh khai lối cho ta vào đạo, ơn cha mẹ đã sinh thành đưa ta vào tương lai, và ơn bằng hữu, quyến thuộc xa gần đã giúp ta thành tựu phẩm chất con người, cho đến ơn sâu nặng của muôn loài hữu tình và vô tình, từ cây cỏ đất đá, không khí ta thở, cho đến viên thuốc ta uống, hạt cơm ta ăn, mảnh vải ta che thân... Tất cả đều hồn nhiên hiến tặng cho ta. Và ta thấy mình thật là may mắn, hạnh phúc trong điều kiện như vậy.

Khi chúng ta nhận ra đời sống này được hình thành bằng muôn vàn nhân duyên, thì chắc chắn ta không còn gì để tự hào. Khi hình hài chúng ta được tạo nên từ biết bao nhiêu ân nghĩa thì tự thân nó có gì gọi là "ngã"? Trời đất và cuộc đời đã hiến tặng cho ta sự sống không một đòi hỏi, thở than, đó là hạnh lành mà chúng ta phải thực tập. Ta hãy thực tập vì người mang đến một ít niềm vui, chịu đựng một tí thiệt thòi để thể hiện đức hy sinh và tinh thần dâng tặng. Khi ta sống được với tinh thần dâng tặng thì tâm ta sẽ rộng mở và có nhiều hỷ lạc, nên ta nhìn cuộc đời thấy ở đâu cũng dễ thương. Đi khắp hành tinh này ai cũng là người ơn của ta, đều là con người cho ta thương yêu, trân quí.

Thực tập năm lạy thù ân như đã trình bày trên là chúng ta không chỉ thể hiện một con người có nhân cách, có hiểu biết trong cuộc đời bình thường, mà còn thể hiện là người Phật tử thuần thành có một niềm tin chân chánh và một hiểu biết đúng đắn. Mỗi một lần lạy xuống là chúng ta đều tâm niệm tri ân, là đang thực hành sống với lòng biết ơn. Chúng ta hãy mời gọi lòng biết ơn luôn có mặt trong trái tim mình. Tu tập được như vậy, trong ta sẽ tự nhiên bừng nở đóa hoa tỏa hương khiêm cung, vị tha và vô ngã. Hạnh phúc đã có mặt, ta không cần tìm cầu gì nữa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TRẢ NỢ HAY HIẾN DÂNG
  • Pháp thoại tại chùa Xá Lợi
    Ngày 03-10-2006
Sáng nay tình cờ nhìn lên tấm lịch trên tường, tôi thấy một câu thư pháp bằng chữ Việt ghi: "Hai mươi năm xin trả nợ đời".

"Hai mươi năm xin trả nợ đời" nghe sao thật ngậm ngùi! Chợt lòng tự hỏi chúng ta sống ở đây là đang trả nợ hay đang sống một đời hạnh phúc? Chúng ta có thể cho mình đang trả nợ, và cũng có người nói rằng tôi đang sống trong hạnh phúc.

Dù sống trong hạnh phúc hay khổ đau, lúc chiêm nghiệm lại cuộc đời, ba, bốn mươi năm trôi qua, ta thấy mình nợ nhân gian nhiều quá. Cho nên dù đang sống trong cao sang, danh vọng, uy quyền tột đỉnh, ta cũng cảm thấy mình đang trả nợ. Trả nợ đời, trả nợ người, trả nợ tình, trả nợ cháu con... Tuy nhiên tùy theo cách nhìn và quan niệm về đời sống mà ta có thể xem đó là nợ nần hay là dâng hiến. Và một câu hỏi được đặt ra: Người tu có trả nợ không?

Cách đây nhiều năm, trong bài diễn văn đọc tại buổi lễ khai mạc một khóa tu ở Việt Nam của hòa thượng Thanh Từ, tôi nhớ có câu: "Tôi tự xem mình là kẻ nợ của tăng ni. Tăng ni nào biết đòi thì tôi trả, ai không biết đòi thì tôi không trả". "Biết đòi" là thế nào? Nghĩa là biết đến với ngài, nương vào những điều ngài dạy để tu tập, để nuôi dưỡng tuệ mạng của mình. Đó là biết đòi. Người nào không biết đòi thì ngài không trả, nghĩa là người nào quay lưng lại, không đến với ngài thì ngài không thể trả nợ được.

Nếu nhìn vào đời sống của quý thầy, quý cô ở trên đất Mỹ hay ở tại Việt Nam, chúng ta thấy họ đều có chung một con đường lo lắng, nỗ lực, vất vả để trả nợ hay trả ơn. Trả ơn gì? Trả ơn áo cơm của đàn na, thí chủ, ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, ơn truyền thống tâm linh mà đức Phật đã dày công gầy dựng, ơn tổ, ơn thầy...

Người tu phần lớn đều sống cuộc đời "an bần thủ đạo", ba y một bát thong dong, ấy vậy mà hiện nay chúng ta thấy quý thầy, quý cô, nhất là những vị trụ trì, luôn phải cố gắng, nhẫn nại, cực khổ vô cùng. Các vị ấy vất vả, bận rộn, làm biết bao nhiêu chuyện chắc chắn không phải để truyền sự nghiệp lại cho người thân, anh em ruột thịt của mình. Họ đầu tư công sức, lo lắng nhiều cho việc phát triển tự viện chính là tạo cho các thế hệ tương lai có nơi chốn học hành, tu tập. Dường như các thầy, các cô ở đâu cũng đi chung một con đường như thế.

Đôi khi chúng ta phiền trách việc xây cất chùa viện quá lớn làm hao tốn nhiều tiền của, công sức... Nhưng nếu nhìn sâu hơn ta mới hiểu "kiếp tằm nên phải rút ruột trả nợ dâu", từ bậc hòa thượng lớn cho đến vị thầy tu nhỏ đều có chung một ý hướng như vậy. Nghĩa là muốn đem hết sức mình trong cuộc sống hiện tại, thực hiện những điều tiện ích làm quà tặng cho thế hệ kế thừa, và cũng có thể hoằng dương giáo pháp của đức Phật. Phải chăng chúng ta là những người đang trả nợ tình cho nhau? Người ở ngoài đời trả nợ tình khác với người ở trong đạo. Người tu trả nợ tình là trả nợ đàn na thì chủ, nợ tổ, nợ thầy. Xa hơn nữa là tâm nguyện gửi lòng mình trả ơn đức Phật - người đã gầy dựng nên dòng chảy tuệ giác mà ta được thừa hưởng và tu tập ngày hôm nay.

Ngày còn ở quê nhà, có lần tôi được một người Indonesia gốc Trung Hoa, chủ hảng Fuji Film mời đến thuyết giảng về Tam qui, Ngũ giới cho một số công nhân làm việc tại đó. Sau thời thuyết giảng, anh ngỏ ý mời tôi qua đảo Ga-lăng hay Pi-đông (ở Phi Luật Tân) đặt viên đá xây chùa. Tôi cười nói: "Anh là người ngoại quốc tại sao lại có ý xây dựng chùa Phật giáo (Việt Nam) ở một hòn đảo hoang vắng, xa tít mù, không liên hệ gì đến anh như thế?" Anh trả lời: "Thưa thầy, con có một phát nguyện là nơi nào có hình bóng đức Thế Tôn, nơi nào có tự viện dù lớn hay nhỏ con đều muốn tôn tạo để nơi đó trở thành chứng tích của đạo Phật".

Lòng nhiệt thành, mối quan tâm đối với đạo Phật của một người Indonesia sống trên một đất nước Hồi giáo không liên hệ gì đến người Việt đã biểu lộ anh là một con người có văn hóa, có một tâm thức thiện lành thật dễ thương. Người xưa thường dạy rằng phát tâm xây dựng già lam, tự viện thì công đức vô lượng. Công đức này chắc chắn dẫn đến một đời sống phúc lộc đầy đủ, kiếp lai sinh có thể được làm quốc vương.

Ta có thể nói nơi nào ngôi chùa Việt Nam có mặt là biểu hiện văn hóa Việt Nam có mặt. Người Việt đặt chân lên vùng đất này quy tụ lại thành cộng đồng. Niềm tự hào của chúng ta không chỉ là sự phấn đấu hội nhập được vào cộng đồng của bản địa để thành đạt sự nghiệp vật chất hay xã hội như những người di đân khác, mà chúng ta còn tự hào mình là người Việt có một nền đạo đức, văn hóa trên bốn ngàn năm rất đặc sắc và nền đạo đức, văn hóa ấy đã nuôi dưỡng bản chất con người Việt Nam qua bao thế hệ. Hai nghìn năm trở lại đây, chúng ta đã được thấm nhuần giáo lý đạo Phật. Đạo Phật đã có những đóng góp rất lớn vào nền văn hóa Việt, từ ngôn ngữ sử dụng hàng ngày cho đến cách hành xử của chúng ta đều phảng phất tinh thần đạo Phật. Do vậy người Phật tử Việt Nam đi đến bất cứ nơi nào cũng quan tâm đến việc xây cho được một ngôi chùa là điều tự nhiên:
  • Mái chùa che chở hồn dân tộc
    Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Hai câu thơ của nhà thơ Huyền Không cho ta thấy rõ gốc rễ, nguồn cội của chúng ta. Ta cần phục hồi lại gốc rễ vô minh của mình. Gốc rễ của mình là người Việt với văn hóa Việt. Dù cho ở đâu hay theo một tôn giáo nào ta vẫn không thể chối bỏ được gốc rễ Việt Nam của mình. Ta không thể để mình biến mất vào dòng chảy của xã hội người, đất nước người, vì chúng ta vẫn là dân da vàng. Ví dụ như ở Mỹ chẳng hạn, chắc gì người Mỹ chấp nhận ta là dân Mỹ thực sự (có vào quốc tịch Mỹ thì chúng ta là người Mỹ gốc Việt). Người Mỹ dù đang được thụ hưởng một nền văn minh tiến bộ nhất hành tinh, nhưng mầm mống kỳ thị vẫn nằm sâu trong tâm thức họ.

Bởi vậy, tự thân chúng ta chưa bắc được nhịp cầu cảm thông, chưa hòa nhập thực sự vào dòng sinh hoạt của xã hội Mỹ thì chùa chiền, tự viện là nơi hay nhất dẫn dắt ta đến gần đời sống tâm linh, nhất là cho giới trẻ. Hiện nay thế hệ trẻ người Việt tại Mỹ chưa thấm nhuần văn hóa Việt, và nếu có cũng rất ít, trong khi ảnh hưởng văn hóa Mỹ lại rất sâu đậm. Làm sao ta có thể trông cậy vào các cháu trong sự bảo tồn cũng như hãnh diện với di sản văn hóa Việt Nam? Những người già rồi sẽ ra đi, nên việc giữ gìn, phát huy văn hóa Việt Nam là ở thế hệ tương lai. Chúng ta phải làm thế nào để tạo nhịp cầu nối giữa hai thế hệ, tạo điều kiện để có sự gần gũi, hòa thuận trong nếp sống của một gia đình Việt. Hãy gieo vào tâm thức các con cháu ta hạt giống hiền thiện, yêu thương ngay từ khi tâm hồn còn thơ dại. Nếu chưa thể làm cho các cháu thấm nhuần đạo Phật, thì ít nhất ta hãy tập cho chúng đến gần với không khí của tự viện, chỉ dạy chúng cách thực hành những điều căn bản của đạo Phật trong đời sống hàng ngày. Các bậc phụ huynh có bổn phận và trách nhiệm truyền trao tinh thần tu học, tinh thần dân tộc cho con em mình. Đừng nghĩ những hạt mầm mình gieo là vô ích. Một mai kia bước vào đời gặp phải những khó khăn, vấp ngã, chúng sẽ nhớ đến những gì đã được chỉ dạy, nhớ đến giáo lý đạo Phật đã từng được nghe, nhớ về mái chùa ngày nào..., và sẽ tự tìm về nguồn cội của chúng.

Để giới trẻ cảm thấy vui thích, thoải mái khi đến chùa, chúng ta cần có những sinh hoạt riêng cho họ tùy theo trình độ, tuổi tác. Ngoài ra ta cần đơn giản các mặt nghi lễ, thờ cúng, bái sám, tụng niệm... Ta không thể áp dụng một cách nguyên chất hình thức sinh hoạt theo truyền thống Phật giáo Việt Nam trên đất nước này, vì như vậy tầng lớp thanh thiếu niên trẻ cảm thấy không thích hợp rồi trở nên dị ứng và sẽ rời xa. Và nếu các sinh hoạt cũng như giảng dạy Phật pháp chỉ tập trung đáp ứng cho những người già, những người lớn tuổi là chúng ta đẫ không nhìn xa vào thế hệ trẻ - thế hệ của tương lai và vô tình đẩy chúng tìm đến con đường hướng ngoại.

Chúng ta cần mạnh dạn và khéo léo để thay chuyển mình. Không thể có một "đạo Phật riêng" cho người Việt Nam trên đất Mỹ. Đạo Phật đi đến đâu là đều phải chuyển mình thích nghi với môi trường địa lý, hoàn cảnh văn hóa và tập tục của địa phương. Khi chuyển đổi được như thế thì đạo Phật mới thực sự có mặt và đóng góp những lợi ích lớn lao cho cộng đồng người bản địa và cộng đồng người Việt tiếp nối trong tương lai. Điều này trong quá khứ đạo Phật đã làm được. Điển hình là đạo Phật ở Trung Hoa.

Du nhập vào Trung Hoa theo dòng chảy của sự phát triển, đạo Phật đã hoàn toàn hòa mình vào văn hóa, nếp sống, lối suy nghĩ cho đến mọi hình thái nghệ thuật của người Trung Hoa. và rồi đạo Phật bám rễ vững chắc vào vùng đất mới, hình thành một đạo Phật Trung Hoa thật đặc biệt. Có lẽ khi nào chúng ta đến sinh sống nơi đây với gốc rễ bốn ngàn năm văn hiến, với hạt mầm đạo Phật thật sâu dày, chúng ta không làm được một điều gì để trả nợ hay hiến dâng cho người một tặng phẩm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chúng ta hãnh diện về người Việt sống trên đất Mỹ đã đóng góp ít nhiều cho thành tựu trên mọi lãnh vực từ khoa học, kỹ thuật, giáo dục...; điều đó cho thấy không phải chúng ta đến đây chỉ vì miếng cơm, manh áo. Điều quan trọng nhất của chúng ta là làm thế nào để cho người bản xứ hiểu được chúng ta muốn hiến tặng tinh thần đạo đức Đông phương và tuệ giác của đạo Phật cho họ. Làm được điều này là chúng ta không đánh mất gốc rễ, không "biến" thành người Mỹ. Chúng ta có thể vững chãi tự tin không che dấu nguồn gốc của mình. Chúng ta có thể đứng ngang hàng hoặc trực tiếp đối thoại với người, vì mình vốn có một nền tảng văn hóa đặc trưng, một bản chất thấm nhuần đạo đức và một cội nguồn tâm linh là giáo lý đạo Phật.

Thiết lập nền tảng tâm linh, đem đạo đức của xã hội Đông phương củng cố đời sống gia đình cho xã hội Tây phương là chúng ta đang trả ơn, đang dâng hiến cho đất nước đã cưu mang mình một món quà quý giá, bởi đó là những gì họ đang thiếu, mặc dù đời sống văn minh vật chất của họ dư thừa. Thế nên, sự có mặt của các sinh hoạt chùa chiền, tự viện mang nét đặc thù văn hóa Việt Nam là rất quan trọng. Ta cần làm cho đạo Phật có mặt, làm sao cho thế hệ trẻ người Việt và người Mỹ có được niềm tin sâu chắc với chánh pháp, làm sao cho họ biết thực tập để nếm được an lạc, hạnh phúc chân thật. Được như vậy chắc chắn gốc rễ đạo Phật sẽ bám sâu vào lòng đất Tây phương.

Hạnh phúc của chúng ta không chỉ là làm ra tiền, có tài sản lớn. Chúng ta cần có những người con kế thừa thông minh, tài giỏi và đạo đức. Hạnh phúc gia đình có mặt chính là nhờ sự quan tâm của chúng ta đến với người thân, ta cần dành thêm thì giờ chăm sóc con cháu để tương lai đi vào đời chúng không mang theo mặc cảm thua kém, sợ sệt. Vị ngọt của hạnh phúc cũng chính là sự san sẻ. Nói một lời dễ thương, chịu khó lắng nghe, ấy là sự tu tập gần nhất và ai cũng có thể làm được. Trong gia đình, chúng ta có thể hiện sự kiên nhẫn của mình khi dạy các con hay không? Thông thường cha mẹ chỉ thương những đứa con hiền, ngoan, dễ dạy; những đứa trái ý mình, tìm mọi cách dẫn giải lý do này nọ để đối kháng thì mình không thương nhiều. Do vậy, chúng ta cần nhìn lại cách nuôi dạy con cái và cách ta hành xử với người thân. Đôi khi, tuy ta sống với nhau bằng tình thân, nhưng vẫn hay tranh chấp, kèn cựa, đôi lúc chỉ một lời nói nặng cũng đủ làm cho người khác đau khổ rồi. Chúng ta đã từng làm như thế và người kia cũng vậy. Cuối cùng chỉ đưa đến buồn khổ, giận hờn. không muốn nhìn mặt nhau. Những lúc như vậy, chúng ta hãy lập tức quay nhìn lại tự mình để tập chế phục tâm hành tiêu cực, chế phục cơn giận.

Khi cơn giận bừng lên, chúng ta có thể làm một việc giản dị là không nói gì cả, đi vào phòng và đóng cửa lại. Khi ngồi yên được để quan sát tâm hành của mình, ta sẽ thấy lửa giận đang bừng cháy, tim đập rất nhanh, hơi thở nặng nề, mệt mỏi và tâm thức đầy xao động bất an. Ta hãy thầm nhủ: "Tội nghiệp mình quá! Giận là tự sát". Và hình như cơn giận bắt đầu dịu xuống... Đó là phương pháp điều phục cơn giận. Điều phục được cơn giận là điều phục được nỗi buồn, điều phục được mọi cảm thọ. Xét cho cùng, giận chỉ là một cảm thọ của tâm, mà ta là người nhận biết, là người đang quan sát cơn giận. Nếu có một chút kinh nghiệm tu tập, ta sẽ nhận rõ sự giận hờn có cùng một nhịp điệu vận hành như thiên nhiên, vũ trụ; nó cũng thành, trụ, hoại, không, như cây cỏ nẩy mầm, ra lá cho hoa kết trái rồi úa tàn, rơi rụng.

Tôi xin kể một kinh nghiệm điều phục cơn giận, và đây cũng là câu chuyện vui. Trong chùa tôi vào mùa hè, có một bà cụ hay trồng bắp cho chùa. Khi bắp có trái thì ai muốn ăn cũng được; không hỏi, không mời bà một tiếng nào mà bà vẫn cười rất tươi. Tâm bà tốt vô cùng. Nhưng một hôm, ni sư trụ trì, vốn là con gái của bà, vô tình dẫm chết mấy cây ớt bà trồng trên vuông đất nhỏ dưới tàng cây cà phê. Thế là bà càu nhàu từ chiều đến tối, kể lể đủ thứ chuyện, rằng mảnh đất do bà mua, toàn bộ nay không thuộc về bà nữa, bà chỉ còn chút rẻo đất để trồng ớt mà cũng bị dẫm chết... Ai nghe cũng cảm thấy khó chịu. Tôi nghĩ chắc bà sẽ nói đến khuya nếu không làm cho bà im tiếng. Tôi liền bảo: "Tôi có trồng ít cà phê trong chùa, nếu bà cần đất rộng thì tôi chặt hết cà phê để trả lại đất cho bà. Vậy bà khỏi rầy rà nữa nhé". Nói là làm liền. Tôi lấy cưa ra cưa hết mấy cây cà phê. Bà hốt hoảng: "Thôi, tôi lạy ông, tôi không nói nữa, tôi không nói nữa".

Sáng hôm sau, tôi được nghe bà tâm sự với ni sư con gái của bà là "Ông thầy này nóng còn hơn lửa. Người tu hành gì mà sân si quá! Mới nghe cằn nhằn mấy tiếng mà ngay tối hôm qua ổng chặt trụi mấy cây cà phê".

Đôi khi có những chuyện lớn như con voi mà ta vẫn nhịn được, nhưng có khi lại nổi cơn giận với một việc rất nhỏ như trường hợp của bà cụ mà tôi vừa kể. Có những chuyện nhỏ nhoi không đáng gì, thế mà ta cực lòng lo nghĩ, tính toán đủ thứ rồi giận hờn không đâu. Bài học từ bà cụ nói trên có thể giúp ta quy chiếu lại tự hỏi mình: Có phải ta đã từng làm như vậy? Nếu ta có khả năng buông bỏ mọi việc trên đời thì bất cứ điều gì xảy đến cũng sẽ qua đi rất nhẹ nhàng, việc lớn có thể chuyển thành nhỏ và việc nhỏ trở thành không có gì. Ở đây có một điều ta cần nhớ: giận chỉ là một trong những cảm thọ của tâm. Ta thường lầm lẫn xem cảm thọ là mình, lầm lẫn này tuy nhỏ nhưng mang đến tác hại rất lớn, bởi vì nó sẽ dẫn dắt hành xử của ta dựa vào cảm thọ đó.

Xét cho một cách thấu đáo, vạn vật từ tài sản, nhà cửa, xe cộ thuộc sở hữu của con người, cho đến cỏ cây, đất đá, cầm thú, côn trùng... trong thế giới tự nhiên, tất cả đều đi theo con đường sinh, trụ, dị, diệt và cái gần nhất là thân ta cũng đi theo một tiến trình như vậy. Mặc cho chúng ta có chăm sóc thân thể thật kỹ bằng những phương tiện y học hiện đại thì tóc cũng sẽ đổi màu, da sẽ không còn tươi nhuận, sức khỏe ngày càng suy giảm. Ngành y khoa thẩm mỹ dù tiến bộ đến đâu cũng không giữ cho con người được trẻ mãi, cũng không đem đến cho chúng ta đời sống bất tận.

Bước vào sâu hơn nữa, vui buồn, khổ đau, hờn giận... cũng chỉ là những sở hữu của ta. Tại sao gọi là sở hữu của ta mà không phải là ta? Thử nhìn kỹ lại ta, sẽ thấy những vui, buồn chợt đến rồi đi; những sầu khổ, bất an hay hân hoan, hạnh phúc cũng chẳng ở lâu với chúng ta bao giờ. Ai mà không muốn giữ lại niềm vui dài lâu cho mình? Thế nhưng trong niềm vui đã cài sẵn nỗi buồn và có hạnh phúc nào mà không thấp thoáng bóng dáng sầu khổ bên trong. Vậy cái gì gọi là thật? Cái gì là ta?

"Quay về nương tựa Phật" là quay về nương tựa nguồn tuệ giác nơi chính mình; chúng ta nguyện quay về làm phát khởi tâm Bồ đề, làm tỏa sáng tâm Phật của mình. Cái gì là tâm Phật tỏa sáng của mình? Xin lấy ví dụ, khi mình giận, thì giận là cảm thọ đến đi, sinh diệt. Nhưng khi nhận biết ta đang giận thì cái "nhận biết" cơn giận đó không đến đi, không sinh diệt. Nó vẫn thường hằng, vẫn luôn có mặt. Sự nhận biết này có hai bước để ta thấu hiểu và thực tập. Thông thường, lúc đầu ta nhận biết bằng tiếng nói của ý thức: "Đây là cơn giận có mặt"; và sự nhận biết này có tiếng nói thì thầm. Nhưng khi thực tập quán chiếu đã quen, ta không cần nói thầm nữa. Khi cơn giận biểu hiện, ta chỉ cần hồi tâm nhận biết cơn giận đang có mặt, tức khắc cơn giận là cái bị ta nhận diện. Và ta lúc đó chính là năng lượng tỉnh sáng, nhận biết cơn giận ngay hiện tại, chứ không phải là cơn giận. Khả năng nhận biết không lời ấy là năng lượng giác ngộ vốn có bên trong mà lâu nay mình bỏ quên. Vì quên nên ta thấy mình là cơn giận, là nỗi bất an... và thương ngập lặn, nổi trôi theo dòng sông cảm thọ. Nếu thực tập sâu sắc, luôn nhớ mình là người đứng trên bờ nhận diện mọi tâm hành, cảm thọ đang diễn hành, đến đi liên tục là ta cắt được dòng chảy sinh tử luân hồi và lúc nào cũng an trú trong vùng trời "tâm bản nhiên" của chính ta. Chúng ta tu tập là mời gọi năng lượng chánh niệm biểu hiện ra để biết dừng lại. Nếu biết thực tập dừng lại quán chiếu trong khi nói, khi làm, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thể hiện được phẩm chất thanh cao, an bình; tạo được môi trường đẹp đẽ để nuôi dưỡng người thân của mình và mọi người chung quanh.

Sống như vậy, người ta "hai mươi năm xin trả nợ đời", còn mình dù có bốn mươi hay năm mươi năm trên đời cũng không phải trả nợ gì. Bởi vì đời sống chúng ta một khi biết sống và tu tập sâu sắc, đó chính là tặng phẩm ta dâng cho đời, cho người và cho nhiều thế hệ tương lai. Mỗi ngày chúng ta trong đời sống là một sự hiến dâng. Nguyên tắc là muốn tặng quà thì phải có quà mình mới tặng được, trong lòng có tình thương, mình mới tặng cho người món quà tình thương, lòng có an vui mới tặng được an vui cho người. Cho nên khi cùng thực hiện một việc, cùng tiêu tốn năng lượng và thời gian như nhau, nếu làm với tâm thức trả nợ thì ta sẽ cảm thấy mệt mỏi, nặng nề, chán nản, phiền muộn, bất an; nhưng với tâm nguyện hiến dâng, phục vụ thì lòng mình sẽ thênh thang, an vui và hạnh phúc. Nếu ta quan niệm như câu hát "hai mươi năm xin trả nợ đời" thì không những hai mươi năm, mà cả đời ta sống cũng chỉ để trả nợ. Trả nợ cả đời thì quả thực bất hạnh vô cùng!

Giáo lý đạo Phật chính là phương thuốc có công năng chữa căn bệnh tử sinh ngàn đời của con người. Đời ta trầm luân gánh nặng mang hoài, nếu không gặp được chánh pháp đức Phật thì làm sao ta biết được con đường thực tập để chấm dứt dòng phiền não sinh tử. May mắn trong kiếp sống này, ta có nhiều bậc thầy xuất hiện, tặng cho món quà quý báu là pháp hành của Phật. Nhận lấy món quà này, nếu thực tập nghiêm túc ta sẽ điều phục được thân tâm, chế ngự được giận hờn, buồn khổ, ganh tị, bất an... đem đến cho ta an bình, tịnh lạc, hạnh phúc ngay trong hiện đời. Xin hãy đón nhận và uống vào những viên thuốc giáo lý của đức Phật để chữa lành căn bệnh ngàn đời của chúng ta. Việc này ai cũng có thể làm được; và chắc chắn trong hiện tại, tối thiểu chúng ta cũng sẽ là tặng phẩm cho người thân, cho gia đình và cho xã hội. Bấy giờ tâm nguyện của ta là sự hiến dâng, chứ không phải là tâm hành trả nợ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Cành Triêu Nhan

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NGUỒN XƯA
  • Pháp thoại tại tu viện Lộc Uyển
    Ngày 13-09-2008
Chúng ta đang ngồi với nhau ở đây, trong không gian của núi rừng Lộc Uyển sau khi khóa tu Về Nguồn vừa kết thúc. Tôi muốn mượn hai chữ Về Nguồn để mời tất cả cùng đi vào thăm dò đời sống bên trong, tìm đến cội nguồn sự sống của mình: cội nguồn của đời sống gia đình và cội nguồn đời sống tâm linh.

Khi thăm dò được vào đời sống tâm linh của chính mình, ta sẽ có hạnh phúc và người thân của ta cũng được hạnh phúc. Nếu ta chưa tìm vào đời sống nội tâm, tức về lại cội nguồn sâu xa của chính mình thì đời sống ta chỉ ở trên bình diện cạn, lay lắt phù du không thể thiết lập được nền tảng cho hạnh phúc chân thật. Và hẳn nhiên khi không làm cho mình hạnh phúc ngay nơi hoàn cảnh của mình, thì thật khó mà nói đến việc hiến tặng hạnh phúc cho người thân. Do vậy, trở về với nguồn cội huyết thống là quan trọng, nhưng chỉ ở mặt cạn. Trở về nguồn cội tâm linh mới là điều kiện thiết yếu của đời người.

Ngày xưa đức Thế Tôn suốt 45 năm giảng dạy trên khắp lưu vực sông Hằng, chung quy ngài cũng chỉ muốn truyền đạt các phương pháp hay các pháp môn để cho những người có duyên với chánh pháp tự mình thăm dò vào đời sống nội tâm thâm sâu nhất của chính họ. Đến nay, phương pháp này vẫn được biểu hiện trong sinh hoạt của già lam, tự viện qua các khóa lễ quy y Tam Bảo (quay về nương tựa). Theo đó, bước đầu chúng ta có thể quy y theo Phật, Pháp, Tăng bên ngoài, nhưng cuối cùng, nền tảng chính vẫn là quay về nương tựa hay quy y với tâm Phật của chính mình. Theo Thiền tông, quy y Tam Bảo nghĩa là quay về nương tựa vị Phật bên trong, cũng chính là tánh giác của mỗi người (quy y Phật); quay về với tâm chân chánh của mỗi người (quy y Pháp) và quay về với tâm thanh tịnh của mỗi chúng ta (quy y Tăng).

Có thể nói phần lớn chúng ta đến với đạo do cảm tính hơn là lý tính; vì thấy vui mà đến với đạo, hay buồn khổ mà đến với đạo hoặc vì cảm tình với vị thầy này, với sư kia mà đến với đạo. Đến chùa vì nơi đó có không gian yên tĩnh, nơi đó cho mình một chút an bình, tịnh lạc, một chút niềm vui trong cuộc sống. Điều này không hẳn là sai, nhưng nếu ta chỉ sống với những gì nông cạn như thế thì chỉ trong một thời gian ngắn ta sẽ chán đạo. Cảm tính là phần rất cạn của đời sống tâm lý thường đi kèm với những vui buồn, thương ghét, khen chê... lắc lư như thuyền nhảy sóng.

Ý nghĩa đích thực của việc quy y Tam bảo là chúng ta bước sâu vào vùng đất tâm, quay về nương tựa nơi chính mình, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng là chúng ta đang quay về về nguồn cội - nguồn cội tâm linh. Làm được như vậy thì dù Tam Bảo bên ngoài có dễ thương hay không, Phật pháp thịnh hay suy không còn là điều quan trọng. Dù cho ngũ dục trần gian có lôi kéo, những chướng ngại có cản đường, cũng không ảnh hưởng gì đến ta, bởi chúng ta đã có một vùng đất tâm linh an ổn, vững vàng để cư trú, để nương tựa. Ta nương tựa với Tam Bảo ngay trong ta và nương tựa vào chính trạng thái Niết bàn của ta. Lúc bấy giờ, dù sống trong lều tranh, ăn cơm hẩm, uống nước suối ta vẫn thấy tuyệt vời lý thú vì đời sống ta đã thật sự thong dong, phiều bồng không vướng bận.

Người tu khi thấu đạt đạo lý, đến được nguồn xưa cũng có nghĩa là về lại chốn sâu thẳm của nguồn linh, tánh giác. Người xuất gia an trú được nơi nguồn cội đó thì mọi Phật sự lớn, nhỏ trong nhân gian chỉ xem như một trò chơi, dù có đem thân vào phố chợ thuyết pháp, giảng kinh, hoặc ngồi một mình trong rừng sâu núi thẳm cũng đều thấy lòng phơi phới. Được ngàn vạn người tôn kính cúng dường, hoặc bị nhục mạ xem thường cũng cảm thấy như một trò đùa. Nếu các vị cư sĩ mà thâm đạt vào vùng đất tâm của chính mình thì lúc ấy, nhà cao, cửa rộng, tiền của, danh vọng, người thân đang vây quanh buộc ràng như ngục tù, phiền trược... cũng trở nên nhẹ tênh. Dĩ nhiên, quy y Tam Bảo bên ngoài là những bước tu tập căn bản và rất quan trọng trên con đường về nguồn của chúng ta. Cũng như khi muốn đi hết một con đường dài, thì chúng ta không thể không khởi hành với những bước ban đầu thật vững chãi.

Về nguồn trong ý nghĩa thâm ái nhất là an trú vào sâu thẳm tâm linh. Và bốn câu đầu trong bài sám Ngã Niệm mà các giới tử thọ giới Tỳ kheo thường đọc sau thời Lăng Nghiêm có thể làm sáng tỏ thêm ý nghĩa này. Lời sám thống thiết, lâm ly mà mỗi khi tụng lên có thể khiến lòng mình rung động:
  • Ngã niệm tự tùng vô lượng kiếp
    Thất viên minh tánh tác trần lao
    Xuất sinh nhập tử thọ luân hồi
    Dị trạng hình thù tao khổ sở.
Tạm dịch:

Con nhớ rằng con đã từ vô lượng kiếp, bỏ quên tánh giác ngộ trong con mà đi vào cuộc trần lao. Vào sinh ra tử lăn lộn trong cõi luân hồi, đã thay hình đổi dạng biết bao lần trong khổ nạn (làm người, làm thú, làm ngạ quỷ...).

Hình hài này có được là từ sự phối hợp của tinh cha, huyết mẹ. Ta tồn tại đến ngày nay là nhờ các pháp hữu vi nuôi dưỡng (gạo cơm, khí trời, ánh nắng...). Nhưng nhìn xa hơn thì ta từ đâu mà tượng hình trong thai mẹ? Ta có thể trả lời là từ nghiệp thức. Nhưng lần tìm phía sau nghiệp thức thì ta ở đâu? Chúng ta chưa thăm dò được. Khi nào chúng ta thắp sáng được nguồn tâm thì có thể thăm dò vào sau tầng nghiệp thức để biết ta từ đâu đến và khi trả hình hài này cho cát bụi ta về đâu. Chúng ta thường đặt ra những nghi vấn, những thắc mắc như đang ở trong cõi mộng và nói chuyện mộng, vì chưa chịu quay về tự tâm để thấu đạt nguồn linh tánh giác của mình. Nhưng có một điều chắc chắn rằng mọi pháp hữu vi trên đời đều sinh ra từ nền tảng của pháp vô vi.

Thực tế cũng đã chứng minh cho ta thấy sông núi, cỏ cây, nhà cửa... đều có mặt từ không gian bao la này. Không có không gian trống rỗng thì không vật gì có thể sinh ra được, kể cả những hạt bụi li ti. Sau vụ "nổ lớn" tạo thành những hành tinh, những dãy thiên hà.... thì sự sống dần dần có mặt. Đầu tiên là các loại tảo dưới đáy biển, hình thành sự sống của những tinh thể đơn bào, tiến dần đến hình thành những sinh vật biết bò, sống nửa ướt nửa khô hội nhập vào thảm thực vật trải dài trên mặt địa cầu - sự sống sinh động bắt đầu có mặt. Và con người là loài động vật xuất hiện sau cùng.

Người ta đã nghiên cứu bằng cách phân tích cấu trúc não bộ của con người và cho rằng tuổi thọ của con người chỉ có bốn triệu năm. Thế nhưng sự tồn tại của tâm thức, nghiệp thức con người không phải chỉ ngần ấy thời gian, mà nó đã có mặt hằng triệu triệu năm trong cõi luân hồi. Không phải chỉ nhờ vào những yếu tố hữu vi (cha mẹ, khí trời, thức ăn...) để cho ta có thể hiện diện trên cõi đời, mà từ quá khứ lâu xa hơn, nghiệp lực đã đưa ta có mặt và sâu hơn cấp độ nghiệp lực, đó chính là nguồn linh tánh giác nuôi dưỡng chúng ta. Điều này mới nghe qua có thể ta thấy khó hiểu, nhưng thực tế rất đơn giản. Thử nhìn vào thiên nhiên ở bình diện cạn, chẳng hạn như mặt đất sinh ra cây cỏ, thế nhưng đất không thể tự nó sinh ra cây cỏ được; phải là một cái gì đó sâu hơn, nằm phía sau, bên trong đất mới tạo nên thảo mộc, cỏ cây. Sự tồn tại của con người chúng ta cũng vậy, không phải chỉ nhờ vào những điều kiện ta có thể nắm bắt, đo lường như cơm áo, nhà cửa... mà nhìn xa hơn, những gì ta phải nhờ đến đó là nước, không khí cho ta sự sống, và mịn hơn là ánh sáng, là năng lượng mặt trời. Cho nên những gì làm cho sự sống luân lưu thường rất tinh mịn, vi tế, mắt chúng ta khó thấy được, chỉ có thể cảm nhận mà thôi.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao từ nguồn linh tánh giác ta lại lạc vào chốn trần lao? Rõ ràng, nếu lần dò được nơi chốn ta đã lạc lối, chắc chắn ta sẽ tìm ra được con đường trở về. Tuy chưa tiếp xúc được với nguồn linh tánh giác của mình, nhưng ta có thể nhận biết được nguyên nhân từ đâu có buồn khổ, từ đâu có giận hờn, từ đâu có bất an. Và ta cũng có thể nhận ra được những cảm thọ nảy sinh ra từ đâu; và khi lần bước vào sâu hơn, ta sẽ nhận biết con người đích thực của ta không phải từ nguồn chảy vui buồn, giận hờn, bất an đó. Đây chính là con đường trở về nguồn cội của chúng ta.

Khi trong ta khởi lên tiếng nói thì thầm, lập tức có vui buồn, lo âu, sợ hãi, thương ghét... phát sinh theo. Các tâm hành này sinh diệt liên tục không ngừng và chúng là tác nhân hủy phá, làm chìm lấp tâm thanh tịnh vốn có của mình. Chỉ một thoáng nhìn thôi là quá khứ tràn về, tiềng thầm thì sinh khởi dẫn dắt ta chìm nổi, đồng hóa, đánh mất mình trong đó, cho nên nói: "... tự tùng vô lượng kiếp, thất viên minh tánh tác trần lao" là như vậy. Cho nên một bước sẩy chân không phải chỉ trong lúc này mà ta đã sẩy chân từ triệu triệu kiếp. Rõ ràng con đường này từ quá khứ đã dẫn ta đến hôm nay, và còn hứa hẹn dẫn ta đi hoài trong sinh tử. Do vậy có thể nói tiếng thầm, độc thoại, đối thoại trong ta là nhân tố gây nên bao nỗi sầu đau, phiền não, làm cho ta mất đi "tánh viên minh", khiến cho ta nổi chìm nhiều đời nhiều kiếp. Khi nhận ra được nguyên nhân này, ta có thể tin rằng ta đã thăm dò được vào chiều sâu của tâm thức, mở được cánh cửa thể tánh giác ngộ, bước thẳng về nguồn. Khi ấy, tất cả đến đi, mất còn của đời sống bên ngoài chỉ là bọt sóng, là sương mai đầu ngọn cỏ, không có gì làm cho ta chao đảo, lo sợ. Ý nghĩ thầm thì vẫn trôi chảy miên man, nhưng trong ta có cái vẫn đứng yên, đó là cái nhìn, cái thấy, khả năng quán chiếu, nhận biết của chúng ta. Nói ngắn gọn là cái "biết" của ta. Tự thân của những chữ "nguồn linh tánh giác" đã nói lên điều này.

Chúng ta quay về an trú ngay nơi nguồn linh tánh giác của mình là có thể lìa được buồn giận, lo lắng, bất an. Sâu hơn nữa là gột sạch nghiệp thức của nhiều đời. Cuối cùng, như đức Thế Tôn dạy: "Củi hết, lửa tắt", nghĩa là hết phiền não, sầu lo thì "tánh giác viên minh" hiển hiện. Một khi có hình hài thì có sinh diệt, nghiệp thức còn thì có đến có đi, có vui có buồn... Trái lại, khi chúng ta tan biến vào bản thể của tánh giác mênh mông thì không còn gì có thể đeo bám, ở đó không có trong, không có ngoài, bởi nơi chốn ấy như như bất động. Ngay bây giờ và ở đây, ta là trạng thái tỉnh sáng, rỗng lặng của nhận biết, ta là nguồn linh tự tánh của chính ta. Ta không cầu sinh về cảnh giới Dược Sư, cũng không mong cảnh giới Cực Lạc của A Di Đà. Ta chỉ hòa mình vào biển giác, tan biến vào đó chứ chẳng có gì gọi là chứng quả.

Chúng ta đừng nghĩ rằng chỉ có người tu hay giới xuất gia mới làm được điều này. Ngày xưa, đức Phật sau khi thành đạo, ngài nói: "Mọi chúng sanh trên hành tinh này đều có chủng tánh Như Lai", tức là có khả năng chứng nghiệm trạng thái Niết bàn nơi tự tâm. Vấn đề là chúng ta có thật sự mong muốn khám phá chiều sâu của lòng mình hay không mà thôi.

Chuyện xưa kể, có hai người bạn tên là Lưu Thần và Nguyễn Triệu, nhân đi hái thuốc mà lạc bước vào động Thiên Thai. Đời sống tiên cảnh tuy sung sướng, hoan lạc nhưng một thời gian sau, hai người cảm thấy nhớ nhà, nhớ nhân gian nên muốn quay về. Khi chia tay hai tiên nữ Ngọc Kiều và Giáng Tiên, hay chàng hứa sẽ quay trở lại. Về đến quê cũ hai người thấy ngôi làng ngày xưa nay đã đổi thay, tiêu điều, hoang vắng, không giống như ngày hai người ra đi. Làng xóm toàn người xa lạ, không còn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu - Nguyễn. Tìm người để hỏi thì chỉ thấy một cụ già. Cụ già cho biết cách đây bốn trăm năm, cụ có một ông tổ bảy đời tên là Nguyễn Triệu, nhân tiết Đoan ngọ vào rừng hái thuốc rồi biệt tích. Bấy giờ Lưu - Nguyễn mới biết một ngày trên tiên giới bằng một năm ở trần gian. Những người cùng thời với hai chàng nay đã trở thành quá xa xưa. Hai người bơ vơ, bàng hoàng, nuối tiếc bèn tìm trở lại động Thiên Thai. Nhưng thương thay, cửa động đã khóa tự bao giờ, lối cũ vườn xưa nay không còn dấu vết. Mịt mù sương giăng đầu núi, cỏ xanh tràn lấp không tìm thấy lối về. Tất cả chỉ còn là bóng hình trong trí tưởng, chỉ còn lại mảnh trăng non lạc loài, chơi vơi cùng năm tháng. Cảm tác từ câu chuyện trên, thi sĩ Tản Đà đã làm bài thơ Tống Biệt với những câu:
  • .. Nửa năm tiên cảnh
    Một bước trần ai
    Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
    . . . . . . . .
    Cửa động
    Đầu non
    Hình bóng cũ
    Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Ta thấy Lưu Thần - Nguyễn Triệu muốn quay về cả hai nơi: quê cũ ở nhân gian và động Thiên Thai, nhưng thật nghiệt ngã, cả hai nơi ấy đều trở thành xa lạ, đều trở thành mơ, chỉ còn mù mịt kỷ niệm và cuối cùng hai chàng không có lối về. Dưới cái nhìn của đạo Phật, chúng ta từ "nguồn linh tánh giác" lưu lạc vào cõi tử sinh, nhưng vẫn có con đường cho chúng ta trở lại. Và con đường trở lại ấy rất ngắn. Có điều chúng ta có muốn trở lại hay không mà thôi. Không những kinh điển Đại thừa đề cập đến vấn đề này, mà ngay trong truyền thống Thiền cũng đã nói lên rất cụ thể và dễ hiểu. Đây là con đường ngắn nhất để chúng ta trở về "động tiên". Dĩ nhiên, đây không phải là chốn Đào nguyên của Lưu Thần - Nguyễn Triệu, mà động tiên để chúng ta trở lại là suối nguồn tự tâm.

Các truyền thống thiền của Phật giáo dù là Nguyên Thủy hay Đông Độ có mở ra cho chúng ta một con đường để đến được đầu nguồn của sự sống, đó là con đường thiền tập. Bước đầu ta tập chăm chú vào hơi thở cho thân không còn trạo cử, và cũng làm cho chính hơi thở trở nên nhẹ nhàng hơn. Đây là phương pháp thực tập căn bản đầu tiên để đem tâm về lại với thân. Khi thân và tâm về lại một mối, yên tĩnh, quân bình là ta có thể ý thức được một cách sâu sắc mọi trạng thái của thân hành. Thực tập được bước căn bản này là chúng ta đã thiết lập một chân đế vững chắc cho sự tu học. Khi chúng ta thực tập quán niệm thân hành đạt đến mức thuần thục thì việc thực hành quán niệm về cảm thọ, quán niệm về tâm hành, quán niệm về các pháp cũng sẽ dễ dàng thành công. Niệm thân không thành thục thì niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp cũng không thể thành thục được. Không có một vị thiền sư, vị thầy nào giỏi mà không đi ngang qua bước căn bản này.

Đây là điều mà ai trong chúng ta cũng có thể thực tập được, kinh nghiệm được. Khi chúng ta để tâm quán niệm toàn thân, mời tánh biết của mình ở lại với thân là ta đã kích thích từng tế bào trong thân mình sống dậy, khiến trở nên linh hoạt và bén nhạy hơn. Một khi chúng ta chưa làm chủ được thân, chưa là cho thân an thì không thể làm chủ được tâm, làm cho tâm an được. Đó là phương pháp nhiệm mầu để nuôi dưỡng chính mình; nuôi dưỡng thân, nuôi dưỡng tâm, nuôi dưỡng cảm thọ.

Cảm thọ là một tâm hành luôn có mặt trong đời sống của chúng ta. Không có con người nào không được nuôi dưỡng bằng cảm thọ. Trong lãnh vực tâm lý, người ta đã xác định rõ điều này. Một người bị bệnh tim, nhưng nếu có tình yêu thực sự trong lòng, người ấy cũng sống được rất lâu. Vì vậy, cảm thọ đứng về mặt tích cực, nó có năng lực rất lớn và mầu nhiệm; nó có thể vực dậy được hình hài, nuôi dưỡng thọ mạng. Trong chúng ta chắc chắn có nhiều người đã từng nếm qua cảm thọ hỷ lạc, và cảm thọ này có công năng kéo dài lòng nhiệt tình tu tập của chúng ta. Có những niềm vui làm cho người ta hưng phấn suốt đời người. Có khi người sắp chết nhưng cảm thọ thương yêu đến với họ, nẩy sinh trong trái tim họ thì cũng có thể kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Thực tế cho thấy đời sống con người phần lớn được nuôi dưỡng bằng cảm thọ.

Thôi Hộ là nhà thơ nổi tiếng vào đời Đường (Trung Quốc). Ngày nọ, Thôi Hộ đi đến một vùng quê loạn lạc, ghé vào nhà kia xin nước uống. Một cô gái mở cửa đưa cho chàng ly nước. Giữa nắng xuân, dưới hàng hoa đào, đôi má người con gái rực hồng, thắm còn hơn màu hoa. Người thơ bàng hoàng, ngẩn ngơ, ngây dại trước nhan sắc thiếu nữ. Và người con gái cũng cảm thấy lòng mình rung động. Sau đó chàng thi sĩ giã từ, về lại kinh thành. Năm sau, cũng vào mùa hoa đào nở, Thôi Hộ trở lại chốn cũ tìm người con gái năm xưa nhưng không gặp, chàng để lại bốn câu thơ đề trên vách. Năm sau chàng lại về, cũng hàng đào tươi thắm trong gió xuân, nhưng không gian, cảnh vật đượm màu tang thương. Chàng nghe có tiếng khóc cụ già trong nhà, lần hỏi thì được biết, người con gái trở về sau chuyến tản cư, nàng đọc được những câu thơ rồi lòng luôn ngày đêm trong ngóng, đợi chờ người đề thơ nhưng chờ hoài chẳng thấy; nàng vừa mới qua đời. Chàng cho biết mình là người làm bài thơ và xin được vào thăm. Ngồi xuống bên người con gái vừa nhắm mắt, những giọt nước mắt của chàng đã nhỏ xuống. Kỳ diệu thay, người con gái tỉnh dậy. Và chúng ta có bốn câu thơ bất hủ truyền lại đến tận bây giờ:
  • Khứ niên kim nhật thử môn trung
    Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
    Nhân diện bất tri hà xứ khứ
    Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

    Hôm nay năm ngoái cửa cài
    Hoa đào ánh với mặt người hồng tươi
    Nay người chẳng biết đâu rồi
    Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông.

    (Trần Trọng Kim dịch)
Rõ ràng cảm thọ không chỉ nuôi dưỡng đời sống mà còn khả năng cứu sống con người. Thế nhưng, điều quan trọng chúng ta cần chia sẻ ở đây đó là làm thế nào khi cảm thọ có mặt thì sự quan sát, nhận biết của chúng ta cũng tức thì có mặt. Nếu không chúng ta sẽ bị cuốn trôi, mất mình vào các cảm thọ. Một người có mặt nơi trần gian đã được tạo hóa cài sẵn trong họ loại cảm thọ hạnh phúc. Tuy vậy, bất cứ lúc nào chúng ta đón nhận hạnh phúc, đón nhận niềm yêu thương thì khổ đau, bất toàn cũng sẽ có mặt. Ấy là điều tự nhiên.

Thế nên, trên con đường về nguồn, nếu thông minh thì chúng ta không để mình chìm vào những cảm thọ vui buồn. Nói như thế không có nghĩa là đời sống chúng ta không được quyền thưởng lãm những vui buồn của nhân thế, mà ở đây có điều khác biệt; người tu chúng ta là chứng nhân nhận biết cảm thọ vui buồn, mà không phải là cảm thọ vui buồn. Như vậy là ta đã tìm được con đường về với nguồn linh tánh giác của chính mình.
- HẾT -


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]153 khách