Chương 8
BIỆN MINH SONG TU
Song tu là tu phước và tu huệ. Trong giáo lý nói: "Tu phước không tu tuệ thì mang thân voi được trang sức anh lạc; tu tuệ không tu phước thì La hán chẳng có đầy đủ vật cúng dường. Trang nghiêm cả hai phước và tuệ mới có thể thành tựu chánh giác". Bậc cao đức ngày xưa nói: "Phước không thể không làm, tuệ không thể không học".BIỆN MINH SONG TU
Long Thơ Tịnh Độ nói: "Người tu Tịnh Độ tuy chuyên lấy niệm Phật làm sự thực hành, nhưng cũng cần phải gồm tu phước tuệ mới mong được sự, lý dung thông".
Bên trong thì tu tuệ hàm dưỡng rốt ráo, thấu suốt cội nguồn, khiến cho trí tuệ tăng trưởng, rộng lớn bao trùm khắp hư không, không việc gì mà chẳng biết, không vật gì mà chẳng chiếu soi. Bên ngoài thì tu phước, từ bi phương tiện, nhu hòa khéo tùy thuận, làm lợi ích giúp đời, thấy tất cả mọi người đều cung kính như nhau, tùy căn cơ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, làm tất cả việc lành. Đó là phước tuệ song tu.
Nay, có một hạng người ngu, thường thực hànhgiáo lý khác lạ, dối xưng là đệ tử của Liên tông. Họ chỉ dạy song tu sai trái, âm thầm làm việc dâm dục, tạo nghiệp địa ngục, làm cho người tốt bị mê lầm, chìm đắm trong dục lạc, cam chịu rơi vào vực sâu hiểm ác. Như thế, thật quá sai lầm! Chúng đích thực là loài hồ mị yêu tinh, nào khác gì súc sinh! Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu các chúng sinh không có tâm dâm thì không theo dòng sanh tử. Ông tu chánh định vốn muốn ra khỏi trần lao mà không trừ bỏ tâm dâm thì trần lao không thể ra khỏi. Dù có nhiều trí huệ ắt phải rơi vào đường ma, thượng phẩm thường làm ma vương, trung phẩm làm ma dân, hạ phẩm làm ma nữ.
Các người tu hành, trước phải đoạn trừ dâm tâm. Đó gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh quyết định bậc nhất của Thế Tôn và chư Phật thuở trước. Nếu không đoạn dứt dâm dục mà tu về Bồ đề, cũng như nấu cát muốn thành cơm, dầu phải trải qua trăm ngàn kiếp rốt cuộc vẫn chẳng được gọi là cơm. Ông lấy thân dâm dục mà cầu quả Phật nhiệm mầu, cho dù được diệu ngộ nhưng đều là cội gốc của dâm dục. Cội gốc đã là dâm dục thì xoay vần trong ba đường, rốt cuộc không thể thoát ra được. Vậy thì Niết bàn của Như Lai từ con đường nào tu chứng? Thế nên, phải khiến cho sự dâm dục của thân và tâm đều dứt, tánh đoạn dứt cũng không thì đối với quả Bồ đề của Phật mới có thể mong đợi. Như những điều ta nói, đó gọi là lời Phật nói, trái lại tức là lời của ma Ba Tuần(149).
Nay, khuyên Bồ tát tại gia nên y theo giới luật tu hành, đừng phạm vào tà vạy sai quấy, tâm thanh tịnh ít dục, phước huệ song tu, hồi hướng về Tây phương, Long Thơ Tịnh Độ nói:
- Tu phước, lại tu tuệ
Tin sâu, niệm Di Đà
Sẽ sinh Thượng Thượng phẩm
Chắc chắn chẳng còn nghi.
- CHÚ THÍCH:
Chương 9
BIỆN MINH BA XE
Phẩm Thí dụ trong kinh Pháp Hoa nói: "Nếu có những chúng sanh tư nơi Phật nghe pháp tin nhận, ân cần tinh tấn cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, giống như những người con kia vì cần xe trâu mà ra khỏi nhà lửa".BIỆN MINH BA XE
Nên biết các người con là chỉ cho chúng sanh, nhà lửa dụ cho ba cõi, ba xe dụ cho ba thừa. Như Lai thấy chúng sanh ở trong ba cõi không toát ra được nên nói pháp ba thừa, dẫn dắt khiến họ thoát khổ não. Ví như các người con đùa giỡn trong nhà lửa, Trưởng giả dùng ba thứ xe để dẫn dụ họ thoát ra.
Có hạng người ngu mê giả dặt nói rằng: Văn Thù hỏi Phật, vọng bảo: tánh là xe trâu, tâm là xe dê, còn ý là xe hươu. Lại nói xe trâu chở diệu pháp, xe dê chở liên hoa, xe hươu chở kinh. Thật là thượng vị đề hồ hiếm quí trên đời, gặp bọn người này trở thành độc dược.
Kinh Pháp Hoa là vua các pháp, được chư Phật hộ niệm, đâu thể bàn luận bừa bãi như thế! Chẳng ngờ tà sư hiểu lầm, lấy quấy làm phải, lấy phải làm quấy, pháp lại nói là phi pháp, phi pháp lại nói là pháp, lừa dối mọi người, hủy báng Phật pháp. Như thế, há chẳng phải là mang tội lớn ngũ nghịch hay sao? Kinh Pháp Hoa nói: "Nếu có người hủy báng kinh này, nên biết người ấy sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ đầy đủ một kiếp, hết kiếp lại thọ sanh, lần lượt như thế cho đến vô số kiếp. Từ địa ngục ra sẽ rơi vào loài súc sanh, do hủy báng kinh này nên mắc tội như thế".
Xét kỹ những điều này thật đáng xót xa. Vì thế mà tôi dám dùng lời chân thật tuyên cáo thống thiết với các đạo hữu. Nay ở trong tâm của chính mình mà khai thị ngộ nhập Tri kiến Phật thì tâm này thanh tịnh như hoa sen nở, đó gọi là Pháp Hoa Tam muội. Người tỏ ngộ lý này tức là ngồi xe trâu trắng ra khỏi nhà lửa Tam giới. Đâu không thấy thiền sư Pháp Đạt tham kiến Lục Tổ trình kệ:
- Tụng kinh ba ngàn bộ
Tào Khê một câu quên
Chưa rõ ý xuất thế
Nào dứt sự điên cuồng.
Dê, hươu, trâu tạm đặt
Đầu, giữa, sau khéo bày
Ai biêt trong nhà lửa
Nguyên là bậc Pháp vương.
- Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng lâu không thấu suốt
Nơi nghĩa thành oán thù
Vô niệm, niệm là chánh
Hữu niệm niệm thành tà
Nếu hiểu được như thế
Ngồi mãi Bạch ngưu xa.
Chương 10
BIỆN MINH BA QUAN ẢI
Ba quan ải là lời dạy chúng của thiền sư Đâu Suất Duyệt:BIỆN MINH BA QUAN ẢI
Nhọc nhằn tìm cầu thiện tri thức chỉ mong thấy tánh. Hiện nay bản tánh của Thượng tọa ở đâu?
Rõ được bản tánh thì phải thoát sanh tử. Lúc sanh tử đến thì làm sao thoát được?
Thoát được sanh tử phải biết chỗ đi. Khi tứ đại phân ly thì đi đâu?
Thế nên, người thấu suốt quan ải, chẳng còn bị ràng buộc bởi sanh tử, người tỏ rõ đạo lý nào này ắt không trở ngại việc đến đi. Do vậy, những tòng lâm trong thiên hạ, các bậc đại Tôn Túc đều xét thấu cội nguồn nên có thể hoàn toàn minh bạch, ý chỉ rõ ràng, quyết không có những thuyết khác lạ.
Nay, có hạng người ngu mê, vọng chỉ ba đơn điền nơi thân người là ba quan ải ở bên trong, dạy người vận chuyển khí huyết gọi đó là thấu qua ba quan ải. Lại nói rằng: từ chân đến hông, ba chỗ đau đớm là ba quan ải ở bên ngoài, vọng lấy chỗ đó mà đoán định lúc lâm chung. Thế gian phần nhiều truyền bá tập làm theo, ai nấy đều đi vào đường tà!
Xét kỹ, giáo lý niệm Phật là pháp môn thẳng tắt, chỉ dạy người tu hành ở trong hai mươi bốn giờ trì niệm một câu A Di Đà, tư tưởng chuyên nhất lặng lẽ, lại có thể soi sáng mình xem cái gì là bản tánh Di Đà của ta, khi tứ đại phân ly sẽ đi về đâu? Thường có mối nghi ngờ này thì một hôm bỗng nhiên rõ được, liền biết chỗ tột cùng. Ngay đó tức là con đường chân chánh tu hành, tỉnh lực trực tiếp. Ngoài chỗ này ra, vừa có dính dáng đến mảy may dị thuyết thì liền rơi vào rừng rậm tà kiến.
Than ôi! Kẻ ngu mê trái chân theo vọng, thật đáng thương xót! Nếu như tin được điều này, cắt đứt dây mơ rễ má, ắt mở sáng con mắt, thấu suốt đất trời, nhìn thấu tâm tưởng là vọng.
Chương 11
BIỆN MINH ĐẠI THỪA, TIỂU THỪA
Bậc đại Pháp vương kiến lập sự giáo hóa, thâu nhiếp mọi căn cơ. Mỗi mỗi giáo pháp được lập ra đều có tác dụng, luật Tiểu thừa giống như quyền hạn của lễ bộ hình bộ; Đại thừa giống như đảm trách việc cầm cân nẩy mực để được quân bình; làm những việc phước giống như vị quan trông coi việc vận chuyển lương thực; soạn thuật giống như người nắm giữ lời nói của nhà vua, trăm quan lại trong quốc gia đều thực hành đâu vào đấy, giống như các tông phái trong Phật giáo cùng nhau truyền bá. Nếu hiểu rõ ý nghĩa này, đâu còn chấp vào dị đoan. Cần phải lường xét tài năng của mình, tùy sức truyền bá rộng rãi. Gặp thời làm lành cứu giúp mọi người, lúc khốn cùng chuyên lo tu tập. Tuy ai nấy truyền bá tông phong nhưng đều phát xuất từ lòng từ bi tế độ, đồng trở về biển cả hòa hợp, chung nhau ngồi trên giường giải thoát. Nếu như thế tức là kim chỉ nam trên đường mê, là bậc tuyên dương chánh pháp trong giáo môn.BIỆN MINH ĐẠI THỪA, TIỂU THỪA
Biết làm thế nào! Nguồn xa dòng khác nên đại đạo lu mờ. Người thích màu đỏ thì ghét màu tía, kẻ ưa ngọt lại ghét đắng, chưa thấu suốt chỗ viên dung, ai náy đèu ở nơi chỗ y cứ của mình mà lường xét. Đâu biết chúng sanh và Phật vốn đồng nhất, bản tánh Thánh phàm bình đẳng, nhưng họ không thể trở về tự tánh bởi do mê muội đối với thân tâm, bị ràng buộc trong sanh tử.
Thế nên biết, sự xấu ác và lỗi lầm của thân nếu không có giới luật không thể kiểm soát, sự hôn trầm và tán loạn nơi tâm, nếu không có thiền định và trí tuệ thì chẳng thể tiêu trừ. Kiếm xét lỗi lầm xấu ác của thân, tiêu trừ hôn trầm tán loạn nơi tâm mà vẫn còn lo đạo không sáng tỏ, chưa thể trở về tự tánh được, huống chi chôn vùi trong đường tà ma, phải quấy lẫn nhau!
Hoặc nói rằng: tôi học Tiểu thừa nhưng họ lại chẳng biết trì giới, bố thí, lễ bái, tụng niệm là pháp Tiệm tu. Hoặc nói rằng: tôi học Thượng thừa mà họ chẳng rõ yếu chỉ Di Đà tự tánh, Tịnh Độ duy tâm. Không vướng vào sự tướng thì lại rơi vào không ngơ, giống như kẻ bị mù bẩm sinh, ở vùng sâu xa, ngồi một góc chẳng biết Đông, Tây, Nam, Bắc; vọng sinh phân biệt kia sai đây đúng, kia đúng đây sai. Đó gọi là người nắm chặt đầu rắn chết, sai lầm nơi đường lối tu hành, ở nơi điều xấu ác không chừa việc gì, đối với sự hiểu biết và thực hành lại chẳng thấy gì đáng sợ, cho đến tích tập trở thành tánh, tự hủy diệt thân mình. Lúc mới học thì ngưỡng mộ Thánh hiền, nhưng rốt cuộc lại chìm trong xấu ác. Những kẻ như thế, thật đáng thương xót!
Thiền sư Vĩnh Minh nói:
- Ví như chim sẻ nào biết được tâm tư của thiên nga.
Tựa hồ ếch ngồi đáy giếng đâu lường nổi bể khơi rộng lớn.
Hoặc theo người khác mong cầu, giống như dùi băng tìm lửa.
Chỉ trở về chính mình mà hiểu rõ, cũng như từ sữa được tô.
Cẩn thận chớ dựng cờ ngã mạn, giăng lưới tà kiến.
Khinh lờn bậc tiên giác, làm mê hoặc người sau.