Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3.1 Giảng về Tông
Người vãng sanh trong ba bậc thượng trung hạ nói trong phẩm Ba Bậc Vãng Sanh kinh này, ai chẳng lấy phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm làm nhân. Hơn nữa, nguyện thứ mười chín của Phật Di Ðà là: ‘Nghe danh hiệu ta, phát Bồ Ðề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu ba la mật kiên cố chẳng thoái. Lại đem thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi ta, nhất tâm niệm ta ngày đêm chẳng dứt. Lúc lâm chung, ta cùng các Bồ Tát hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sanh cõi ta, làm Bồ Tát a duy việt trí’.
Nguyện thứ mười tám: ‘Nghe danh hiệu ta chí tâm tin ưa, bao nhiêu thiện căn, tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi ta, nhẫn đến mười niệm, nếu chẳng sanh về chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp’
Rõ ràng: nguyện thứ mười chín chú trọng phát Bồ Ðề tâm, một lòng niệm Phật. Nguyện 18 nhấn mạnh ‘chí tâm tin ưa, nhất hướng chuyên niệm’. Vì vậy, ta biết rằng ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ là tâm tủy của bổn nguyện Phật Di Ðà, là tông yếu của toàn bộ Ðại kinh, là chánh nhân ắt đủ để vãng sanh, là thuyền từ phương tiện độ sanh. Ðiều được Ðại kinh tôn sùng hoàn toàn là điểm này. Ðường trọng yếu tu hành chỉ có điểm này là thiết yếu, nên nó là tông của Ðại kinh vậy.

Ðàm Loan pháp sư viết trong Vãng Sanh Luận chú rằng:
‘Ba bậc vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ tuy hạnh có ưu, liệt, nhưng không ai chẳng phát tâm Bồ Ðề vô thượng. Tâm Bồ Ðề vô thượng này chính là tâm nguyện thành Phật, chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi có Phật. Vì vậy, nguyện sanh cõi An Lạc Tịnh Ðộ thì cần phải phát tâm Bồ Ðề vô thượng. Nếu ai chẳng phát tâm Bồ Ðề vô thượng, chỉ nghe cõi kia hưởng vui không gián đoạn, do vui thích mà nguyện sanh thì cũng chẳng được vãng sanh’.

An Lạc Tập viết:
Theo Tịnh Ðộ Luận của ngài Thiên Thân, phàm muốn phát tâm lãnh hội Vô Thượng Bồ Ðề thì có hai nghĩa:
Một là trước hết phải rời bỏ ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn, hai là cần biết ba pháp thuận Bồ Ðề môn.

Những gì là ba?
Một là nương theo trí huệ môn: chẳng cầu tự mình vui vì xa lìa ngã tâm tham trước tự thân.
Hai là nương từ bi môn: dẹp hết thảy khổ cho chúng sanh vì xa lìa tâm khiến chúng sanh chẳng an vui.
Ba là phương tiện môn: tâm xót thương hết thảy chúng sanh vì xa lìa tâm cung kính, cúng dường tự thân. Ấy gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề tâm.

Thuận Bồ Ðề môn là Bồ Tát xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn như trên liền được ba pháp tùy thuận Bồ Ðề môn. Những gì là ba?
Một là tâm vô nhiễm thanh tịnh chẳng vì thân mình cầu an vui. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh vô nhiễm, nếu vì tự thân cầu vui là trái với Bồ Ðề môn. Vì vậy tâm vô nhiễm thanh tịnh là thuận Bồ Ðề môn.
Hai là tâm an thanh tịnh vì dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh.
Ba là tâm vui thanh tịnh, muốn cho hết thảy chúng sanh được đại Bồ Ðề vậy, vì nhiếp thủ chúng sanh sanh cõi kia vậy.
Bồ Ðề là chỗ thường vui rốt ráo, nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sanh được cái thường vui rốt ráo thì trái nghịch Bồ Ðề môn. Cái thường vui rốt ráo ấy dựa vào đâu để có được? Cần phải dựa vào đại nghĩa môn. Ðại nghĩa môn là cõi nước An Lạc kia vậy. Thế nên, phải khiến họ nhất tâm chuyên chí nguyện sanh cõi kia, muốn cho họ chóng hiểu được vô thượng Bồ Ðề’.
Ngài Hải Ðông Nguyên Hiểu lại viết trong bộ Tông Yếu rằng: ‘Phát Bồ Ðề tâm chính là chánh nhân’. Ngài lại bảo: Phát Bồ Ðề tâm có hai loại
a). Một là theo sự phát tâm: ‘Phiền não vô biên nguyện đều đoạn hết, thiện pháp vô lượng nguyện đều tu hết, chúng sanh vô biên nguyện đều độ cả. Quả báo của tâm ấy tuy là Bồ Ðề mà hoa báo của nó là Tịnh Ðộ. Vì sao thế?
Bồ Ðề tâm lượng rộng lớn vô biên, xa rộng vô hạn nên cảm được y báo Tịnh Ðộ rộng lớn không ngằn mé, chánh báo thọ mạng lâu dài vô lượng. Ngoại trừ Bồ Ðề tâm, không có gì làm được như thế cả’.
b). Hai là thuận lý phát tâm: ‘Tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, dứt ngôn ngữ, bặt suy nghĩ. Tin hiểu như vậy, phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy có phiền não, pháp lành mà chẳng bài bác là không có gì để tu để đoạn’.
(22) T1


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Vì vậy, tuy nguyện đoạn hết, tu hết mà chẳng trái nghịch Vô Nguyện tam muội. Tuy nguyện độ hết vô lượng hữu tình mà chẳng có người hóa độ, kẻ được độ. Do vậy, có thể tùy thuận Không, Vô Tướng như kinh dạy: “Diệt độ vô lượng chúng sanh như vậy, nhưng thật chẳng có chúng sanh được diệt độ". Phát tâm như vậy công đức vô biên, dẫu cho chư Phật trọn kiếp diễn nói công đức người ấy còn chẳng nói hết nổi”.

Quán kinh còn dạy: ‘Muốn sanh cõi kia nên tu ba phước, Một là bố thí trì giới, hai là nhẫn nhục tinh tiến, Ba là phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến khích hành giả’. Lại dạy: ‘Nếu có chúng sanh nguyện sanh cõi kia, phát ba tâm liền được vãng sanh. Những gì là ba? Một là tâm chí thành, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Ðủ ba tâm thì ắt sanh cõi kia’.

Phát ba tâm này cũng chính là phát Bồ Ðề tâm. Hơn nữa, Mật tông chú trọng nhất là phát đại Bồ Ðề tâm. Giáo điển Bồ Ðề Tâm Nghĩa dạy: ‘Bồ Ðề tâm là cái gốc để thành Phật. Ðại sự nhân duyên không điều nào hơn được nó’.
Sách Bồ Ðề Tâm Luận lại giảng: ‘Bồ Ðề tâm này hàm chứa pháp công đức của hết thảy chư Phật. Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư của hết thảy. Nếu quay về gốc thì là cõi Mật Nghiêm, chẳng đứng dậy khỏi tòa mà thành tựu được hết thảy Phật sự’.
Lại khen ngợi Bồ Ðề tâm như sau: ‘Nếu ai cầu Phật huệ thông đạt Bồ Ðề tâm thì ngay nơi thân do cha mẹ sanh ra mau chứng địa vị Ðại Giác’.
Thêm nữa, vua của các kinh là kinh Hoa Nghiêm dạy: "Quên mất Bồ Ðề tâm tu các pháp lành thì là ma nghiệp". Phát tâm quan trọng chẳng thể ví dụ nổi.
Các vị như sư Nguyên Hiểu lấy phát Bồ Ðề tâm làm chánh nhân, niệm Phật làm trợ nhân. Các vị như Thiện Ðạo, Linh Chi của Trung Hoa và các sư Tịnh tông người Nhật cho Trì Danh là chánh hạnh, phát tâm là trợ hạnh. Hai thuyết nghịch nhau.
Liên Trì đại sư nói một cách dung hội trong Sớ Sao rằng: ‘Ðã dùng Trì Danh làm chánh hạnh, lại lấy Trì Danh làm phát Bồ Ðề tâm thì hòa hội được ý
kiến của cả hai phái’. Tôi nay đề xướng ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ là tông của kinh này, thật là gộp trọn ý kiến cả hai phái, lại còn quy nhiếp về trì danh, thật phù hợp với ý tổ Liên Trì. Vả lại, tám chữ trên, nói rộng thì chính như ý kiến của thiền sư Triệt Ngộ: ‘Thật vì sanh tử phát Bồ Ðề tâm, dùng thâm tín nguyện trì danh hiệu Phật’. Nói gọn thì như đại sư Ngẫu Ích đề xướng: ‘Tín, nguyện, trì danh’.

Sách Di Ðà Yếu Giải lấy tín nguyện trì danh làm tông, lại còn viết:
“Tín, nguyện, trì danh là yếu chỉ của cả bộ kinh. Tín, nguyện là huệ hạnh, trì danh là hành hạnh. Ðược vãng sanh hay không toàn là ở chỗ có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp toàn do trì danh sâu hay cạn. Vì thế, huệ hạnh để dẫn đường, hành hạnh là chánh tu, như mắt và chân liên quan với nhau”.
Lại còn viết: “Tin sâu phát nguyện chính là vô thượng Bồ Ðề. Hợp tín nguyện ấy lại thì đích thật là chỉ nam của Tịnh Ðộ. Do vậy, chấp trì danh hiệu là chánh hạnh... Kinh Ðại A Di Ðà cũng lấy phát Bồ Ðề nguyện làm trọng yếu, thật tương đồng với kinh này”.

Rõ ràng: ‘tín, nguyện, trì danh’ và ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ đúng là cùng một tông chỉ. Ðại sư Ngẫu Ích lấy ‘tín, nguyện, trì danh’ làm tông cho kinh Tiểu Bổn thì tông chỉ của hai bổn Ðại, Tiểu phải giống nhau. Vì vậy, bảo ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ là tông của kinh Ðại Bổn thật đúng là tuân phụng lời dạy của đại sư Ngẫu Ích.

Chữ Hướng trong ‘Nhất hướng chuyên niệm’ có nhiều nghĩa: - ngả theo một hướng mà tiến tới - lệch hẳn về một phía - một vị - gộp chung lại - một khoảng thời gian Do vậy, ‘nhất hướng chuyên niệm A Di Ðà Phật’ có nghĩa là chuyên nương theo pháp môn Trì Danh Niệm Phật này. ‘Nhất hướng chuyên niệm’ vốn là chữ lấy trong nguyện thứ mười tám: mười niệm ắt sanh. Di Ðà trong lúc tu nhân phát ra đại nguyện ‘mười niệm ắt vãng sanh’ nên hành nhân phát Bồ Ðề tâm nhất hướng chuyên niệm ắt được vãng sanh Tịnh Ðộ, chứng trọn vẹn diệu quả bất thoái.

Người vãng sanh bậc thượng, bậc trung, bậc hạ trong kinh đều do phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Ðà Phật mà vãng sanh Tịnh Ðộ Cực Lạc. Ấy là do giác ngộ là quả, tâm làm nhân, phương tiện rốt ráo phơi bày trọn vẹn nguyện hải nhất thừa của Di Ðà, sáu chữ hồng danh oai thần công đức chẳng thể nghĩ bàn. Hơn nữa, ‘nhất hướng chuyên niệm’ là như cổ đức dạy: ‘Thượng thì tận hình thọ, hạ thì mười niệm’. Thượng tận hình thọ là từ ngày phát tâm niệm Phật trở đi, chung thân niệm Phật thẳng đến một niệm tối hậu lúc lâm chung. Ðấy là bậc thượng. Còn bậc hạ chưa làm nổi như vậy, hoặc bởi chướng nặng, hoặc do bận rộn chẳng rảnh niệm nhiều thì mỗi ngày hành pháp Thập Niệm cũng là ‘nhất hướng chuyên niệm’. Còn bét nhất như trong Quán kinh nói: kẻ ngũ nghịch, thập ác lúc mạng sắp dứt, được nghe thánh giáo, chí tâm hối cải, mười niệm xưng danh cũng được vãng sanh, nên nói: mười niệm ắt sanh.

Hành giả nên biết: nhất hướng chuyên niệm là từ lúc bắt đầu phát tâm niệm Phật cho đến một niệm tối hậu, mà niệm quan trọng khẩn thiết nhất là niệm tối hậu. Như kẻ ác nghịch vừa nói trên đây, niệm Phật mười tiếng thì tiếng thứ nhất là sơ niệm, tiếng thứ mười là niệm cuối cùng, cũng là thẳng từ sơ phát tâm cho đến chết đều trì danh. Do vậy, phù hợp với tông chỉ nhất hướng chuyên niệm.
Trái lại, như có kẻ niệm Phật mấy mươi năm nếu lúc tối hậu bỏ lửng, khinh thị Trì Danh, đổi qua tu pháp khác, hoặc lúc lâm chung chẳng ưa Cực Lạc, luyến tiếc thế gian, chưa niệm Phật nổi thì chẳng gọi là nhất hướng chuyên niệm!

Nếu như ngờ rằng niệm Phật sao lại có công đức như thế, nên biết: do năng niệm, sở niệm đều là Thật Tướng vậy.
Sách Di Ðà Yếu Giải giảng: ‘Quang là theo chiều ngang chiếu khắp mười phương. Thọ là theo chiều dọc khắp cả ba đời. Ngang dọc hỗ tương đều là pháp giới thể. Ðem cả cái thể ấy làm thành thân và cõi của Phật Di Ðà, cũng đem cả cái thể ấy làm thành danh hiệu Di Ðà. Vì vậy, danh hiệu Di Ðà chính là bổn giác lý tánh của chúng sanh. Trì danh là Bổn Giác hợp với Thỉ Giác. Thỉ, Bổn chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng hai, nên một niệm tương ứng đức Phật của một niệm. Niệm niệm tương ứng với đức Phật trong niệm niệm’.
Do đoạn trên thấy được rằng: danh hiệu Di Ðà là pháp giới thể nên công đức của danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, danh hiệu tức là bổn giác lý tánh của chúng sanh. Khởi tâm niệm Phật là Thỉ Giác. Ðức Phật đang được mình niệm đây chính là Bổn Giác của ta. Do vậy, ta nói trì danh chính là Bổn Giác hợp với Thỉ Giác. Bởi vậy, niệm niệm tương ưng mà niệm niệm chính là Phật thì rõ ràng công đức trì danh chẳng thể nghĩ bàn.
Hơn nữa, theo Mật Ðiển, công đức của chỉ mình chữ A trong sáu chữ hồng danh đã là vô lượng. Ðại sư Hưng Giáo người Nhật giảng: ‘Từ chữ A lưu xuất hết thảy đà ra ni, từ hết thảy đà ra ni sanh ra hết thảy Phật’. Còn bảo: ‘Chơn ngôn chữ A là tâm của mười phương Phật. Pháp thân chư Phật cùng gia trì’ và: ‘Tỳ Lô Xá Na dùng chữ A này làm tạng bí mật’. Lại còn nói: ‘Ba thân chỉ nói một pháp chữ A, các kinh rộng khen công đức của pháp này. Nghe tên thoảng qua tai, các tội băng tiêu. Xướng âm, thấy mặt chữ, vạn đức như mây nhóm. Xem sơ qua mà tin thì dạo thẳng Tịnh Ðộ, tu sâu viên trí, chứng Phật đạo ngay hiện tại’.
Công đức của chữ A đã như thế, huống hồ là công đức của toàn danh hiệu Phật. Một câu Phật hiệu đây hạ thủ thật dễ, chẳng luận nam nữ trẻ già, chẳng biết ngu trí, rảnh, bận, ai cũng niệm được, kẻ nào cũng hành được. Danh chiêu vạn đức, cảm ứng mầu nhiệm khó nghĩ nổi. Từ hữu niệm khéo nhập vô niệm, ngay nơi tâm phàm nhanh chóng hiển lộ quả đức, đúng như Sớ Sao viết: ‘Ngang với chư thánh trong một lời, vượt ba a tăng kỳ kiếp trong một niệm’. Cực viên, cực đốn, quá sức giản dị, nên biết ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ chẳng chỉ là cương tông của kinh mà thật còn là chỉ quy của cả Ðại Tạng giáo.
(25) T1


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3.2 Giảng về Thú
Chỗ quy hướng của tông gọi là Thú. Chỗ thú hướng của ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ là vãng sanh Cực Lạc Tịnh Ðộ, chứng ba thứ bất thoái. Vì vậy, kinh này lấy sanh trọn vẹn bốn cõi Tịnh Ðộ, chóng lên địa vị bất thoái làm Thú.
Tịnh Ðộ có bốn cõi: Phàm Thánh Ðồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư, Thật Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang. Dưới đây sẽ giải thích sơ lược về tướng trạng vãng sanh bốn cõi.

* Cõi Phàm Thánh Ðồng Cư:
Cõi Phàm Thánh Ðồng Cư của thế giới Cực Lạc là đồng cư Tịnh Ðộ. Thế giới Sa Bà ta đang ở đây cũng là cõi Phàm Thánh Ðồng Cư. Cõi này cũng có phàm, có thánh, như Văn Thù thường hiện Ngũ Ðài, các A La Hán thường trụ Thiên Mục hoặc Nhạn Ðãng. Họ đều là bậc thánh cõi này, nhưng cõi đồng cư chúng ta đang ở là đồng cư uế độ. Vì vậy, tuy cùng mang tên đồng cư mà thật ra chẳng giống nhau.
Sách Yếu Giải giảng về cõi Ðồng Cư nơi đây như sau:
‘Do thật thánh (chỉ cho ba thánh quả Tiểu thừa) quá khứ có lậu nghiệp, quyền thánh (đại quyền thị hiện Bồ Tát) đại từ bi nguyện, nên phàm phu được ở chung với thánh nhân. Ðến khi thật thánh nát thân (niết bàn), cơ ứng hóa của quyền thánh hết (cơ duyên hóa độ đã hết) liền thăng, trầm khác xa, khổ, vui khác biệt vời vợi. Tuy là tạm giống, rốt cuộc không giống. Lại nữa, trong vòng trời đất, ít kẻ được thấy nghe. Nếu may mắn được gặp gỡ thì ít kẻ chịu thân cận, học hỏi. Hơn nữa, khi Phật tại thế thánh nhân dẫu đông, như của quý, như điềm lành, nhưng chẳng thể trọn khắp các cõi nước như các ngôi sao, như bụi trần. Vả lại, tuy đồng cư mà việc làm, thành tựu trọn chẳng giống nhau’. Theo lời giải thích của sách Yếu Giải, cõi Phàm Thánh Ðồng Cư của thế giới này kém Cực Lạc ở bốn điểm:

a) Tạm đồng: cõi này, ba quả vị đầu của Tiểu Thừa chứng A La Hán xong liền nhập tịch diệt. Cơđộ sanh của Ðại Quyền Bồ Tát đã hết thì liền chẳng thị hiện nữa. Do đó, phàm phu cõi này chỉ là tạm thời đồng cư, chẳng phải là rốt ráo. Còn đồng cư Tịnh Ðộ lại có thể cùng các Ðại Bồ Tát hội chung một chỗ cho đến khi thành Phật.
b) Khó gặp: Tuy có thánh giả hiện sống trong cõi này nhưng chẳng dễ gặp gỡ, thân cận. Còn ở Cực Lạc đều như thầy, như bạn, sáng, chiều cùng ở.
c) Hiếm hoi: Thánh giả như của quý, như điềm lành, hy hữu khó gặp, còn Cực Lạc thì ‘có nhiều nhất sanh bổ xứ, số ấy rất nhiều chẳng thể dùng toán số để biết nổi, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên a tăng kỳ’.
d) Việc làm chẳng đồng: Trong cõi này, thánh giả đều ở cảnh thánh, còn chúng sanh luân hồi sáu nẻo, thăng trầm vô định. Phàm thánh tuy cùng ở cõi này mà việc làm và thành tựu khác hẳn nhau. Ở Cực Lạc, cùng hết vô minh, cùng lên Diệu Giác, nên biết là đồng cư nơi Tịnh Ðộ vượt xa đồng cư cõi này vô lượng vô biên.

Hơn nữa, phàm ở cõi này gồm cả ba ác đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, còn đồng cư cõi kia ‘chẳng còn có cái tên ác đạo, nữa là thật có!’ Ðược vãng sanh, chẳng rớt vào ba ác đạo nữa, vĩnh viễn lìa nẻo ác, chẳng như chúng sanh cõi này trong biển sanh tử, thoạt vào thoạt ra, thoạt chìm, thoạt nổi, xoay vần trong ác đạo, hướng đến cái khổ đã lâu.
Về mặt thăng tấn thì như Yếu Giải nói: ‘Nên biết đại sự nhân duyên của bọn ta: một ải đồng cư thật khó thoát qua nhất’. Ấy là vì phàm phu cõi đồng cư này phải đoạn hai hoặc: Kiến, Tư mới đắc lậu tận thông, mới vượt khỏi dòng sanh tử, vượt thoát đồng cư tiến lên cõi Phương Tiện Hữu Dư. Ðấy là vượt tam giới theo chiều dọc, thật là việc khó.
Nay pháp môn vãng sanh bỏ đồng cư uế độ sanh về đồng cư Tịnh Ðộ, được sanh Cực Lạc liền đoạn sanh tử nên gọi là “vượt ngang tam giới” (hoành siêu tam giới). Người vãng sanh chẳng đợi đoạn hai hoặc: Kiến, Tư, chỉ cần phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm, liền được Phật nguyện ngầm gia bị, quyết được vãng sanh Tịnh Ðộ. Việc này rất dễ nên gọi đạo dễ hành. Phương tiện vượt thẳng như thế rất thù thắng hy hữu, mười phương không đâu bằng nổi. Do vậy, cõi Ðồng Cư của Cực Lạc vượt xa cõi Phật mười phương. Lại còn đới nghiệp vãng sanh: dẫu còn là phàm phu chẳng bị thoái chuyển, một đời thành Phật. Thế nên, vãng sanh đồng cư cũng là sanh trọn vẹn bốn cõi vậy.

* Phương Tiện Hữu Dư độ:
Nếu người niệm Phật dụng công sâu đậm: lìa được tâm tạp loạn, chuyên niệm một câu danh hiệu, tâm, miệng tương ưng, từng chữ phân minh, tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm, niệm niệm tiếp nối chẳng có gián đoạn. Niệm Phật như thế gọi là Sự nhất tâm. Nếu đạt đến cảnh giới này tuy chẳng
cầu đoạn hoặc mà kiến, tư phiền não tự nhiên đoạn mất. Từ Ðồng Cư uế độ cõi này sanh ngang sang cõi Phương Tiện Hữu Dư của Cực Lạc
(26) T1


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

* Thật Báo Trang Nghiêm độ:
Nếu nhớ Phật, niệm Phật rành rẽ phân minh, đi, đứng, nằm, ngồi chỉ có một niệm ấy, không còn niệm thứ hai, chẳng bị các niệm tham, sân, phiền não tạp loạn thì gọi là Sự nhất tâm. Trên mặt sự đã đạt nhưng về lý chưa thấu triệt, chỉ thuộc về Ðịnh môn, chưa có Huệ môn.

Nếu trên đầu sào trăm thước tiến thêm một bước, nơi bổn tánh mình chợt khế hợp, biết rõ năng niệm, sở niệm chỉ là nhất tâm, chẳng trụ hữu niệm, chẳng rớt vào vô niệm như Sớ Sao viết: ‘Nếu nói là có thì bổn thể của cái tâm năng niệm tự nó là không, đức Phật đang được mình niệm cũng trọn chẳng thể được. Nếu bảo là không thì tâm năng niệm sáng ngời chẳng lầm lẫn, đức Phật được niệm phân minh rạng ngời’.

Vô niệm mà niệm, niệm nhưng vô niệm. Nói, nghĩ dứt bặt, chẳng thể gọi tên, mô tả; chỉ là nhất tâm, thể vốn sẵn thanh tịnh, nào có pháp gì tạp loạn được. Ðấy gọi là Lý nhất tâm, thuộc về Huệ môn, kiêm cả đắc định. Niệm Phật nếu đạt đến lý nhất tâm, phá một phần vô minh thì sanh trong Thật Báo Trang Nghiêm độ, đồng thời chứng một phần Thường Tịch Quang độ.

Thật Báo Trang Nghiêm độ là nơi cư ngụ của Pháp Thân Ðại Sĩ. Các vị Ðại Sĩ từ Sơ Ðịa trong Biệt giáo, Sơ Trụ trong Viên giáo trở lên mới được sanh cõi ấy. Phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân mới sanh được cõi này.
Bậc Ðại Sĩ cõi ấy sắc tâm tự tại, thân và cõi ảnh hiện, trong một đầu lông hiện cõi Bảo Vương. Trong một hạt bụi chuyển đại pháp luân, xứng tánh trang nghiêm vô chướng, vô ngại. Bốn mươi địa vị Pháp Thân Ðại Sĩ từ bậc Bồ Tát sơ trụ trong Viên giáo cho đến Ðẳng Giác Bồ Tát đều thuộc cõi này. Mỗi địa vị đều chứng một phần Thường Tịch Quang độ.

* Thường Tịch Quang độ
Cõi Pháp Thân của Phật ngự được gọi là Thường Tịch Quang. Sách Yếu Giải viết: ‘Thể của Thật Tướng chẳng tịch chẳng chiếu. Tịch mà hằng chiếu, chiếu nhưng luôn tịch, chiếu mà tịch cưỡng gọi là Thường Tịch Quang. Tịch mà chiếu cưỡng gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân’. Vì vậy, thân và cõi chẳng hai; đều là cưỡng gọi. Tịch chiếu đồng thời chẳng phải là cảnh suy lường được.
Thêm nữa, ba chữ Thường Tịch Quang phơi bày trọn vẹn ba đức Niết Bàn của Như Lai bí tạng. Thường là Pháp Thân đức vì Pháp Thân thường trụ. Tịch là Giải Thoát đức vì trần lao vĩnh viễn tịch tĩnh. Quang là Bát Nhã đức do trí quang chiếu khắp.
Ðẳng Giác Ðại Sĩ phá sạch bốn mươi mốt phẩm vô minh, liền phá một phẩm sanh tướng vô minh tối hậu, Pháp Thân hiển lộ hoàn toàn, chứng trọn vẹn ba đức, triệt ngộ ngọn nguồn bổn tâm, rốt ráo thanh tịnh, chứng nhập Thường Tịch Quang độ.


Phàm phu đới nghiệp vãng sanh cõi Ðồng Cư, do gặp Phật dạy dỗ nên không thoái chuyển. Do thọ mạng vô lượng nên ngay trong một đời ấy đoạn trừ
trọn vẹn các hoặc, thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi Tịnh Ðộ. Do vậy, sanh cõi Ðồng Cư cũng chính là sanh ba cõi trên nên bảo là: “Sanh trọn bốn cõi”.

Lại nữa, trong cõi này (Sa Bà) tu hành khó khăn lắm duyên thoái thất, nên kẻ tu đạo nhiều như lông bò, người đắc đạo hiếm tựa vảy lân. Cực Lạc thành Phật dễ vì không thoái chuyển. Phẩm Vãng Sanh Chánh Nhân trong kinh dạy: “Những kẻ vãng sanh đều đắc a duy việt trí, đều đủ ba mươi hai tướng sắc vàng, đều sẽ làm Phật”.
Cực Lạc hơn hẳn mười phương, trước hết là do phàm phu đới nghiệp: sanh cõi kia rồi liền đắc a duy việt trí. A Duy Việt Trí: Tàu dịch Bất Thoái. Bất Thoái lại có ba nghĩa:
- Vị bất thoái: nhập dòng thánh chẳng đọa địa vị phàm phu.
- Hạnh bất thoái: trừ kiến hoặc, tư hoặc, dẹp sạch trần sa, luôn độ chúng sanh, chẳng đọa Tiểu thừa.
- Niệm bất thoái: Phá vô minh, hiển Phật tánh, niệm niệm lưu nhập Như Lai quả hải.

Với ba thứ bất thoái trên đây, nếu ở cõi này tu trì thì phải đoạn kiến hoặc như Sơ Quả của Tạng giáo, Kiến Ðịa của Thông Giáo, Sơ Trụ của Biệt Giáo, Sơ Tín của Viên giáo mới gọi là Vị Bất Thoái.
Bồ tát của Thông giáo, Thập Hướng của Biệt giáo, Thập Tín của Viên giáo mới là Hạnh Bất Thoái.
Sơ Ðịa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên giáo mới gọi là Niệm Bất Thoái.
Nhưng pháp môn Tịnh Ðộ hoành sanh siêu việt chẳng thể nghĩ bàn. Hễ vãng sanh rồi chẳng đọa lại địa vị phàm phu là chứng Vị Bất Thoái.

Cõi nước Cực Lạc chỉ có một Phật thừa nên chẳng đọa tiểu thừa, đó là Hạnh Bất Thoái. Sanh cõi Ðồng Cư xong liền cùng sanh ba cõi trên, viên tu viên chứng. Ở trong thế giới ấy, ắt phá vô minh, hiển Phật tánh, chứng Niệm Bất Thoái. Do Niệm Bất Thoái vượt đủ bốn mươi mốt nhân vị, một đời thành Phật như sách Yếu Giải chép: ‘Ngũ nghịch thập ác, mười niệm thành tựu đới nghiệp vãng sanh. Kẻ thuộc hạ hạ phẩm đều được ba thứ bất thoái’. Sách ấy lại viết:
“Hiểu như vậy mới có thể tin sâu nguyện lực của Phật Di Ðà. Tin Phật lực rồi mới có thể tin công đức của danh hiệu. Tin trì danh rồi mới có thể tin sâu tâm tánh của chúng ta vốn là chẳng thể nghĩ bàn”.
Hơn nữa, nhân duyên bất thoái nơi cõi Cực Lạc gồm năm điều:
- Một, được Di Ðà đại từ nguyện lực nhiếp trì nên chẳng thoái.
- Hai, Phật quang thường chiếu, Bồ Ðề tâm tăng tấn nên chẳng thoái.
- Ba, nước, chim, cây cỏ đều diễn diệu pháp, tăng thêm chánh niệm nên chẳng thoái.
- Bốn, thuần các Bồ Tát làm bạn thù thắng, ngoài không ma tà, trong không phiền não nên chẳng thoái.
- Năm, thọ mạng vĩnh kiếp ngang với Phật nên chẳng thoái.
Ôi, thánh đức khó lường, ơn Phật khó báo, Di Ðà bi tâm cùng cực, thánh trí khôn tày, từ đấy hiện ra cõi Ðồng Cư Tịnh Ðộ dễ sanh về này cho phàm phu. Hành nhân chẳng cần đoạn hoặc, tiêu nghiệp, chỉ cốt tín nguyện trì danh, chí ít mười niệm đều được vãng sanh, vượt ngang tam giới, mãi lìa các khổ, chứng địa vị bất thoái, nhất sanh bổ Phật, siêu tình ly kiến chẳng thể nghĩ bàn. Mười phương thếgiới thật không đâu bằng được như vậy nên Cực Lạc được ngàn kinh muôn luận cùng khen ngợi.
Vãng sanh cõi Ðồng Cư tức là sanh ngang qua ba cõi trên. Chứng địa vị bất thoái cũng là chứng trọn vẹn ba thứ bất thoái. Niệm niệm phổ lợi quần sanh, tâm tâm lưu nhập biển giác, đó thật là chỗ quy thú của kinh này vậy.
(28) T1


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

4. Phương tiện lực dụng
Như kinh Ðại Tỳ Lô Giá Na dạy: ‘Bồ Ðề là nhân, đại bi là căn, phương tiện là cứu cánh’ thì biết rằng phương tiện độ sanh chính là chỗ kết quy của đại nguyện chư Phật, là điều được đại trí hiển thị, vạn đức trang nghiêm, là chỗ cứu cánh của quả giác. Vì vậy, tiếp sau phần nói về thể tánh, tông thú phải luận về đại lực, đại dụng của phương tiện thắng diệu.
Như kinh Quán Phật tam muội viết:
“Phật bảo phụ vương: Chư Phật xuất thế có ba điều lợi ích:
a) Một là miệng nói mười hai bộ kinh là pháp thí lợi ích, trừ được vô minh ám cấu của chúng sanh, mở mắt trí huệ, sanh trước chư Phật, chóng đắc vô thượng Bồ Ðề.
b) Hai là chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh tốt đẹp vô lượng. Nếu có chúng sanh xưng niệm, quán sát, dù là tổng tướng hay biệt tướng, chẳng luận là thân của Phật hiện tại hay quá khứ đều trừ diệt được tứ trọng, ngũ nghịch của chúng sanh, vĩnh viễn thoát khỏi tam đồ, tùy lòng ưa thích thường sanh Tịnh Ðộ cho đến khi thành Phật.
c) Ba là khuyên phụ vương hành Niệm Phật Tam Muội.

Phụ vương bạch Phật:
- Vì sao chẳng dạy đệ tử thực hành quả đức của Phật địa, Thật Tướng Chơn Như, Ðệ Nhất Nghĩa Không?
Phật bảo phụ vương:
- Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, chẳng phải là cảnh giới phàm phu thực hành nổi. Vì vậy, ta khuyên phụ vương hành Niệm Phật Tam Muội”.

Lại chép:
“Phật bảo phụ vương: Tâm niệm Phật của hết thảy chúng sanh trong sanh tử cũng giống như vậy, chỉ cốt hệ niệm chẳng ngơi, quyết định sanh ở trước Phật. Một khi được vãng sanh liền có thể cải biến hết thảy các điều ác thành đại từ bi”.

Theo lời đấng Thích Tôn đại từ chí hiếu khuyên phụ vương trên đây, Phật chỉ khuyên niệm Phật, đủ thấy các hạnh môn khác không phải là không thù thắng, nhưng bọn phàm phu chẳng thể tu nổi. Chỉ có pháp môn dốc lòng niệm Phật thích ứng căn cơ nhất. Chỉ nên tuân lời dạy niệm Phật thì quyết định vãng sanh. Một phen vãng sanh rồi liền chuyển nổi ác thành thiện. Diệu dụng của phương tiện Niệm Phật đã được hiển thị không còn sót.
Theo đoạn kinh Thế Tôn khuyên phụ vương niệm Phật nói trên, hết thảy chúng sanh còn trong sanh tử tâm phải niệm Phật khẩn thiết chẳng ngơi. Ý Phật muốn nói đến cách Trì Danh Niệm Phật trong bốn cách niệm Phật. Niệm Phật có bốn cách: trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, và thật tướng niệm Phật.

* Trì danh niệm Phật:
Chính là điều được kinh này đề cao: xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật. Thiện Ðạo đại sư bảo: ‘Chỉ có con đường tắt tu hành là niệm Phật A Di Ðà’.
Các môn tu hành khác gọi là vượt tam giới theo chiều dọc như trùng sanh trong tre: đục dọc theo thân tre khó thoát ra, nên là đạo khó hành. Còn niệm Phật như trùng đục ngang ống tre thời dễ thoát ra, là vượt tam giới theo chiều ngang, gọi là đạo dễ hành. Pháp này được ví như đường tắt, vì phương tiện thẳng chóng, thành công nhanh chóng.

* Quán tượng niệm Phật:
Bày biện tượng Phật, chú mục ngắm nhìn. Hiềm rằng có tượng mới quán được, rời khỏi tượng lại khó quán: Tịnh nhân dễ mất, giữ cho liên tục càng khó. Vì vậy, cổ đức bảo: “Tượng đi rồi lại là không, cho nên trở thành gián đoạn”. Vì vậy, cách này chẳng tiện dụng như trì danh niệm Phật, lúc nào, chỗ nào cũng tu được.

* Quán tưởng niệm Phật
Như các phép quán dạy trong Quán kinh: “Dùng con mắt trong tâm ta, tưởng đức Như Lai kia”. Khổ nỗi, tâm phàm phu tạp loạn, phù động, hiếm có lúc tịnh định, khó nhập pháp quán vi diệu. Vì vậy, mới nói: “Cảnh tế tâm thô, diệu quán khó thành”. Do đó, cách này chẳng bằng trì danh tiện dụng dễ hành, chẳng nề thượng trí, hạ ngu, nào luận khổ, vui, rảnh, bận, ai cũng niệm được, kẻ nào cũng hành được.
(30) T1


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

* Thật tướng niệm Phật:
Xa lìa các tướng sanh diệt, có, không, năng sở, ngôn thuyết, danh tự, tâm
duyên... chuyên niệm tự tánh vốn sẵn đức Phật thiên chơn. Khốn nỗi, chúng sanh chưa thoát luân hồi, tâm sanh diệt niệm niệm tiếp nối như kinh Viên Giác dạy: “Chưa thoát luân hồi mà bàn đến Viên Giác thì tánh Viên Giác ấy cũng bị xoay chuyển. Ðã như vậy mà mong thoát được luân hồi thì quyết chẳng thể được”.
Kinh còn dạy: “Huống hồ là tâm cấu trược sanh tử chuyển vần chưa từng thanh tịnh, quán Viên Giác của Phật làm sao lãnh hội được”. Ví như loài trùng rất nhỏ chỗ nào cũng bu được, chẳng thể đậu trên lửa. Ví như tâm chúng sanh, duyên chỗ nào cũng được chỉ chẳng duyên nổi Bát Nhã.
Bởi thế, ông Phật của Thật Tướng, tánh Viên Giác tuy chúng sanh sẵn đủ, nhưng bởi vọng tâm niệm niệm sanh diệt nên chẳng quán nổi.
Vì vậy, trong kinh Quán Phật Tam Muội, Phật bảo phụ vương: Bổn đức của chư Phật: chơn như thật tướng v.v... chẳng phải là cảnh giới phàm phu hành
nổi nên Phật khuyên phụ vương niệm Phật.

Do những điều trên, thấy được rằng: trong các pháp, pháp môn Niệm Phật được xem là đường tắt, trong bốn phép Niệm Phật, Trì Danh Niệm Phật lại
là phương tiện rốt ráo nên được gọi là đường tắt nhất trong các đường tắt.
Hơn nữa, bốn cách Niệm Phật khó dễ khác xa nhau, dường như có sâu cạn khác biệt, nhưng thật ra sự-lý bất nhị: sâu chính là cạn, cạn chính là sâu.
Nếu được người viên đốn dùng đến thì thầm hợp diệu đạo, còn với kẻ sơ cơ thì cũng về được nhà. Vì vậy, Trì Danh Niệm Phật khác chi Thật Tướng
Niệm Phật. Sách Di Ðà Sớ Sao viết: “Nói đến Thật Tướng chẳng phải là diệt trừ các tướng, mà chính là ngay nơi tướng thấy được vô tướng”. Kinh dạy: ‘‘Ngôn ngữ thế tục chẳng trái nghịch Thật Tướng’’, lẽ nào vạn đức hồng danh chẳng bằng nổi một lời thế tục sao?.
Hơn nữa, sách Viên Trung Sao viết: Ngài Tứ Minh nói: “Nơi quả viên cực, tất cả danh tự mỗi mỗi chẳng hư, rốt ráo thành tựu, vì mỗi điều được nó chiêu cảm đều là chơn thật tột cùng vậy”.
Vì vậy, Ðại Kinh dạy: “Thế Ðế chỉ có cái tên, không có thật nghĩa. Ðệ Nhất Nghĩa Ðế có cái tên, có thật nghĩa, vì Phật là đệ nhất nghĩa đế vậy”.
Ðức Di Ðà nay lại đã chứng được Ðệ Nhất Nghĩa Ðế, nên một phen xưng tụng gia danh (tức hồng danh A Di Ðà Phật) vạn đức cùng phô bày. Di Ðà vạn đức tuệ nhật đã phô bày trọn vẹn toàn thể thì tội lỗi hắc ám của chúng sanh ngay trong niệm ấy tự nhiên tiêu tan trần kiếp. Tội tánh vốn không, hư dối chẳng thật đã bị tiêu thì công đức xưng danh lớn như hư không tự nhiên sanh ra.
Căn cứ theo diệu nghĩa trên, một phen xưng danh hiệu công đức còn đến thế, huống là phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm như trong kinh này. Hơn nữa, trì danh chính là thậm thâm Bát Nhã: niệm đến thuần thục, vạn duyên cùng bỏ hết, năng, sở tiêu sạch thì chính là “vô trụ”. Ngay trong lúc ấy, một câu Phật hiệu rạng ngời, minh bạch, liên tục chẳng dứt thì chính là “sanh tâm” (ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm). Ðấy vốn là chỗ chúng sanh chưa đạt đến, nay do niệm Phật thầm hợp diệu đạo, chẳng hành mà hành, chẳng đến lại đến. Câu nào cũng là Phật tri kiến, niệm nào cũng tỏa ánh sáng Bát Nhã.
Mật giáo nói: “Âm chữ đều là Thật Tướng” nên niệm tên Phật chính là niệm Thật Tướng! Trì Danh Niệm Phật khác gì Thật Tướng Niệm Phật!
Lại nữa, trong hai kinh Ðại, Tiểu, bản dịch Tiểu Bổn đời Tần có câu “nhất tâm bất loạn”, còn Ðại Bổn không có câu ấy mà chuyên chú “nhất hướng chuyên niệm”. So sánh hai câu ấy thì điều được đề cao trong Ðại kinh là minh xác, lại khế hợp căn cơ của chúng sanh, tỏ rõ ân đức vô cực của đấng Từ Tôn.
Sách Di Ðà Yếu Giải giảng: “Nếu chấp trì danh hiệu chưa đoạn kiến - tư, do hoặc tán, hoặc định nên trong cõi Ðồng Cư, chia làm ba bậc chín phẩm.
Nếu trì đến mức sự nhất tâm bất loạn, kiến hoặc hay tư hoặc tùy ý đoạn trước được một thứ thì sanh về cõi Phương Tiện Hữu Dư.
Nếu đến mức lý nhất tâm bất loạn, phá toang một phẩm vô minh, cho đến bốn mươi mốt phẩm thì sanh trong Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ, cũng
chứng một phần Thường Tịch Quang độ”.
Nghĩa là: tán tâm trì danh liền được vãng sanh Ðồng Cư Tịnh Ðộ. Nếu niệm đến nhất tâm bất loạn liền vãng sanh ba cõi trên. Ðấy thật là cảnh hạnh của hiền thánh, nào phải khả năng của phàm phu! Nếu cứ phải nhất tâm bất loạn mới được vãng sanh, thử hỏi chúng sanh trong biển khổ mấy kẻ đắc độ? Hóa ra pháp môn Trì Danh tiện dụng này cũng là đạo khó hành ư?
Sách Tịnh Ðộ Hợp Tán lại viết: “Nương theo kinh này phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm mới được nhất tâm bất loạn. Chẳng thể chuyên niệm thì thật khó nhất tâm”.
Tổng hợp hai ý kiến trên, thấy rằng kinh này lấy phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm làm Tông, hiển lộ trọn vẹn bổn tâm của bậc đạo sư hai
cõi và thập phương Như Lai, nguyện thù thắng vô tận của đức Di Ðà: phương tiện đại từ tột bực, lực dụng của quả đức khó lường thâu trọn phàm thánh, độ khắp lợi, độn. Dưới đến thập ác ngũ nghịch, ngạ quỉ, súc sanh, chỉ cần phát tâm chuyên niệm ắt được độ thoát. Rộng độ hết thảy hàm linh, khắp ban cái lợi chơn thật. Ðại ân, đại đức, đại nguyện, đại lực, đại dụng độ sanh vi diệu khó suy nghĩ nổi. Có như thế mới xứng bổn hoài của Như Lai, mới là phương tiện rốt ráo.
(32) Hết tập 1


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

5. Các căn khí được kinh này hóa độ
Phần trên đã nói kinh này rộng thâu vạn loại, phổ độ ba căn, nay sẽ giải thích rõ: trong vạn loài, loài nào là khí, trong ba căn, căn nào là đương cơ?
Căn khí có thị khí (căn khí thích hợp) và phi khí sai khác. Căn khí rò bể chẳng kham nhận nổi mưa pháp thì gọi là phi khí (chẳng phải là căn khí thích đáng). Sách Sớ Sao viết: “Trước hết là ba loại phi khí: kẻ không có lòng tin, kẻ không có nguyện, kẻ không hạnh. Không phải ba thứ trên thì là thị khí”.
Tín là tin rằng chúng sanh và Phật chẳng hai, tâm này là Phật, tâm này làm Phật, chúng sanh niệm Phật nhất định vãng sanh rốt ráo thành Phật.
Nguyện là chán nhàm Sa Bà, ưa thích, hâm mộ Cực Lạc như con nhớ mẹ, quyết sẽ vãng sanh.
Hạnh là từ nguyện khởi hạnh nhất hướng chuyên niệm chẳng gián đoạn.
Ba điều trên đây gọi là tư lương. Tư lương nếu khuyết khó bề tiến tới. Ba thứ: tín, nguyện, hạnh thiếu một thứ chẳng được, như ba chân của cái đỉnh: thiếu một chân, đỉnh phải đổ. Cái đỉnh thiếu một chân chẳng phải là Khí. Sách sớ Sao lại viết: “Lại nữa, người đời tuy hành các điều thiện mà với cõi kia không có tín, nguyện, hạnh, cũng chẳng phải là khí. Tuy có các lầm lỗi mà với cõi kia có tín nguyện hạnh thì cũng gọi là khí”.
Luận về cơ, có đương cơ và bất đương cơ sai khác. Trong ba căn, căn nào là đương cơ thích hợp nhất? Xưa có nhiều thuyết, nay sẽ xét rõ. Năm thời
thuyết pháp của đứcThế Tôn đều là tùy cơ mà thiết lập giáo pháp, theo bịnh cho thuốc. Nói chung, các vị Bồ Tát là đương cơ của kinh điển Ðại thừa, NhịThừa là đương cơ của kinh sách Tiểu Thừa. Chỉ có Tịnh Ðộ kỳ đặc, thù diệu, lập riêng
phong cách. Từ xưa đã có nhiều thuyết, ở đây xin nêu ba thuyết:

5.1 Thượng bối vãng sanh chỉ là Bồ Tát
Trong kinh này, với ba bậc vãng sanh, mỗi bậc lại chia thành ba phẩm giống như chín phẩm trong Quán kinh. Chư sư cổ đức trước thời ngài Thiện Ðạo đời Ðường cho rằng thượng thượng phẩm vãng sanh Cực Lạc là Bồ Tát từ Tứ Ðịa đến Thất Ðịa; thượng trung phẩm là Sơ Ðịa cho đến Tứ Ðịa Bồ Tát; thượng hạ phẩm là Ðại Thừa chủng tánh cho đến Sơ Ðịa Bồ Tát. Trung phẩm thượng sanh là Tiểu Thừa tam quả.
Nếu hiểu như vậy, trong chín phẩm, thượng phẩm chỉ có Bồ Tát, thánh chúng mới sanh nổi, Tiểu thánh sanh về trung thượng phẩm. Với bốn phẩm từ thượng thượng đến trung thượng, phàm phu tuyệt chẳng có phần.

5.2 Vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh chúng
Thiện Ðạo đại sư trong tác phẩm Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ (Quán Kinh Nghĩa Sớ) đả phá thuyết trên như sau: ‘Như Lai nói mười sáu pháp quán này chỉ vì độ thoát chúng sanh thường chìm đắm, chẳng can hệ tới các bậc thánh Ðại thừa, Tiểu thừa’. Ý ngài cho rằng: Phật giảng chín phẩm vãng sanh trong Quán kinh chỉ là vì chúng sanh trầm luân, chẳng vì Bồ Tát, A La Hán.
Ngài còn viết: ‘Lại xét văn nghĩa phần Ðịnh Thiện và ba bậc vãng sanh thượng, hạ trong Quán kinh, ta thấy đều là vì bọn ngũ trược phàm phu sau khi Phật diệt độ. Chỉ do gặp duyên sai khác mà có chín phẩm sai biệt. Vì sao?
Ba bậc thượng phẩm là phàm phu gặp duyên Ðại thừa. Ba bậc trung phẩm là phàm phu gặp duyên Tiểu thừa. Ba bậc hạ phẩm là phàm phu gặp ác duyên’.
Ngài còn viết thêm: ‘Nay với mỗi điều nêu kinh văn chứng minh rõ ràng ngõ hầu phàm phu thiện ác hiện tại cùng được hưởng chín phẩm, sanh lòng tin vô ngại, nương nguyện lực Phật đều được vãng sanh’.
Hơn nữa, trong phần Hành Quyển Kệ khai thị căn cơ của kinh Ðại Vô Lượng Thọ có viết: ‘Căn cơ kinh này là hết thảy phàm ngu thiện, ác, đại, tiểu’.
Thuyết của đại sư, trên: khế hợp thánh tâm, dưới: tương hợp các căn cơ, thật có công lớn với Tịnh Ðộ. Vì vậy, phần lớn các sư Trung Hoa, Nhật Bản đề cao thuyết này, như sách Hợp Tán của Nhật viết: ‘Mười phương chúng sanh, ba bậc chúng sanh trong nguyện thứ mười tám đều là cụ phược phàm phu. Bọn họ là căn cơ’.
Sách còn viết rằng: ‘Như ngài Nguyên Hiểu viết: ‘‘Bốn mươi tám đại nguyện trước hết vì phàm phu, sau kiêm vì tam thừa thánh nhân’’, cho nên tông ý của Tịnh Ðộ vốn vì phàm phu kiêm vì thánh nhân’.
Ðiểm diệu yếu của thuyết này là hiển thị trực tiếp bi nguyện độ sanh vô tận của Như Lai, quét sạch tâm khiếp lui của phàm phu, khắp làm cho họ chánh tín pháp này phát tâm niệm Phật, nương Phật nguyện lực đều được vãng sanh.
(34) T2


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

5.3 Chuyên tiếp thượng căn, bàng cập trung hạ
Thuyết này xét về mặt văn tự tựa hồ trái nghịch với thuyết thứ hai, tương đồng thuyết thứ nhất. Thật ra, nó tương đồng thuyết thứ hai, nhấn mạnh phàm phu chúng ta đều có thể thẳng lên chín phẩm, nên về căn bản, nó trái nghịch thuyết thứ nhất. Bảo rằng ‘chuyên tiếp thượng căn’ là sợ bọn kiến giải hời hợt trong đời thường nghĩ Tịnh tông là hạnh của lũ ông già bà cả bèn xem thường, cho nên phải lập ra thuyết này để cứu vớt họ.
Sách Di Ðà Sớ Sao nói: ‘Lại nữa, Khởi Tín Nhân Duyên Phận Sớ nói rõ bậc Sơ Tâm của Tín Vị có bốn căn cơ: dùng lễ bái, sám hối diệt tội để độ sơ cơ, dùng tu tập Chỉ Quán độ trung cơ, dùng cầu sanh Tịnh Ðộ tiếp độ thượng cơ. Sơ cơ là chúng sanh nghiệp chướng, trung cơ là phàm phu Nhị Thừa. Vì vậy, biết rằng Tịnh Ðộ là pháp tu của Ðại Thừa Bồ Tát vậy’.
Sách Di Ðà Yếu Giải còn cho rằng Trì Danh là ‘pháp môn thâm diệu, phá sạch hết thảy những hý luận, đoạn sạch hết thảy ý kiến, chỉ có những bậc như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả mới triệt để gánh vác nổi’.
Do một pháp Trì Danh là pháp môn vô thượng chí viên chí đốn chẳng thể dùng phân biệt suy lường để hiểu nổi, nên bảo là thâm diệu. Chỉ một bề mà niệm, chẳng cần đến phương tiện khác, chẳng vướng vào suy lường, trực khởi, trực dụng, tự được tâm khai, ngay khi ấy phá sạch hý luận, trừ sạch hết thảy phân biệt so đo, nên nói: pháp thâm diệu như vậy chỉ có hàng nhục thân Ðại Sĩ như Mã Minh v.v... mới trực tiếp lãnh hội được, mới triệt để gánh vác nổi.

Ðại sĩ Mã Minh người xứ Ðông Thiên Trúc, truyền Phật tâm ấn, là tổ thứ mười hai của Thiền tông, trung hưng Ðại Thừa, soạn Ðại Thừa Khởi Tín Luận. Cuối luận, khuyên chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ.

Ðại sĩ Long Thọ người Nam Thiên Trúc, là tổ mười bốn của Thiền tông, thân cận Kim Cang Tát Ðỏa, lại thành tổ của Mật giáo. Ngài vào long cung đem kinh Hoa Nghiêm về nên thành tổ của tông Hoa Nghiêm. Lại rộng tạo các luận, cực lực hoằng dương Tịnh Ðộ. Kinh Lăng Già huyền ký rằng: ngài chứng Hoan Hỷ Ðịa vãng sanh Tịnh Ðộ, cho nên là tổ của Tịnh Ðộ tông. Trung Hoa gọi ngài là tổ của tám tông vì các tông Thiên Thai, Pháp Tướng, Nam Sơn, Tam Luận cũng đều coi ngài là tổ khai tông.

Trí Giả đại sư tụng Pháp Hoa, thân tâm rỗng rang, được nhập Pháp Hoa tam muội, đích thân thấy một hội Linh sơn nghiễm nhiên chưa tan. Sau ngài trụ núi Thiên Thai, sáng lập Thiên Thai tông. Lâm chung nằm nghiêng trên hông phải, mặt hướng về tây, xưng niệm A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm mà tịch.

Vĩnh Minh đại sư được ngài Thiều quốc sư của Thiên Thai tông phát minh tâm yếu, trở thành đích tôn của tông Pháp Nhãn. Sau đó, ngài chuyên chí nơi Tịnh tông: mỗi ngày tụng hồng danh mười vạn câu, kiêm hành nhật khóa một trăm lẻ tám việc, được Quán Âm Ðại Sĩ dùng cam lộ rưới vào miệng, diệu huệ phát khởi, viết Tông Kính Lục gồm một trăm quyển và Tâm Phú Chú, Vạn Thiện Ðồng Quy... giơ cao đuốc pháp chiếu sáng muôn đời. Năm bảy mươi hai tuổi, ngài thắp hương, giã biệt đồ chúng, ngồi mà quy Tây.

Bốn vị đại đức trên đều là nhục thân Ðại Sĩ, là pháp môn long tượng. Sách Yếu Giải bảo chỉ có những người như vậy mới có thể triệt để đảm nhiệm pháp môn Tịnh Ðộ. Những học nhân gần đây há có nên dùng cái thấy biết thế tục để coi khinh pháp môn Tịnh Ðộ hay không?
Sách Yếu Giải còn viết: ‘Vì vậy, một tiếng A Di Ðà Phật chính là pháp để đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác trong đời ác ngũ trược của Bổn Sư Thích Ca, nay ngài đem toàn thể Quả Giác trao cho chúng sanh trược ác. Cảnh giới sở hành của chư Phật chỉ có Phật với Phật mới hiểu rốt ráo, chẳng phải tự lực của cửu giới tin hiểu nổi’. Do câu này, ta thấy pháp môn Niệm Phật thật là pháp thâm diệu vô thượng, chỉ có bậc thượng căn mới có thể trực tiếp gánh vác. Thêm nữa, phẩm Bồ Tát Vãng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ có chép: “Nếu chỉ nói ra danh tự của mười phương thế giới, danh hiệu chư Phật [trong các cõi ấy] và danh hiệu của Bồ Tát [trong cõi ấy] được vãng sanh thì hết cả kiếp cũng chẳng nói hết".


Phẩm Thọ Bồ Ðề Ký lại chép: “Do chẳng nghe được pháp này, có một ức Bồ Tát thoái chuyển Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”.
Kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới cũng nói: “Bồ Tát rõ thấu chư Phật và hết thảy pháp đều duy tâm lượng, đắc tùy thuận nhẫn hoặc nhập Sơ Ðịa, bỏ thân rồi mau sanh thế giới Diệu Hỷ hay cõi Phật Cực Lạc thanh tịnh”.
Sách Di Ðà Sớ Sao ghi: “Nên biết niệm Phật là cha của Bồ Tát sanh ra Pháp Thân, cho đến bậc Thập Ðịa từ đầu đến cuối chẳng lìa niệm Phật. Lẽ đâu bọn Sơ Tâm tự mãn chẳng nguyện vãng sanh”.
Ðủ thấy pháp môn Tịnh Ðộ thật rất khế hợp căn cơ Bồ Tát.
Do những điều trên thấy được rằng: Trì Danh Niệm Phật là pháp quả giác nhân tâm, chỉ có Phật với Phật mới hiểu tột cùng thể dụng. Pháp ấy vô thượng thâm diệu rộng sâu như biển. Tắm gội trong đó: kẻ hạ căn lội chỗ cạn gần bờ, thân vẫn ở trong biển cả, cũng hưởng cái vui tắm nước biển. Nếu muốn tột cùng đáy biển chỉ đành cậy bậc thượng căn lợi trí. Có lặn xuống nước làm việc, thâm nhập đáy biển mới biết nổi biển rộng sâu vô lượng. Vì vậy, mới bảo là chuyên tiếp thượng căn, kiêm tiếp độ trung căn, hạ căn.
Hai thuyết thứ hai và thuyết thứ ba cách hành văn tuy khác nhưng ý nghĩa tương đồng, khác nào Lô sơn: nhìn ngang thành rặng, nhìn nghiêng thành ngọn. Tướng hiện ra có sai khác, bổn thể chỉ một. Nói chung, vẫn chỉ là một núi Lô sơn. Do đó, văn tự của hai thuyết tuy khác mà thật đều xiển minh bi trí vô lượng của đạo sư hai cõi, phước huệ đều viên mãn.
Nói “chuyên tiếp thượng căn” chính là hiển thị Như Lai đại trí đại huệ. Pháp môn Tịnh Ðộ này là do Di Ðà trụ chơn thật huệ, từ chơn thật tế mà khai hóa hiển thị. Vì vậy, chỉ có Phật và Phật mới hiểu cùng tột.
Biển nguyện Nhất Thừa của Di Ðà, sáu chữ hồng danh, viên dung đủ các đức, siêu tình, ly kiến, toàn thể là nhất chơn pháp giới sự lý vô ngại, sự sự vô ngại, nên chẳng thể dùng suy lường phân biệt biết nổi, lời nói, chữ nghĩa chẳng diễn tả nổi; cho nên nói: “Chẳng phải tự lực của cửu giới tin hiểu nổi”. Hành nhân nếu có thể với pháp thậm thâm vô thượng vi diệu này sanh một chút tin hiểu, kẻ ấy đã là thượng căn nên nói là “chuyên tiếp thượng căn”.
Ðồng thời, Như Lai từ nơi chơn thật huệ khai diễn pháp môn này là muốn ban cho chúng sanh cái lợi chơn thật, nên pháp môn này thật là phương tiện rốt ráo, độ cả ba căn, trọn làm cho hết thảy phàm ngu ác trược chúng sanh trong hiện tại, tương lai đều lên được bờ kia. Vì vậy, pháp thậm thâm này cũng “kiêm tiếp độ trung căn, hạ căn”.
Nói “chuyên tiếp độ phàm phu” là để hiển thị đại từ đại bi của Như Lai. Thế Tôn nghĩ thương chúng kẻ phàm ngu đời mạt chướng sâu, khổ nhiều bèn phát đại nguyện sâu rộng vô thượng. Vì vậy, gọi là nguyện vương. Cốt lõi của đại nguyện chính là nguyện thứ mười tám. Kinh chép: “Thập phương chúng sanh nghe danh hiệu ta, chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh cõi ta, chí ít mười niệm, nếu chẳng sanh, chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp".
Do phàm phu trong sanh tử tâm mê rong ruổi theo cảnh, trầm luân biển khổ, thoạt vào, thoạt ra, nếu không có đại nguyện mười niệm ắt được sanh này, họ còn biết do đâu thoát khỏi luân hồi? Vì vậy, đức Phật vì chúng sanh lắm chướng ban riêng phương tiện, khai pháp dễ hành này; thậm chí đến lúc kinh diệt, đặc biệt lưu lại kinh này để làm thuyền bè. Do đó, bảo là “chuyên vì phàm phu”.
Hơn nữa, kinh Tỳ Lô Giá Na trong Mật điển chép: “Ðại bi làm căn, Bồ Ðề làm nhân, phương tiện làm cứu cánh” . Câu này chỉ rõ: pháp phải có phương tiện độ sanh rốt ráo mới là Quả Giác rốt ráo của Như Lai. Vì vậy, phương tiện rốt ráo “mười niệm ắt vãng sanh” thật là do phương tiện xứ tối cực thành tựu rốt ráo của đức Di Ðà, chính là ý “đối với định huệ, Như Lai đã thấu suốt đến cùng cực” trong kinh này.


Người đời nay sao nỡ vì pháp này dễ hành mà khi dễ! Ví như máy ti vi màu, máy cassette, máy tính điện tử đều phải an toàn dễ dùng. Dẫu kẻ không biết tí gì về khoa học kỹ thuật, nhấn nút một cái liền có thể hưởng thụ thành quả khoa học hiện đại nhất. Do an toàn dễ dùng, người đời liền khen là kỹ thuật tiên tiến. Cùng một lý đó, sao nỡ vì Trì Danh dễ thực hành bèn coi rẻ pháp môn này!
Nên hiểu rõ điểm chú trọng của hai thuyết trên:
Thuyết thứ hai khen ngợi pháp môn Tịnh Ðộ độ khắp các căn, nhưng đặt nặng việc tế độ phàm phu.
Thuyết thứ ba nêu cái thâm diệu của pháp môn Trì Danh: chỉ có bậc thượng căn mới triệt để gánh vác nổi. Nên hiểu thấu suốt như thế, đừng chấp chặt văn tự.
Pháp môn đã khéo phù hợp ba căn như sách Yếu Giải viết: "Thượng thượng căn chẳng vượt ải này, hạ hạ căn cũng có thể đạt đến", gồm thâu
thánh phàm, lợi, độn đều thích ứng.
Sách Di Ðà Sớ Sao cho rằng pháp môn này "nhiếp trọn các căn lợi, độn, đều độ thoát cả". Lại bảo: "Các pháp môn khác: cao thì hạ căn tuyệt phận, thấp thì chẳng tương hợp thượng căn. Vì thế, trong hội Hoa Nghiêm như đui, ánh lửa đom đóm rối rắm thêm. Chỉ có một pháp này thâu cả thượng, hạ, có thể gọi là thuốc A Già Ðà trị vạn bịnh, lò đúc thành ngàn vật".
Lại viết: "Chỉ niệm tên Phật ắt sanh cõi ấy thì dù cao hay thấp, hoặc thánh hoặc phàm, cho đến hoặc tin, hoặc ngờ, hoặc khen, hoặc chê, hễ biết có đức Phật ấy liền thành thiện căn. Nhiều kiếp nhiều đời đều được giải thoát". Còn trong hiện tại, nếu hỏi ai là kẻ đương cơ thì đáp rằng chẳng luận nam, nữ, già, trẻ, phú quý, bần tiện, thượng trí, hạ ngu, tu lâu, mới tu, túc căn lợi, độn, thiện ác sai biệt, chỉ cốt với pháp môn này sanh lòng tin thật sự, do tin phát nguyện, từ nguyện khởi hạnh, phát tâm Bồ Ðề, nhất hướng chuyên niệm, những người như vậy đúng là đương cơ.
(37) T2


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

6. Tạng giáo sở nhiếp
Phàm nghiên cứu kinh điển, trước hết phải biết kinh này thuộc tạng nào, được nói trong thời nào, phán định thuộc giáo nào? Biết rõ các điều ấy sẽ giúp ích cho việc lý giải toàn kinh.
Về sự phán định một đời thánh giáo, ý kiến các nhà khác nhau. Nói tóm tắt là: tam tạng, nhị tạng, ngũ thời, nhị giáo và tứ giáo, ngũ giáo. Hễ giải thích kinh, trước hết cần phải phán định rõ ràng: Kinh này trong tam tạng thuộc về kinh tạng. Trong nhị tạng thuộc Bồ Tát tạng. Trong ngũ thời thuộc thời Phương Ðẳng, trong nhị giáo thuộc Ðốn giáo, trong tứ giáo và ngũ giáo thuộc Viên giáo.

6.1. Tam tạng
Ðại Thừa Nghĩa Chương giải thích chữ Tạng là: “Bao hàm, chứa đựng sâu xa thì gọi là Tạng”. Kinh điển bao hàm, chứa đựng hàm súc văn nghĩa nên gọi là Tạng.
Một là Kinh tạng, tiếng Phạn là Tu-đa-la, Tàu dịch là Khế kinh.
Hai là Luật tạng, tiếng Phạn là Tỳ-nại-da, Tàu dịch là Ðiều Phục.
Ba là Luận tạng, tiếng Phạn là A-tỳ-đạt-ma, tàu dịch là Ðối Trị.
Trong ba tạng Kinh, Luật, Luận, kinh này thuộc Kinh tạng.

6.2. Nhị tạng
Trí Ðộ Luận chép:
“Tuy cùng là một môn giải thoát mà có tự lợi, lợi người sai khác, thế nên có Tiểu thừa, Ðại thừa sai khác. Do vì có hai hạng người nên với lời Phật dạy, dùng văn tự, ngữ ngôn chia thành hai thứ”, tức là Thanh Văn tạng và Bồ Tát tạng.
Thánh giáo tuy nhiều, chẳng ngoài hai loại này (Duyên Giác tính gộp vào Thanh Văn, nên chỉ có hai tạng).
Sớ giải của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn viết: “Ngài Long Thọ nói: Sau khi Phật diệt độ, Ca Diếp, A Nan ở thành Vương Xá kết tập pháp tạng thành Thanh Văn tạng. Văn Thù, A Nan nơi núi Thiết Vy kết tập Ma Ha Diễn (đại thừa) thành Bồ Tát tạng.
Ngài Trì Ðịa cũng nói: “Phật vì Thanh Văn, Bồ Tát hành đạo thoát khổ nói tu-đa-la. Người kết tập kinh chia thành hai tạng. Kinh nói về hạnh của Thanh Văn làm thì là Thanh Văn tạng. Kinh nói về hạnh Bồ Tát là Bồ Tát tạng”.
Kinh này rộng diễn Ðại thừa, trình bày tường tận về tín nguyện vãng sanh, nhân quả thù thắng, cõi Phật Tịnh Ðộ, y chánh trang nghiêm, nguyện hải vô biên của Phật Di Ðà, đạo phổ độ khắp các chúng sanh nên thuộc về Bồ Tát tạng.

6.3. Ngũ thời
Thiên Thai đại sư dựa vào kinh Niết Bàn, chia cả đời giáo hóa của Như Lai thành năm thời:

a). Một là trong hai mươi mốt ngày đầu tiên, nói kinh Hoa Nghiêm là thời Hoa Nghiêm.

b). Thứ hai, trong mười hai năm kế tiếp, nơi vườn Lộc Dã v.v... giảng bốn kinh A Hàm của Tiểu thừa là thời A Hàm.

c). Thứ ba, trong tám năm kế tiếp, nói các kinh Duy Ma, Ðại Tập, Lăng Nghiêm v.v... và kinh này, chỉ trích thiên giáo, bài trừ tiểu giáo, khen ngợi Ðại thừa, cổ võ Viên giáo. Nói rộng (Phương) bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên; bình đẳng (Ðẳng) độ khắp các căn cơ, nên gọi là thời Phương Ðẳng.

d). Thứ tư, lại trong hai mươi hai năm kế đó, nói các kinh Ðại Bát Nhã, gọi là thời Bát Nhã.

e).Thứ năm, trong tám năm sau cùng, nói kinh Pháp Hoa, một ngày một đêm nói kinh Niết Bàn, cửu giới, tam thừa đều được thọ ký, chẳng luận Ðại, Tiểu đều được thành Phật. Thời này gọi là thời Pháp Hoa - Niết Bàn. Ta nói kinh này thuộc thời Phương Ðẳng thứ ba. Hơn nữa, kinh này được đức Thế Tôn nhiều
phen tuyên thuyết nên chẳng thể hạn cuộc trong một thời nào.
(39) T2


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

**** 6.4 Phán giáo
6.4.1. Tứ giáo và ngũ giáo
Các sư xưa nay phán định giáo tướng nói chung có 12 nhà, nhưng nổi tiếng nhất là thuyết Tứ Giáo của ngài Thiên Thai lập ra và Ngũ Giáo của tông Hiền Thủ.

Tứ Giáo theo Thiên Thai là Tạng, Thông, Biệt, Viên:

a). Một là Tạng giáo, cũng gọi là Tiểu thừa giáo.

b). Hai là Thông giáo, tức là trong Ðại thừa nói thông cả ba thừa, độ chung ba căn.

c). Ba là Biệt giáo chỉ cho giáo pháp được nói trong kinh Ðại thừa chẳng thông với Tiểu thừa.

d). Bốn là Viên giáo, tức là pháp giới tự tại viên mãn đầy đủ: một là hết thảy, hết thảy là một, vô ngại pháp môn v.v...

Tông Hiền Thủ phán giáo như sau: “Thánh giáo muôn phần sai khác, nhưng chính yếu chỉ có năm loại: Tiểu Thừa Giáo, Ðại Thừa Thỉ Giáo, Chung Giáo, Ðốn Giáo, Viên Giáo”.

* Tiểu thừa giáo: Chỉ nói về nhân không, dù có nói đôi chút về pháp không cũng chẳng minh xác, do chưa tột cùng nguồn pháp.

* Ðại thừa Thỉ giáo: chưa dạy nghĩa lý: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chẳng hứa khả định tánh xiển đề sẽ thành Phật, chưa bàn đến điểm cùng tột của Ðại thừa; nên gọi là Thỉ (bắt đầu).

* Chung giáo: Do Trung Ðạo diệu hữu, định tánh xiển đề đều sẽ thành Phật mới là nói đến chỗ cùng tột của Ðại thừa; nên gọi là Chung (cuối cùng).

* Ðốn giáo: chỉ nói chơn tánh. Một niệm chẳng sanh thì gọi là Phật. Chẳng nương theo địa vị để nói theo thứ lớp, nên gọi là Ðốn. Như kinh Tư Ích dạy: “Ðắc thuyết pháp chánh tánh là chẳng từ một địa vị này sanh lên một địa vị khác”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Sơ Ðịa chính là Bát Ðịa, nhẫn đến không có gì là thứ lớp cả”.

* Viên giáo: gộp chung cả bốn loại trên, viên mãn đầy đủ, giảng về vô tận pháp giới, tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, tương tức, tương nhập, lưới Ðế Thích trùng trùng , chủ bạn giao tham vô tận, vô tận. Một địa vị chính là hết thảy địa vị, hết thảy địa vị chính là một địa vị. Vì vậy, thập tín mãn tâm chính là gồm trọn hết thảy địa vị, viên thành chánh giác.


6.4.2 Nhị giáo
Trên đây, tuy cách phán giáo khác nhau, nhưng ý kiến của các nhà chẳng ngoài hai giáo: Tiệm, Ðốn. Hai thuyết Thiên Thai, Hiền Thủ cũng đều dùng Tiệm, Ðốn để chia thành tứ giáo, ngũ giáo. Ngũ Giáo Chương chép: “Hoặc chia làm hai, tức là: Tiệm, Ðốn. Do trong hai giáo Thỉ, Chung, tất cả giải hạnh đều ở ngôn thuyết, địa vị có thứ lớp, nhân quả nương dựa nhau, từ nhỏ nhiệm đến phức tạp nên gọi chung là Tiệm. Ngôn thuyết đốn tuyệt, lý tánh đốn hiển, giải hạnh đốn thành, một niệm chẳng sanh chính là Phật v.v... thì gọi là Ðốn”.
Sư Huệ Viễn đời Tùy của Trung Hoa (tức ngài Tịnh Ảnh) phán định kinh này như sau: “Nay kinh này, trong hai tạng thuộc về Bồ Tát tạng, là pháp môn Ðốn Giáo dành cho người căn cơ chín muồi. Vì sao biết là Ðốn? Kinh này chính vì người trong hàng phàm phu nhàm sợ sanh tử cầu chánh định, dạy họ phát tâm sanh về Tịnh Ðộ, chẳng từ Tiểu thành Ðại, cho nên biết là Ðốn”.
Sư Ðại Hựu đời Minh phán định kinh Tiểu Bổn như sau: “Về phương diện Tiệm Ðốn, thuộc Ðốn giáo”. Các sư Trung Hoa đa phần phán định hai kinh Tiểu Bổn, Ðại Bổn theo thuyết này. Vì vậy, trong hai giáo Ðốn, Tiệm, kinh này thuộc Ðốn giáo.
Trên đây, là dựa theo Ðốn, Tiệm mà phán định. Nếu theo thuyết Ngũ Giáo: Tiểu, Thỉ, Chung, Viên, Ðốn của ngài Hiền Thủ để phán định giáo tướng của kinh này thì các bậc đại đức Tịnh Tông Trung Hoa và ngoại quốc xưa nay tuy nhân duyên chẳng giống nhau, nhưng ý kiến chỉ sai khác đôi chút. Theo họ, thật ra kinh này không những chỉ thuộc về Viên Ðốn giáo, mà còn là đốn nhất trong các kinh Ðốn giáo, viên nhất trong các kinh Viên giáo.
Cư sĩ Bành Nhị Lâm (Tế Thanh) trong cuốn Khởi Tín Luận nhận định kinh này như sau: “Kinh Vô Lượng Thọ là viên giáo xứng tánh của Như Lai”. Thầy Thích Ðạo Ẩn người Nhật trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Bình Giải phán ngay rằng: “Bổn nguyện Nhất Thừa đốn cực đốn tốc, viên dung viên mãn”.
Ða số các vị đại đức người Nhật cũng nghĩ như vậy. Sách Ðại Kinh Thích viết:
“Thiên Thai, Chơn Ngôn tuy mang tiếng là Ðốn giáo, nhưng cần phải đoạn Hoặc rồi mới chứng lý nên còn là Tiệm giáo. Giảng rõ phàm phu chưa đoạn Hoặc, vượt thẳng khỏi tam giới thì chỉ riêng có giáo pháp này; nên giáo pháp này là đốn nhất trong Ðốn giáo”.
Ngài Nhật Khê lại bảo: “Các giáo pháp của thánh đạo về lý thì viên dung, nhưng về mặt lợi ích còn cách ngại, thiên lệch; bởi khó tìm được căn cơ Ðốn Giáo. Vì vậy, về giáo pháp thì viên dung, nhưng xét trên căn cơ lại thành Tiệm. Bảo Tịnh Ðộ là viên đốn vì lợi ích nhanh chóng viên mãn”.
Nghĩa là:
Các thánh giáo khác tuy đủ lý viên dung, nhưng căn cơ chúng sanh thô thiển, chẳng rõ hiểu nổi ý chỉ, không cách chi lãnh hội, khởi hạnh để hưởng được lợi ích của pháp. Vì vậy pháp tuy là viên đốn, nhưng do căn cơ hành nhân cạn cợt, đốn pháp thành tiệm, viên pháp thành thiên lệch. Còn Tịnh Ðộ chẳng giống vậy, ai cũng hành được, đều được cái lợi chơn thật, chẳng nhọc đoạn hoặc vượt thẳng khỏi tam giới nên thật là giáo pháp viên mãn, đốn nhất trong Ðốn giáo.
Thêm nữa, sách Viên Trung Sao chép: “Pháp môn viên đốn trước hết cũng cần phải khai ngộ, viên giải, rồi kế đó mới tu hành viên mãn, phá tam hoặc mới chứng nổi viên quả để đạt đến bất thoái. Nay pháp này chỉ nói hai báo: y, chánh cõi kia để khai giải sanh lòng tin, bảy ngày trì danh, nhất tâm bất loạn, dùng đấy để làm phương cách tu hành. Lúc lâm chung liền được vãng sanh, được bất thoái chuyển. Vì thế, thấy được rằng kinh này là đề hồ vô thượng trong đời ác ngũ trược”. Ðủ thấy, ý của Viên Trung Sao cũng gần giống với ý kiến của các bậc đại đức người Nhật vừa dẫn ở phần trên. Hơn nữa, gọi kinh này là vô thượng đề hồ, tự nhiên kinh này phải là giáo pháp khế lý, khế cơ, viên đốn cùng cực vậy. Vì vậy, bộ Ngốc Sao của Nhật viết: ‘Vả lại, Ðốn Giáo có nhị giáo, nhị siêu.

Nhị giáo thì:
- Một là Thật giáo là đạo khó hành, tức là các giáo pháp Phật tâm, Chơn Ngôn, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v...
- Hai là Tịnh Ðộ bổn nguyện là đạo dễ hành, như Ðại Thừa Vô Lượng Thọ v.v...

Về nhị siêu thì,
một là thụ siêu (siêu theo chiều dọc), hai là hoành siêu (siêu theo chiều ngang)’.

Sách Bình Giải giảng rằng: “Do tự lực tu đoạn nên gọi là thụ siêu. Tịnh độ bổn nguyện là pháp thật sự do tha lực siêu việt thành Phật nên gọi là hoành siêu.... Trong các đốn pháp của hoành siêu, trì danh là đốn nhất trong các đốn”.

Các vị đại đức trên đây đều tuân theo thuyết của Thiện Ðạo đại sư, phán định kinh này là giáo pháp đốn cực, đốn tốc, viên dung, viên mãn. Chẳng hạn như sách Bình Giải xưng tụng kinh này là “chuyên bậc nhất trong các chuyên, đốn bậc nhất trong các đốn, chơn bậc nhất trong các chơn, viên bậc nhất trong các viên”, là “giáo pháp dứt bặt đối đãi bất nhị, là đạo Nhất Thừa chơn như”.

Sách Di Ðà Yếu Giải chép: “Một đời giáo hóa của Phật Thích Ca chỉ có kinh Hoa Nghiêm nói lên nhất sanh viên mãn (một đời tu được trọn vẹn thành Phật), mà cái nhân của nhất sanh viên mãn ấy là mười đại nguyện vương dẫn dắt về An Dưỡng nằm trong phẩm cuối cùng là Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đem việc ấy khuyến khích Hoa Nghiêm hải chúng.
Than ôi! Phàm phu đạt ngay lên địa vị bổ xứ là một điều đề xướng, đàm luận lạ lắm, cao lắm, chẳng thể suy lường nổi. Chỗ phát khởi của kinh Hoa Nghiêm nằm ngay trong kinh này mà thiên hạ xưa nay ít kẻ tin, lắm kẻ ngờ. Càng viết lắm nghĩa càng mờ mịt, tôi chỉ còn cách mổ tim vẩy máu [để giãi bày] mà thôi”.
(41) T2


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Sách Yếu Giải còn viết: “Vì vậy, đời tương lai kinh pháp diệt hết, riêng lưu lại kinh này tồn tại trong đời một trăm năm để rộng độ hàm thức. Thuốc a già đà trị chung muôn bịnh, dứt bặt đối đãi một cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Áo tạng Hoa Nghiêm, bí tủy Pháp Hoa, tâm yếu của hết thảy chư Phật, kim chỉ nam cho muôn hạnh Bồ Tát đều chẳng ra ngoài kinh này. Muốn khen ngợi, trình bày đầy đủ thì dẫu cả kiếp cũng chẳng nói hết được”.

Kinh Pháp Hoa được tông Thiên Thai tôn sùng là thuần viên, không kinh nào mầu nhiệm bằng. Kinh Hoa Nghiêm được tông Hiền Thủ coi là biệt giáo Nhất Thừa, sự sự vô ngại, là giáo pháp hoàn toàn viên mãn. Nay đại sư Ngẫu Ích chỉ rõ: cái thuần viên của tông Thiên Thai, cái toàn viên của Hiền Thủ, cái bí tủy và áo tạng của những tông ấy đều chẳng ra ngoài kinh này, đủ thấy kinh này đúng là toàn viên. Hơn nữa, điểm cốt tủy của kinh Pháp Hoa là thuần viên nên nói rằng: kinh này thật là viên nhất trong các pháp viên mãn. Ðây thật là dị khẩu đồng thanh với lời phán giáo của các vị đại đức Nhật, thật đúng như lời thường nói trong nhà Thiền: “Thởcùng một lỗ mũi” vậy.

Cận đại, bậc đại đức trong Tịnh tông là đại sư Ấn Quang khen ngợi sách Yếu Giải rằng: “Lý sự đều đạt đến chỗ tuyệt diệu, kể từ khi Phật thuyết kinh này đến nay, [Yếu Giải] là bản chú giải bậc nhất, khéo léo nhất, xác thực nhất. Ví dù cổ Phật xuất thế chú giải lại kinh này cũng chẳng thể hay hơn được nữa”. Ðủ thấy lời phán giải về kinh này của sách Yếu Giải giống như là của đích thân Phật phán định vậy.
Ngoài ra, sách Sớ Sao viết: “Căn cứ theo năm phần phán giáo của Hiền Thủ, tức là: Tiểu, Thỉ, Chung, Ðốn, Viên, nay kinh này thuộc về Ðốn giáo mà cũng kiêm thuộc cả hai giáo trước và sau (tức là Chung và Viên).Viên giáo nhiếp trọn kinh này, kinh này nhiếp một phần Viên giáo”.
Lại viết: “Tứ pháp giới là: Một là sự pháp giới, hai là lý pháp giới, ba là sự lý vô ngại pháp giới. Ba giới này các giáo pháp khác cũng có. Bốn là sự sự vô ngại pháp giới chỉ một mình kinh Hoa Nghiêm là có nên gọi là Biệt Giáo Nhất Thừa. Với cái toàn viên của kinh Hoa Nghiêm, kinh này (kinh A Di Ðà) được ít phần. Viên giáo nhiếp trọn kinh này, kinh này nhiếp được một phần Viên giáo.

Do Liên Trì đại sư đã phán định kinh Tiểu Bổn là phần viên, ngài bèn nêu lên mười điều về sự sự vô ngại pháp giới của hai kinh Tiểu Bổn, Ðại Bổn để chứng minh rằng kinh A Di Ðà có ít phần thuộc về Viên giáo. Rõ ràng Liên Trì đại sư cũng phán định kinh A Di Ðà là giáo pháp viên đốn, đấy là điểm tương đồng giữa các đại đức Trung Hoa, Nhật Bản. Ðiểm khác biệt là: hoặc có vị đề cao kinh này là giáo pháp viên mãn nhất trong các pháp Viên giáo, hoặc khiêm nhường cho rằng nó chỉ có đôi phần thuộc Viên giáo. Ðấy là do cơ duyên khác biệt nên thiện xảo chẳng đồng, chứ bổn hoài của ngài Liên Trì và Thiện Ðạo, Ngẫu Ích với các đại đức Nhật Bản nào có khác nhau mảy may! Chẳng qua, lúc trước tác bộ Sớ Sao, đúng là lúc Cuồng Thiền sôi nổi nên đại sư Liên Trì chẳng thể không dùng phương tiện thiện xảo quyền nghi để dìu dắt các căn cơ; cho nên phương tiện mà nói thế. Thật đúng như lời cư sĩ Trầm Thiện Ðăng bảo: “Ấy là bậc đại quyền Bồ Tát thuận theo căn cơ của đương sự để tùy bịnh cho thuốc nhằm thích ứng với thời tiết nhân duyên mà thôi”.
Trong bộ Sớ Sao, Liên Trì đại sư dẫn đủ các đoạn kinh sự sự vô ngại pháp giới của Tịnh tông thật là ngụ ý sâu xa đủ chứng tỏ nỗi khổ tâm của ngài. Vì sự sự vô ngại chỉ là điều kinh Hoa Nghiêm chuyên có, ta thấy được rằng: đại sư rộng dẫn các chứng cớ từ kinh [Vô Lượng Thọ] để chứng minh kinh này thật sự nói về sự sự vô ngại pháp giới thì ngài cũng đã chứng minh được kinh này thuộc về Viên giáo thật chẳng còn ngờ vực gì nữa.

Nay tôi cũng noi bước đại sư, chuyên luận về huyền nghĩa sự sự vô ngại pháp giới của kinh này. Tông Hoa Nghiêm lập ra mười huyền môn để chỉ bày pháp giới vô ngại. Gọi là “huyền môn” vì nếu thông đạt những môn này thì có thể nhập được biển Viên giáo huyền diệu của Hoa Nghiêm nên gọi là huyền môn.
Nay tôi sẽ dựa theo thứ tự của Thập Huyền nói trong sách Thám Huyền Ký, dẫn chứng kinh văn để chỉ rõ kinh này thật sự đủ cả Thập Huyền. Nhân đó, xác chứng kinh này thật sự thuộc về Viên giáo, thật sự là kinh Hoa Nghiêm bản trung, nhằm chứng minh các thuyết được nêu ở phần trước là lời chơn thật, chứ chẳng phải do hành nhân Tịnh Tông dối trá tự tôn tự đại vậy.

a). Ðồng thời cụ túc tương ưng môn
Giáo lý Hoa Nghiêm lấy duyên khởi làm chủ. Toàn bộ hết thảy các thứ trong pháp giới gộp thành một đại duyên khởi. Một pháp thành hết thảy pháp, hết thảy pháp khởi một pháp, cùng một lúc đầy đủ, viên dung hiển hiện, nên bảo là ‘cụ túc tương ưng’.
Phẩm Diệu Nghiêm của kinh Hoa Nghiêm chép: ‘Biển hết thảy pháp môn vô tận cùng hội trong một pháp đạo tràng’. Ðại Sớ giảng: ‘Như một giọt nước biển có đủ vị của cả trăm sông’. Ðó là huyền nghĩa của môn này.
Trong kinh Vô Lượng Thọ đây hiển thị đầy đủ huyền môn ‘đồng thời cụ túc tương ưng’ như trong phẩm Chí Tâm Tinh Tấn, Pháp Tạng tỳ kheo ‘với các sự trang nghiêm công đức của hai mươi mốt câu chi cõi Phật đó hiểu rõ thông đạt như một cõi Phật. Cõi nước Phật được ngài nhiếp thủ còn vượt xa hơn những cõi Phật nói trên’. Hai mươi mốt câu chi cõi Phật đề cập trong kinh biểu thị vô lượng cõi Phật. Pháp Tạng tỳ kheo nhiếp vô lượng cõi Phật làm thành một Cực Lạc Tịnh Ðộ chính là nghĩa ‘hết thảy các pháp cùng thời, cùng chỗ’ của kinh Hoa Nghiêm, do một đại duyên khởi mà tồn tại ‘cụ túc tương ưng’. Ðây là tổng môn của Thập Huyền, thật cũng là tổng tướng của kinh đây.
Kinh Vô Lượng Thọ đây cũng do cùng một đại duyên khởi mà xuất hiện vậy! Hơn nữa, trong phẩm Tuyền Trì Công Ðức chép: ‘Nước [nơi ao suối] đó mỗi việc đều tùy thuận ý của chúng sanh’. Chúng sanh muốn nước lạnh, nóng, chảy nhanh, chậm, cạn, sâu, mỗi điều chẳng giống nhau, nhưng cùng một dòng nước ấy có thể cùng lúc đáp ứng ý muốn của từng chúng sanh một.
Nước là một pháp, ý muốn của chúng sanh là nhiều pháp, mà cũng một dòng nước đồng thời đáp ứng ý muốn của các chúng sanh. Ðấy đúng là huyền môn ‘đồng thời cụ túc tương ưng’ vậy. Huống hồ nước ấy lại còn có thể đồng thời ‘sóng vỗ vô lượng âm thanh vi diệu: hoặc nghe tiếng Phật, Pháp, Tăng cho đến tiếng cam lộ quán đảnh thọ lãnh địa vị. Ðược nghe các tiếng như vậy rồi, tâm họ thanh tịnh, không có các phân biệt, chánh trực, bình đẳng, thành thục căn lành. Ðiều họ được nghe đều tương ứng với pháp. Ðiều gì mong nghe, tai liền được nghe. Ðiều gì không muốn nghe, trọn không phải nghe. Trọn chẳng lui sụt tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác’.
Chỉ cùng một dòng nước mà có thể cùng một lúc, cùng một chỗ thỏa mãn ước muốn của hết thảy người nghe: ai nấy được nghe pháp mình mong nghe, mà điều họ nghe được lại tương ứng với pháp. Ðủ thấy toàn thể tổng môn của thập huyền nơi kinh Hoa Nghiêm được hiển thị trong kinh này vậy.
(44) T2


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

b). Quảng hiệp tự tại vô ngại môn
Ðại Sớ giảng: "Như nơi cái gương đường kính một thước mà thấy cảnh cả mười dặm". Gương ví cho cái hẹp (hiệp), cảnh mười dặm ví cho cái rộng (quảng).
Phẩm Phát Ðại Thệ Nguyện của kinh Vô Lượng Thọ chép: "Cõi Phật ấy ngự rộng rãi nghiêm tịnh, sáng rực như gương, chiếu tột mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới chư Phật".
Dùng lực dụng của một cõi soi tỏ khắp mười phương là Quảng. Tướng của một cõi chẳng hoại là Hiệp. Cái rộng rãi của lực dụng vô hạn và cái hẹp của một pháp chẳng trở ngại nhau, mỗi thứ đều tự tại nên gọi là “quảng hiệp tự tại vô ngại”.
Lại nữa: "Muốn thấy sự trang nghiêm của các cõi Phật thanh tịnh thảy đều thấy được nơi cây báu, ví như gương sáng thấy rõ khuôn mặt". Cũng giống như trên, câu này cũng minh thị quảng hiệp tự tại vô ngại môn.

c). Nhất đa tương dung bất đồng môn
Ðại Sớ viết: "Như ngàn ngọn đèn trong một căn nhà, ánh sáng xen lẫn nhau". Trong một có nhiều, trong nhiều có một, đó là "tương dung" (chứa đựng lẫn nhau), nhưng tướng của một và nhiều chẳng mất nên là "bất đồng".
Phẩm Lô Xá Na Phật của kinh Hoa Nghiêm dạy: "Dùng một cõi Phật choán đầy mười phương. Mười phương bỏ vào một cõi cũng chẳng dôi ra. Tướng trạng vốn có của từng thế giới cũng chẳng bị hư hoại. Công đức không gì so sánh nổi cũng giống như vậy".
Một cõi đầy chật cả mười phương, mười phương vào trong một cõi là nghĩa "tương dung". Tướng vốn có của từng thế giới chẳng bị hư hoại là nghĩa "bất đồng".
Trong kinh Vô Lượng Thọ đây, lời nguyện hương báu xông khắp của Phật Di Ðà như sau: "Tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới".
Bất cứ một vật gì trong muôn vật ở cõi Ngài cũng đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Dùng vô lượng hương báu gộp thành một vật, biểu thị hết thảy pháp vào trong một pháp, biểu thị "một và nhiều chứa đựng lẫn nhau" (nhất đa tương dung). Tướng của mỗi một vật lại cùng tồn tại bên cạnh tướng của các thứ hương, biểu thị ý nghĩa hai tướng chẳng đồng. Hương ấy lại tỏa khắp mười phương thế giới còn minh thị rằng một pháp trọn có mặt trong tất cả pháp, đấy lại là hiển thị diệu lý "nhất đa tương dung bất đồng" vậy.

d). Chư pháp tương tức tự tại môn
Phần trên giải thích về ‘tương dung’, phần này nói về ‘tương tức’.
Phẩm Thập Trụ của kinh Hoa Nghiêm, bản dịch đời Tấn, chép: ‘Một tức là nhiều, nhiều tức là một’. Ví như nước với sóng, nước ví cho một, sóng ví cho nhiều. Sóng tức là nước, nước tức là sóng, cái này tức là cái kia (tương tức), mà mỗi thứ tự tại, nên nói là ‘tương tức tự tại’. Lại nữa, Ðại Sớ viết: ‘Như vàng và màu sắc của vàng, hai thứ chẳng rời nhau’.
Trong phẩm Pháp Tạng Nhân Ðịa của kinh Vô Lượng Thọ đây có chép:
‘Thế Tôn có thể diễn ra một âm thanh. Mỗi một hữu tình tùy theo loài của mình mà hiểu. Ngài lại có thể hiện ra một sắc thân mầu nhiệm khiến khắp các chúng sanh tùy theo chủng loại của chúng mà thấy [sai khác]’.
Câu này cũng chỉ rõ: hết thảy âm hàm chứa trong một âm, hết thảy thân trong một thân, hết thảy tức là một, một tức là hết thảy, nhiều tức là một, một tức là nhiều. Như sóng với nước, một nước nhiều sóng là nghĩa ‘tương tức tự tại’.
Lại như phẩm Tán Thán Phật Ðức trong kinh đây có chép: ‘Hoa được rải lên ấy liền ở trong không trung hợp thành một hoa. Hoa ấy chẳng rơi xuống, tròn trịa đầy đặn, hóa thành một lọng hoa’. Nhiều hoa thành một hoa, nên nhiều tức là một. Trong một hoa hàm chứa nhiều hoa, nên một tức là nhiều. Như vậy, kinh này đã hiển thị huyền môn thứ tư.

e). Ẩn mật hiển liễu câu thành môn
Ðại Sớ viết: ‘Như một mảnh trăng trong vắt trên không, tối và sáng cùng có’. Ý nói: trong ẩn có hiển, trong hiển có ẩn. Phẩm Lễ Phật Hiện Quang trong kinh này chép:
‘A Di Ðà Phật liền từ bàn tay phóng ra vô lượng quang, chiếu khắp hết thảy thế giới chư Phật. Khi đó, các cõi nước Phật thảy đều hiện rõ như trong khoảng một tầm’.
Lại chép: ‘Cho đến Nê Lê, khe, hang, chỗ tối tăm đều sáng bừng lên, đều cùng một màu. Ví như kiếp thủy đầy ngập thế giới, mọi vật trong ấy đều chìm lấp chẳng hiện, mênh mông, bát ngát, chỉ thấy nước lớn. Quang minh của đức Phật ấy cũng như thế, hết thảy quang minh của Thanh Văn, Bồ Tát đều bị trùm lấp, chỉ thấy Phật quang sáng lòa rực rỡ’.
Ðoạn này biểu thị hết thảy pháp chính là một pháp trong Phật quang, một pháp (Phật quang) hiển thị hết thảy pháp. (Vạn vật trong cõi này, quang minh của hiền thánh) đều ẩn. Ðó là tướng của huyền môn thứ năm: ẩn hiển câu thành.

f). Vi tế tương dung an lập môn
Ðại Sớ viết: ‘Như bình lưu ly đựng nhiều hạt cải’. Các môn nói trên đều minh thị ý nghĩa: rộng hẹp vô ngại, một, nhiều dung chứa lẫn nhau; còn môn thứ sáu này, lại chỉ rõ vô luận trong vật gì nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dung chứa hết thảy các pháp. Trong một sợi lông, một hạt bụi, có vô biên sát hải, hết thảy các pháp đồng thời cùng hiện ra như trong tấm gương hiện bóng muôn hình tượng.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Trong một hạt bụi có cõi nước nhiều như số hạt bụi. Trong mỗi một cõi có chẳng thể nghĩ nổi đức Phật’. ‘Trong đầu một sợi lông nhỏ bé nhất, xuất hiện cõi trang nghiêm ba đời’ chính là nói đến ý nghĩa này.
Nay trong phẩm Tích Công Lũy Ðức của kinh Vô Lượng Thọ đây có nói: Pháp Tạng tỳ kheo trong lúc tu nhân, ‘thân, miệng thường tỏa ra vô lượng diệu hương ví như chiên đàn, hoa ưu bát la. Hương ấy thơm ngát khắp mười phương vô lượng thế giới... Trong tay thường tuôn ra vô tận các báu, vật trang nghiêm, hết thảy các vật cần dùng tốt đẹp nhất để lợi lạc hữu tình’.
Phẩm Bảo Liên Phật Quang lại chép: ‘Trong mỗi một hoa hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật’. ‘Trong mỗi một ánh sáng’ là một tia sáng trong số ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng phóng ra từ hoa sen, biểu thị ý nghĩa chí cực vi tế. Trong ánh sáng lại hàm chứa ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật, biểu thị trong cái nhỏ nhiệm nhất lại chứa đựng hết thảy các pháp.
(46) t2


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.94 khách