LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 8
PHÁP MÔN VÔ NIỆM QUÁN KHÔNG NIỆM PHẬT TAM MUỘI

Lời tựa của Tổ sư Huệ Viễn nói về Quán không Niệm Phật Tam muội: "Tư tưởng chuyên nhất lặng lẽ, tâm chí không tán loạn, thần khí rỗng rang sáng suốt thì không có chỗ sâu kín nào mà chẳng thấu kịp. Người vào định này hồn nhiên quên hiểu biết, phiền lụy trần lao nhanh chóng tiêu tan, tình chấp ngưng trệ tiêu dung sáng tỏ. Chẳng phải là bậc Đại đạo trong thiên hạ, ai có thể dự vào đó được?".

Đại sư Trí Giả dùng môn Quán Không mà dẹp sạch tất cả pháp. Thế nên nói: "Một không thì tất cả không; không có giả, không có trung nào mà chẳng không".

Người vào pháp quán này là đạt đến Chân đế xác thật. Nay, muốn giúp người tu hành bỏ vọng về chân, nên gọi là từ pháp Quán Giả vào Quán Không. Bởi lẽ, pháp Quán Giả là lời thuyết minh giải thích để đi vào Quán Không. Trước phải quán xét tất cả pháp là giả dối, cho đến bốn đại(43), năm uẩn, sáu căn(44), sáu trần(45), sáu thức(46), cùng tận thế giới trong mười phương, núi sông, quả đất đều không có một vật. Biết rõ toàn là giả dối, mà thể hội chỗ chân thật, thế nên gọi là pháp quán về Nhị đế47).

Người tu pháp này trước cần phải nhiếp tâm ngồi yên lặng, tận tâm quét sạch tất cả cảnh giới giả dối không thật ở thế gian, hoàn toàn không dính mắc, chỉ quán xét ở nơi không. Vì thế, kinh Bát Nhã nói: "Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không; không không cũng không thể được". Như thế, nhanh chóng vào biển không sáng suốt quý báu của Như Lai. Tánh giác chân không tức là Như Lai tạng. Tánh không tròn sáng, linh quang chiếu khắp vì là bản tánh của pháp giới. Như ngọc Ma ni tùy theo ý của người phát sinh ra những báu vật, như biển cả sông rộng thâu nhiếp chứa đựng tất cả. Trí tánh bình đẳng gọi là Tri kiến Phật.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Các hành vô thường, tất cả không
    Là đại Viên giác của Như Lai.


    CHÚ THÍCH:
(43) Bốn đại (Caturmahādhātu): bốn yếu tố cơ bản hình thành nên thể chất (thân vật lý) của con người, bao gồm:
  • a. Chất khoáng (Pathavī - đất).
    b. Chất lỏng (Āpo - nước).
    c. Nhiệt độ (Tejo - sức nóng).
    d. Hơi khí (Vāyo - gió).
Gọi chung về thân tứ đại là đất, nước, gió, lửa.

(44) Sáu căn (six sense organs): sáu căn (quan) năng mà theo Phật giáo, con người thông qua để nhận thức thế giới:
  • a. Nhãn căn (mắt).
    b. Nhĩ căn (tai).
    c. Tỷ căn (mũi).
    d. Thiệt căn (lưỡi).
    e. Thân căn (thân).
    f. Ý căn (ý) ý thức.
(45) Sáu trần (six sense objects): sáu trần:
  • a. Sắc.
    b. Thanh.
    c. Hương.
    d. Vị.
    e. Xúc.
    f. Pháp.
(46) Sáu thức (six sense of consciousness): sáu thức:
  • a. Nhãn thức.
    b. Nhĩ thức.
    c. Tỷ thức.
    d. Thiệt thức.
    e. Thân thức.
    f. Ý thức.
(47) Nhị đế: Tục đế (sự thật ước lệ) và Chân đế (sự thật rốt ráo).
Chương 9
PHÁP MÔN CHUYÊN TƯỞNG NHẬT QUÁN NIỆM PHẬT TAM MUỘI
Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy:

- Bà và chúng sinh nên chuyên tâm buộc niệm một chỗ, tưởng về Tây Phương. Nói về sự quán tưởng, tất cả chúng sinh nếu chẳng phải là người mù thì ai cũng có mắt nên đều thấy cảnh mặt trời lặn. Hãy khởi tưởng niệm, ngồi ngay thẳng hướng về phương Tây, nhìn kỹ mặt trời, khiến tâm trụ vững, chuyên tưởng không đổi dời. Lúc mặt trời sắp lặn, hình dáng giống như cái trống treo lơ lửng. Đã thấy mặt trời rồi thì khi mở mắt, nhắm mắt đều khiến cho thấy rõ ràng. Đó là pháp quán tưởng về mặt trời, gọi pháp quán ban đầu
".

Hành giả vào pháp quán này, nên ở chỗ yên tĩnh, đoạn dứt mọi duyên bên ngoài, ngồi ngay thẳng thu nhiếp tâm, quán kỹ mặt trời hiện đang ở trước mắt, chú tâm vào một cảnh, lắng lặng tịch tĩnh như đối trước gương sáng tự thấy mặt mình. Nếu tâm rong chạy tán loạn thì chế ngự khiến nó trở về, tâm dừng trụ an định liền được Tam muội.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Kim ô đáy biển, vầng nhật trên trời,
    Con ngươi trong mắt người trước mặt.
Chương 10
PHÁP MÔN CỨU CÁNH THAM THIỀN NIỆM PHẬT TAM MUỘI
Tổ sư Huệ Viễn viết lời tựa về Thiền Kinh, nói rằng: "Thiền nếu chẳng có trí thì không thể tận cùng chỗ lặng lẽ. Trí nếu chẳng có thiền thì không thể soi chiếu sâu xa. Thiền và trí là nói về soi sáng và lặng lẽ. Hai bên hỗ trợ lẫn nhau, soi sáng không lìa lặng lẽ, lặng lẽ không lìa soi sáng. Cảm ứng thì đều cùng một lối như nhau".

Ngài Từ Chiếu nói:

"- Lặng lẽ mà thường soi sáng, soi sáng mà thường lặng lẽ. Thường lặng lẽ, thường soi sáng gọi là Thường Tịch Quang. Người niệm Phật muốn tham thiền thấy tánh, chỉ cần y vào pháp này. Phải ở nơi tịnh thất ngồi ngay thẳng, dẹp trừ các duyên phiền lụy, cắt đứt tình trần, mở mắt vừa phải, ngoài không vướng cảnh, trong không trụ định, soi sáng lại chính mình, trong ngoài đều lặng lẽ. Sau đó, âm thầm cất tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật năm ba tiếng, rồi soi sáng lại tự mình nghiền ngẫm: "Thấy tánh thì thành Phật, rốt cuộc cái gì là bản tánh Di Đà của ta?". Lại soi chiếu xem: "Nay, cái phát lên một niệm này là từ đâu khởi? Phải xem xét cho thấu triệt một niệm này. Lại xem xét cho thấu triệt cái xem xét ấy là ai? Tham cứu giây lâu, lại cất niệm Nam mô A Di Đà Phật. Cứ xem xét như thế, tham cứu như thế, cấp thiết thực hành công phu, chớ để gián đoạn. Tỉnh sáng không mờ, như gà ấp trứng, không câu nệ hình thức, trong bốn oai nghi đều thực hành xem xét. Niệm như thế, nghiền ngẫm như thế, tham cứu như thế, một hôm bỗng ở nơi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nghe tiếng, thấy sắc được khai thông tỏ ngộ, tận mắt thấy bản tánh Di Đà. Thân tâm trong ngoài nhất thời thấu suốt, trọn cả càn khôn quả đất là một cõi Tây Phương, vạn tượng sum la đều là chính mình, lặng lẽ mà không bỏ xót sự soi sáng, tuy hành động mà chẳng rời chỗ lặng lẽ. Sau đó, vận dụng lòng từ bi tiếp dẫn những người chưa ngộ. Bi trí viên dung, bước vào hạnh không ra công dụng sức, được sinh lên Thượng phẩm, gọi là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, được Nhất thiết chủng trí".

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Muôn thuở đầm xanh trăng giữa trời,
    Ba lần mò bắt mới rõ hay.
Chương 11
PHÁP MÔN ĐIỀU HÒA HƠI THỞ NHIẾP TÂM NIỆM PHẬT TAM MUỘI
Phẩm Hiền Hộ trong kinh Đại Tập nói: "Người cầu đạo giác ngộ tột cùng nên tu Niệm Phật Thiền Tam muội".

Kệ rằng:
  • Nếu người chuyên niệm Phật Di Đà
    Gọi là Thiền sâu mầu cao tột
    Lúc chí tâm quán tưởng thấy Phật
    Chính là pháp chẳng sinh chẳng diệt.
Kinh Tọa Thiền Tam Muội nói: "Bồ tát tọa thiền, không nghĩ nhớ chi cả, chỉ niệm một đức Phật liền được Tam muội. Người mới tu tập, chưa tránh khỏi hai bệnh hôn trầm và tán loạn, cần phải nhờ sự đối trị".

Nhân Thiên Bảo Giám nói: "Phàm tu thiền định nên vào tĩnh thất, ngồi ngay thẳng, đếm hơi thở ra vào, từ một tới mười, từ mười tới trăm, từ trăm tới ngàn muôn. Thân lặng yên, tâm này tịch tĩnh, đồng như hư không, chẳng nhọc ngăn chặn. Như thế, lâu dần hơi thở tự trụ, không ra không vào, thời biết hơi thở này từ trong lỗ chân lông, tám vạn bốn ngàn hơi nóng bốc lên, các căn bệnh từ xa xưa đến nay tự nhiên được khỏi, mọi sự chướng ngại tự nhiên tiêu diệt, tự nhiên tỏ ngộ. Ví như người mù bỗng nhiên sáng mắt, khi ấy thấy suốt, không cần tìm người chỉ đường nữa".

Nay, người tu pháp Niệm Phật Nhiếp Tâm này, muốn được nhanh chóng thành tựu Tam muội, thì việc đếm hơi thở rất là thiết yếu để đối trị hôn trầm và tán loạn.

Phàm lúc muốn ngồi, trước nên tưởng thân mình ở trong ánh sáng tròn đầy, thầm quán nơi chót mũi, tưởng hơi thở ra vào. Mỗi một hơi thở niệm thầm một câu A Di Đà Phật. Dùng phương tiện điều hòa hơi thở, không hưỡn không gấp, tâm và hơi thở nương nhau, theo sự ra vào của hơi thở. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể thực hành đừng để gián đoạn. Thường tự âm thầm hành trì cho đến vào sâu Thiền định. Hơi thở và câu niệm Phật cả hai đều quên thì thân tâm này đồng như hư không, lâu dần thuần thục, mắt tâm tỏ sáng, Tam muội bỗng nhiên hiện tiền, tức là Tịnh độ duy tâm.
Chương 12
PHÁP MÔN CHUYÊN NIỆM NHẤT TƯỚNG NIỆM PHẬT
Kinh Đại Bát Nhã nói: "Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, Bồ tát tu hành pháp gì để mau chóng chứng đắc đạo giác ngộ tột cùng?

Đức Phật đáp:

- Bồ tát hay tu hành chân chánh về Nhất Tướng Trang Nghiêm Tam muội thì mau chứng đắc giác ngộ.

Người tu hạnh này nên rời chỗ huyên náo, không nghĩ mọi hình tướng, chuyên tâm buộc niệm nơi một đức Như Lai. Nhớ kỹ danh hiệu, khéo tưởng dung nghi, đó tức là quán tưởng khắp tất cả chư Phật trong ba đời. Như thế, liền được tất cả trí tuệ của chư Phật
".

Thập Nghi Luận của ngài Thiên Thai nói: "Tất cả chư Phật thảy đều bình đẳng, chỉ vì chúng sinh căn cơ chậm lụt, tư tưởng vẩn đục tán loạn nhiều, nếu không chuyên tâm buộc niệm nơi một đức Phật thì tâm phân tán, khó thành tựu Tam muội. Thế nên, chỉ dạy họ chuyên niệm Phật A Di Đà, đó tức là Nhất Tướng Tam muội".

Luận Bảo Vương nói: "Người tu trì Nhất Tướng Niệm Phật Tam muội, khi đi, đứng, ngồi, nằm nên buộc niệm không quên. Dù cho ngủ nghỉ cũng buộc niệm, đến khi thức dậy thì tiếp tục thực hành, không để việc khác làm gián đoạn, không cho tham, sân làm ngăn cách, có lỗi lầm gì thì liền sám hối. Không có niệm gì gián cách, không có niệm nào khác, không cách ngày, không cách thời. Niệm niệm thường không rời Phật, niệm niệm thanh tịnh tròn sáng, đó là thành tựu Nhất Tướng Tam muội".

Như thế, thật đáng gọi là: "Nếu rõ một, muôn việc đều xong".
Chương 13
PHÁP MÔN HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC SÁU THỜI NIỆM PHẬT
Tổ sư Huệ Viễn lập ra Liên Xã ở Đông Lâm để tăng tục cùng tu, bậc đại trí hiền đức có thể thâm nhập thiền quán, được Niệm Phật Tam muội. Hàng trung lưu sáu thời tu lễ Tịnh độ, hồi hướng nguyện sinh về Tây Phương. Đời Đường có lời thơ rằng:
  • Viễn Công riêng khắc Liên Hoa lậu
    Còn ở non sâu lễ sáu thời.
Phàm người tu pháp này, trước ở nơi tịnh thất an trí tượng Phật, dùng hương hoa, đèn nến tùy phần cúng dường, gội rửa trần cấu, mặc áo sạch sẽ. Mỗi ngày, sáng trưa, chiều tối, đầu hôm, khuya, rạng sáng, tự mình đối trước Tam Bảo, thân thể trang nghiêm chắp tay lễ bái Tây Phương. Mỗi khi mắt thấy dáng vẻ từ bi thì xưng niệm Thánh hiệu Nam mô A di đà Phật một ngàn lần, lễ Phật 48 lạy, đọc văn phát nguyện hồi hướng Tây Phương. Mỗi ngày: sáng ba thời, tối ba thời, trong sáu thời hành đạo tinh chuyên không mỏi mệt, quyết chí tu trì, hạnh nguyện vững chắc, cho đến khi Tịnh nghiệp được thành tựu trọn vẹn, ngày sau ắt được Trung phẩm Trung sinh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 14
VĂN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG TÂY PHƯƠNG CỦA ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ
(Phần bổ sung)
  • Cúi lạy Tây Phương cõi An Lạc
    Tiếp dẫn chúng sinh Đại Đạo sư
    Nay con phát nguyện, nguyện vãng sinh
    Nhờ đức từ bi thương nhiếp thọ!
Nay con khắp vì, bốn ơn ba cõi, pháp giới chúng sinh, cầu đạo Bồ đề, Nhất thừa của Phật; chuyên tâm trì niệm, Hồng danh muôn đức, Phật A Di Đà, nguyện sinh Tịnh độ. Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ nặng, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành, nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối. Con và chúng sinh, nhiều kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham sân si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết, nguyện đều tiêu diệt.

Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo, siêng tu đạo Thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành Chánh Giác, thề độ chúng sinh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng, A Di Đà Phật, được chơi cõi Tịnh, của đấng Đạo sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng. Tịch Quang cảnh thật, thường được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả, bệnh khổ ách nạn, tâm dứt tất cả, tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí, cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các tràng phan, nhạc trời hương lạ. Tây Phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng, khiến cho chúng sinh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ đề tâm. Bấy giờ thân con, ngồi đài kim cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón tay, sinh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cõi Tây Phương. Rồi khi hoa nở, thấy Phật Bồ tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng Vô sinh nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ân thọ ký. Được thọ ký xong, ba thân(48), bốn trí(49), năm nhãn sáu thông(50), vô lượng trăm ngàn, môn Đà la ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu. Từ đó về sau, không rời An Dưỡng, trở lại Ta bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sinh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sinh Tây Phương, lên ngôi Bất thối.

Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng sinh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận, đại nguyện của con, cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ân(51) khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sinh, đồng thành chủng trí.
  • CHÚ THÍCH:
(48) Ba thân: chỉ cho Pháp thân, Báo thân và Ứng thân của chư Phật.

Thân nghĩa là tụ tập, tụ tập các pháp mà thành thân, vì thế sự tụ tập về lý pháp gọi là Pháp thân, sự tụ tập về trí pháp gọi là Báo thân, sự tụ tập của các pháp công đức gọi là Ứng thân. Hoặc gọi là Pháp thân Phật, Báo thân Phật, Ứng thân Phật; Pháp Phật, Báo Phật, Ứng Phật; Pháp thân, Ứng thân, Hóa thân; Pháp thân Phật, Báo Phật, Hóa Phật; Pháp Phật, Báo Phật, Ứng hóa Phật; Chân thân, Ứng thân, Báo thân; Tự tánh thân, Mãn tư dụng thân, Hóa thân; Tự tánh thân, Ứng thân, Hóa thân; Pháp thân, Ứng thân, Hóa thân; Pháp tánh thân, Thọ dụng thân, Biến hóa thân; Tự tánh thân, Thọ dụng thân, Biến hóa thân; Tự tánh thân, Thực thân, Biến hóa thân; Pháp thân Phật, Thọ dụng thân Phật, Hóa thân Phật; Chánh pháp Phật, Tu thành Phật, Ứng hóa Phật; Phật sở kiến thân, Bồ tát sở kiến thân, Nhị thừa phàm phu sở kiến thân.

(49) Tứ trí: gọi đủ: Tứ trí tâm phẩm.

Tứ trí của quả Phật, do tông Duy thức thành lập, tức chuyển biến các thức thứ 8, thứ 7, thứ 6 và 5 thức trước hữu lậu thành 4 thứ trí vô lậu là Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí và Thành Sở Tác Trí.

(50) Sáu thông: sáu diệu dụng vô ngại tự tại của Phật, Bồ tát do nương sức định huệ mà thị hiện. Đó là: Thần túc thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Thiên nhãn thông và Lậu tận trí chứng thông.

(51) Tứ ân: bốn công ơn. Phật dạy các hàng đệ tử cần phải có bổn phận báo đáp bốn công ơn đó. Đó là ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, ơn tổ quốc và ơn chúng sinh.
Chương 15
PHÁP MÔN BUỘC NIỆM SÁM HỐI NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC

Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Nếu khi tôi thành Phật, chư thiên, nhân dân trong vô lượng thế giới ở khắp mười phương, nghe danh hiệu tôi rồi dâng hương, rải hoa, đốt đèn, treo phan, cúng dường thức ăn cho Sa môn, xây dựng chùa tháp, trai giới thanh tịnh, làm các việc lành, một lòng nghĩ nhớ về tôi, tuy chỉ ở trong khoảng thời gian suốt một ngày đêm cũng được sinh về cõi nước của tôi. Nếu không được như nguyện này, tôi quyết không thành Phật".

Kinh này còn nói: "Nếu khi tôi thành Phật, chư thiên, nhân dân, cho đến loài bò, bay, máy, cựa trong vô lượng thế giới ở khắp mười phương, đời trước có làm ác, nhưng khi nghe danh hiệu tôi liền sám hối làm lành, vâng giữ giới luật, thực hành theo kinh giáo, nguyện sinh về cõi nước tôi. Khi lâm chung đều không trải qua ba đường ác, thẳng tắt vãng sinh, tất cả sự mong muốn đều được như ý. Nếu không được như nguyện này, tôi quyết không thành Phật".

Người tu trì trước nên trang nghiêm thanh tịnh đàn tràng, dâng hương đốt đèn, đặt bày cúng dường, thỉnh một Tỷ kheo và các bậc Thượng thiện nhân làm tôn chứng. Rồi bạch với Phật, bày tỏ tâm ý, dứt tuyệt lo nghĩ, chớ dự tính việc nhà, đừng gần gũi vợ con, trai giới tu trì, buộc tâm niệm vào danh hiệu của Phật A Di Đà một ngày một đêm. Mỗi lần niệm là một ngàn câu, tụng một quyển kinh Di Đà. Như thế ba lần, chí tâm sám hối hồi hướng rằng: "Con hôm nay tự nghĩ: từ vô thỉ kiếp, cho đến ngày nay, đã gây nghiệp ác. Nguyện do công đức, niệm Phật ngày nay, được vào biển thệ, của đức Như Lai, nhờ sức Từ Tôn, tiêu trừ các tội, dứt sạch oan khiên. Đem các việc lành, từ nơi ba nghiệp, trang nghiêm Tịnh nguyện, phước trí hiện tiền. Con nguyện lâm chung, biết trước ngày giờ, thân không bệnh khổ, tâm không điên đảo, như vào thiền định. Trong khoảng sát na, con được đức Phật, tiếp dẫn vãng sinh, về cõi Cực Lạc, sinh trong ao báu, trên đài hoa sen. Được Phật thọ ký, được nghe kinh pháp, chóng khai Phật tuệ, rộng độ chúng sinh, mãn Bồ đề nguyện".

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Nước chảy bên đá, trôi ra lạnh,
    Gió từ trong hoa, thổi đến thơm.
Chương 16
PHÁP MÔN TÍN, NGUYỆN SỚM TỐI NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC

Bồ tát tại gia thờ Phật giữ giới, vì mỗi ngày còn lo lắng việc nhà, chưa thể nhất tâm tu hành, thì cần phải dậy sớm thắp hương đảnh lễ Tam Bảo, tùy ý niệm Phật. Mỗi ngày, lúc hoàng hôn cũng lễ niệm như thế, lấy đó làm thời khóa thường ngày. Nếu như bỏ mất thời khóa, thì ngày kế tiếp tự đối trước Phật sám hối.

Pháp môn này không làm trở ngại mọi nghề nghiệp. Kẻ sĩ chẳng trở ngại việc tu tập học hành, nông dân chẳng trở ngại việc cày cấy, người thợ chẳng trở ngại việc làm, doanh nhân không trở ngại buôn bán. Ngoài việc lễ niệm sớm tối, lại có thể trong hai mươi bốn giờ tranh thủ công phu trì niệm danh hiệu Phật trăm ngàn câu, lấy tâm chí thành làm công, mong cầu sinh về Tịnh độ. Hồi hướng rằng:

Đệ tử là..... nay lễ bái và niệm Phật được công đức, nguyện đến lúc mạng chung vãng sinh Tịnh độ. Trong ao hoa sen, tận mắt thấy Phật A Di Đà, bên hàng cây báu, gặp được bạn lành. Nguyện cho cha mẹ, sư trưởng và chúng sinh khắp pháp giới cùng mãn nguyện này.

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Chứa cát bụi gom thành núi cả,
    Giọt nước nhỏ dần thành sông lớn.
Chương 17
PHÁP MÔN MƯỜI NIỆM GIẢN ĐƠN NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC
Sám chủ Từ Vân Thức nói: "Người ở trong thế tục, công việc bận rộn lăng xăng, mỗi ngày vào lúc sáng sớm, mặc y phục tề chỉnh rồi hướng về phương Tây chắp tay niệm Nam mô A Di Đà Phật, dùng hết một hơi làm một niệm. Như thế, mười niệm chỉ theo hơi dài hoặc ngắn, khi hơi tận cùng là tròn một niệm. Tiếng niệm Phật không cao cũng không thấp, chỉ ở mức trung bình. Mười niệm như thế, liên tục không gián đoạn, chú ý đừng để tâm phân tán, lấy việc tinh chuyên làm công phu. Ở đây tức là nhờ vào hơi thở để buộc tâm. Hồi hướng rằng: nay con..... nhất tâm quy mạng, Phật A Di Đà, ở cõi Tây Phương. Nguyện dùng ánh tịnh, soi chiếu thân con. Nay con xưng niệm, danh hiệu Như Lai, trong khoảng mười niệm, cầu sinh Tịnh độ. Đức Phật thuở xưa, vốn có thệ nguyện, nếu có chúng sinh, muốn về nước tôi, xưng danh hiệu tôi, cho đến mười niệm, nếu không vãng sinh, thệ không thành Phật. Nay con nguyện đem, công đức mười niệm, nguyện lúc mạng chung, tâm không điên đảo, trong khoảng một niệm, liền sinh Cực Lạc, nghe pháp vi diệu, mau chứng được Bồ đề".

Như thế, thật đáng gọi là:
  • Lòng tin nếu không thối.
    Quyết định lễ Kim Tiên.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 18
LỜI TỰA BIỂU ĐỒ TUYỂN PHẬT
BỐN CÕI VIÊN DUNG CỦA TÔNG CHỦ TỪ CHIẾU
Cõi Thường Tịch Quang và Phàm Thánh Đồng Cư(52) chỉ là một trí không khác. Do tình sinh kia đây nên thấy có xa gần. Thấy mặt rõ sắc, tánh không như như, vốn không hai đường mà chúng sinh tự thấy có vi diệu và thô phù. Còn theo tôi thì không như thế, ở một thể Tỳ Lô trước cần phải biết rõ cội gốc, mới khỏi bị mơ hồ. Thực hành thì có tướng trạng của thực hành; trí tuệ ắt có khuôn mẫu của trí tuệ; phát nguyện thì có sức mạnh của phát nguyện; tiến tu thì có lộ trình của tiến tu. Tĩnh sáng lặng lẽ như ngọc trong sáng soi thấu tâm thể. Phàm Thánh chung đường, bốn cõi duy thông, ba thân như một, khắp nơi tức Tịnh độ, mọi chốn đều là Di Đà.

Vả lại, sơn tăng vì thấy người tu học nhận định về bốn cõi hỗn loạn không thứ tự, đến nỗi kẻ căn cơ lợi độn chẳng phân biệt được, nhân quả đều mất. Chỉ nói Tịnh độ mà chẳng biết sự cao thấp của Tịnh độ, chỉ nói do tâm mà chẳng biết sự sâu cạn của tâm. Thế nên, thấy các môn phái hủy báng lẫn nhau, ai nấy đều chấp một bên, đâu biết đâu hay tự mình phá hủy tông phong, chớ chẳng phải tà ma làm hoại được.

Nay sơ lược mở ra một lối, trình bày bốn biểu đồ, trừ dẹp mê tình, nhanh chóng tỏ sáng tâm địa. Sau đó, hằng sa pháp giới đều thâu hết trong một trang giấy, vô lượng pháp môn đều được bày tỏ chỉ nơi gang tấc.
  • CHÚ THÍCH:
(52) Phàm Thánh Đồng Cư: cõi nước mà phàm phu Nhân đạo, Thiên đạo cùng ở chung với các bậc Thánh Thanh văn, Duyên giác. Trong đó lại được chia thành hai loại:

- Phàm cư: trong đó cũng có "Tứ ác thú", là chỗ ở của ác chúng sinh và "Nhân thiên thú", là chỗ ở của thiện chúng sinh khác nhau.

- Thánh cư cũng có Thật Thánh và Quyền Thánh khác nhau. Thật Thánh là chỗ ở của những vị đã chứng Tứ quả Thanh văn, Bích Chi Phật, Lục địa của Thông giáo, Thập trụ của Biệt giáo; còn Quyền Thánh có hàng Tam thừa trong Phương Tiện Hữu Dư độ, hàng Bồ tát pháp thân, Như Lai Diệu Giác trong Thật Báo Vô Chướng Ngại độ và Thường Tịch Quang độ, ứng theo yêu cầu của chúng sinh hữu duyên mà quyền hóa sinh vào cõi này. Ngoài ra, Phàm Thánh Đồng Cư độ này lại có hai thứ là tịnh và uế, như thế giới Ta bà là uế độ đồng cư, còn cõi Cực lạc Tây phương là Tịnh độ đồng cư.
BIỂU ĐỒ TỔNG TƯỚNG BỐN CÕI VIÊN DUNG
phuban1.jpg
phuban1.jpg (212.53 KiB) Đã xem 1005 lần
Tự tánh Di Đà Phật
Duy tâm chân Tịnh độ
Tỏ ngộ chỉ một niệm
Mê lầm trải ba kỳ
Thâu nhiếp hai môn lập
Phàm Thánh một lối về
Tình đời xem ấm lạnh
Mặt người bèn thấp cao.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BA ÁNH SÁNG ĐẦY ĐỦ
phuban2.jpg
phuban2.jpg (57.51 KiB) Đã xem 999 lần
Tình phàm Thánh khác, trí có khác
Phải nhờ tu chứng hợp Tỳ Lô
Sợ người sức yếu đi mỏi mệt
Tạm chỉ Tây Phương trụ nửa đường.

Thoát ngang ba cõi ít người biết
Dễ tu dễ vãng chớ hồ nghi
Một lòng tín, nguyện niệm A Di
Lâm chung chánh niệm đi tỏ rõ.

Ba ngày, bảy ngày biết trước giờ
Đã sinh Tịnh độ thường nghe pháp
Lo gì không được ngộ chân tâm.

phuban3.jpg
phuban3.jpg (73.87 KiB) Đã xem 1000 lần
Cõi này chỉ có tín, nguyện niệm Phật, không dứt phiền não, không bỏ việc nhà, không tu thiền định. Lúc mạng chung, Di Đà tiếp dẫn, liền được vãng sanh Tịnh Độ, được thần thông, chứng bậc Bất thối, thẳng tiến Bồ đề. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư là tự tha thọ dụng, ba ánh sáng đầy đủ. Thâu nhiếp chung bốn cõi, hóa sanh trong chín phẩm. Theo lý ba cõi sau đều ở trong cõi này, chẳng ở nơi nào khác. Ở đây chỉ dẫn Hạ phẩm hạ sanh là vì Tổ sư nói rõ việc dễ tu dễ vãng sanh. Ngoài ra, phẩm vị cao thấp đều tùy theo hạnh nguyện tu chứng của mỗi người mà thành.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NHƯ ÁNH SÁNG CỦA CÁC NGÔI SAO
phuban4.jpg
phuban4.jpg (54.97 KiB) Đã xem 988 lần
Đoạn trừ phiền não dứt dấu vết
Diệt sạch tâm trí hết liền thôi
Bảo Sở không thể tiến đến trước
Như Lai phương tiện nên lưu lại.
Thoát dọc ba cõi Thanh văn tánh
Phiền não trần lao gấp đoạn trừ
Nhập định từ thiền thường quán sát
Vượt hẳn cõi phàm không trở lại.

phuban5.jpg
phuban5.jpg (74.03 KiB) Đã xem 989 lần
Cõi này đều là căn tánh Tiểu thừa định tánh, sợ hãi ba cõi như cọp, quỷ, rắn rồng, phá trừ kiến hoặc, tư hoặc, tiêu diệt tham, sân, si, đoạn dứt hạt giống Như Lai như con chương một mình trốn thoát, không nhìn lại bầy đằng sau, thiên lệch chấp trước vào cái thấy nhỏ hẹp, dính mắc đắm chìm ở chỗ rỗng lặng, cho nên sanh về cõi Phương Tiện. Đức Như Lai vì họ mà nói thuần về Đại thừa để điều phục.
  • CHÚ THÍCH:
(53) Biên công: có công lao bảo vệ, khai thác hoặc sửa trị nơi biên cương.
NHƯ ÁNH SÁNG MẶT TRĂNG
phuban6.jpg
phuban6.jpg (64.62 KiB) Đã xem 988 lần
Tam pháp nhỏ nhiệm còn chưa dẹp
Nên biết, tình hết mới nhổ gốc
Áo lót sát da đã chưa cởi
Mảy trần vẫn ngại đại càn khôn.
Chẳng ngang chẳng dọc
Tam Quán lắng tâm tiến chớ nghi
Một lực chưa thể qua bờ giác
Vẫn vậy rơi trong cơ Thánh Hiền.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

phuban7.jpg
phuban7.jpg (78.26 KiB) Đã xem 974 lần
Cõi này đều là bậc Đại thừa tu trọn vẹn về Tam quán, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Đẳng giác. Pháp thân Đại sĩ nhiều như cát bụi, ai nấy đều phá trừ từng phần vô minh, phân thân khắp mười phương thị hiện tám tướng thành đạo, độ thoát chúng sanh, nhưng các ngài vẫn chưa đạt đến chỗ cứu cánh. Giáo pháp của Thiên Thai, Hiền Thủ có nói rõ điều này.
NHƯ ÁNH SÁNG MẶT TRỜI
phuban8.jpg
phuban8.jpg (140.04 KiB) Đã xem 973 lần
Cánh trí như như dứt chứng tu
Không còn việc tạp vướng nơi lòng
Tình hết chấp trừ tin tức dứt
Một vầng trăng sáng giữa trời Thu.

Xung quanh thấu đảnh chẳng nghĩ bàn
Chỉ nơi đương niệm dứt nghĩ suy
Duy tâm Tịnh độ duy tâm tịnh
Ngay đây nhận lấy đệ nhất cơ.
Trí mở, hoặc trừ không phiền não
Trở về nguồn cội tự mình hay
Vô tâm thân khắp trần sa giới
Mặc tình thâu nhận các con về.

phuban9.jpg
phuban9.jpg (97.12 KiB) Đã xem 974 lần
Cõi này cảnh giới Tối thượng thừa, hoặc hết tình quên, các pháp chẳng sanh, Bát nhã chẳng sanh, chẳng sanh chẳng diệt gọi ;à Đại Niết bàn, rốt ráo ở nơi đỉnh núi Niết bàn, ở yên trong cõi Thường Tịch Quang, gọi là Phập Pháp thân thanh tịnh Tỳ Lô Gá Na, gọi là đến bờ bên kia, cũng gọi là chính mình ở trước kiếp không.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BỐN CÕI PHƯƠNG ĐÔNG
phuban10.jpg
phuban10.jpg (340.93 KiB) Đã xem 969 lần
Bốn cõi chẳng phương vực
Tình sinh ngại không thông
Ngộ, mê phân Đại, Tiểu
Tịnh, uế cách Tây, Đông.
Vạn vật hình tuy khác
Ngàn cơ lý tự đồng
Gió Xuân vừa thổi đến
Khắp chốn nở hoa hồng.

Đại kiến trước sau không đổi
Tiểu kiến chín phẩm khác nhau
Thượng trí chỉ tại một tâm
Hạ trí Đông, Tây cách ngại.


BỐN CÕI TÂY PHƯƠNG
phuban11.jpg
phuban11.jpg (337.4 KiB) Đã xem 967 lần
Chớ bảo Tây Phương xa
Tây Phương ở trước mắt
Tuy nói qua mười vạn
Chẳng hề rời tam thiên
Vừa mở miệng niệm Phật
Ao hoa đã trồng sen
Lòng tin nếu không thối
Quyết định lễ Kim Tiên

Tây Phương là thủ tướng
Hai môn tu chán, ưa
Nếu từ đây được vào
Khắp nơi là Tịnh độ.

Y báo và chánh báo của địa ngục A tỳ hoàn toàn ở nơi tự tâm của bậc chí Thánh; thân cõi Tỳ Lô chẳng vượt ngoài một niệm của phàm phu. Ngài Trí Giả nói: "Lại nào lại lìa Giá Na mà tìm cầu cõi Thường Tịch Quang nào khác. Nên biết Phật Tỳ Lô Giá Na ở khắp tất cả chỗ. Người khác quán xét tâm thì tất cả vạn pháp duy tâm vốn đầy đủ".
BỐN CÕI TÂM QUÁN
phuban12.jpg
phuban12.jpg (309.32 KiB) Đã xem 969 lần
Muốn biết thiên chân Phật
Trước nay dứt chứng tu
Chẳng còn kiếm bên ngoài
Chỉ hướng tự tâm cầu
Ngộ ba thân dung hợp
Mê, bốn cõi không tròn
Chớ nên sinh phân biệt
Ngay đây dừng tâm thôi!

Trọn ngày lặng lẽ sáng suốt mà chưa từng lặng lẽ sáng suốt là phàm phu. Muốn chứng ngộ chỗ lặng lẽ sáng suốt mà chưa đạt đến lặng lẽ sáng suốt cùng cực là Bồ tát. Đầy đủ lặng lẽ sáng suốt mà an trụ nơi lặng lẽ sáng suốt là Như Lai. Tịnh độ Thường Tịch Quang lìa tướng, tâm. Nếu đến chỗ này thì thấy nơi nào cũng là thường sáng suốt, lặng lẽ (Thường Tịch Quang).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

phuban13.jpg
phuban13.jpg (524.41 KiB) Đã xem 956 lần
phuban14.jpg
phuban14.jpg (508.27 KiB) Đã xem 956 lần
Giáo là mắt Phật, Thiền là tâm Phật. Tâm không có mắt thì tâm không chỗ y cứ; mắt không có tâm thì mắt không thấy chi cả. Tâm và mắt hòa hợp mới rõ Đông Tây, Thiền và Giáo hòa dung mới khéo biết thông bít. Nên biết, cơ có lợi độn; pháp có khai mở và cấm ngăn. Nếu tạo ra một con đường cố định để thâu nhiếp mọi cơ, đều trở thành phỉ báng chánh pháp. Vào thành từ bốn cửa, nhưng cửa nào cũng đều đến dinh phủ; tu tâm theo bốn cõi, cõi nào cũng đều lên bờ giác. Người học giáo pháp không thể nghiên lệch tà vạy, các vị tham thiền nên hiểu rõ như thế! Phương tiện quyền biến và chưa thật vận dụng ở nơi người, chỉ nên dung thông Sự Lý, không thể chấp pháp thành bệnh.

Tam tuệ Văn, Tư, Tu; tam học Giới, Định, Tuệ đều phải trở về nguồn cội, muốn cho ai nấy được chuyển phàm thành Thánh. Người nay không hiểu rõ, chấp trước một bên, chỉ nói Giáo chẳng thông Thiền, nói Thiền lại chẳng thông Giáo. Vốn để trừ bỏ chấp trước, nhưng trở lại thành thiên lệch; vốn để bình đẳng tu tâm; lại sinh phân biệt. Thiền tông nói: "Hoa vàng, trúc biết đều là chân như". Giáo môn nói: "Một sắc, một hương toàn là Trung đạo". Bồ tát Thế Chí nhân niệm Phật tự được tâm khai ngộ. Đại sư Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa được thấy pháp chân thật. Mọi nơi đều tồn tại đạo nhiệm mầu, há lại ở chỗ tranh luận huyên náo!

Nay muốn tâm phàm và thân cõi hòa dung; niệm Phật, Thiền, Giáo cùng chung một đạo. Vào cửa tuy khác, nhưng rốt cuộc vốn đồng. Chớ sinh khởi yêu ghét, đừng phân biệt kia đây. Mọi người phải nên cứu xét cội gốc, đừng cạnh tranh trên cành lá. Không nên chấp chân thật, chê bai quyền biến, hay chấp quyền biến, chê bai chân thật.

Quốc sư Thanh Lương nói:
  • Biển nghiệp trần lao
    Hoặc kết chấp chặt
    Tình hết, kiến trừ
    Chẳng nhọc thâu thập.
Ba thân: Pháp thân, Báo thân, Ứng thân; bốn cõi: Tịch Quang, Thật Báo(54), Phương Tiện(55), Đồng Cư đều phải về nơi nguồn cội, tất cả cùng trở về một con đường. Một thân tức ba thân, bốn cõi là một cõi, chẳng sau chẳng trước, không đến không đi. Do tình chấp mà thấy có sai biệt, chẳng phải đức Phật che dấu. Chỉ chấp nhận tâm truyền, chẳng thông qua ngôn ngữ, cùng khắp viên dung, vô tận vô cùng.

Nhất chân vô ngại trùng trùng lớp lớp, dù cho mạng lưới ngọc của Đế Thích cũng chẳng thể nào ví dụ được. Xoay chuyển cơ quan(56) thảy đều thông suốt, chẳng do nơi lanh lợi mà chỉ nhờ tỉnh sáng. Phật Tỳ Lô đắc đạo thì chấp nhận cho ông thành tựu, dứt hẳn sinh tử, liền phóng ánh sáng. Nếu chẳng nghĩ bàn thì sông trong, biển lặng.
  • Một cõi phân bốn cõi
    Cõi cõi đều ba thân
    Thân cõi không cùng tận
    Tình chấp dường như sao.
    Như Lai lực vô ngại
    Tựa trăng giữa trời cao
    Nơi nơi đều thấy trăng
    Chốn chốn tràn ánh sáng.
KỆ TỤNG
ĐẠI ĐẠO THÔNG THIÊN HẠ
  • Sáng tỏ mấy trăm châu
    Châu châu đều có lối
    Lối lối hợp xuân thu
    Mê mờ ba thân khác
    Tỏ ngộ một cũng thôi
    Chỗ không có, kia đây
    Chớ đem kết oán thù.
ĐỀ CƯƠNG NIỆM PHẬT
  • Vốn không có dấu vết
    Phương tiện bày cho anh
    Nếu ai hỏi thế nào?
    Nam mô A Di Đà!
NIỆM PHẬT TÂM KHAI
  • Chuyên tu Tam muội, niệm Di Đà
    Di Đà bỗng gặp ở trong ta
    Mới biết dưới chân đều Bảo sở
    (57)
    Cõi cõi dung thông chẳng có xa.
THIỀN, GIÁO THÀNH TỰU LẪN NHAU
  • Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân giáo
    Đạt Ma, Nam Sơn, ý vốn đồng
    Pháp môn số lượng vô cùng tận
    Chẳng lìa mảy tơ, dứt diệu thô.
BA THÂN THỂ ĐỒNG
  • Ba đức ẩn kín với ba thân
    Mở cuốn tùy duyên, phân chẳng phân
    Chốn chốn dung thông không ngăn ngại
    Chớ nên nhất định nói ba người.
TAM BẢO KHÔNG KHÁC
  • Phật, pháp, tăng bảo rất là chân
    Chẳng khác hiện giờ một điểm linh
    Nêu một tức ba, ba là một
    Chớ để nhận lầm kim chỉ nam.
THÂN CÕI KHÔNG HAI
  • Tỳ Lô tức là Tịch Quang độ
    Tịch Quang tức là đại Tỳ Lô
    Thân cõi xưa nay không hai tướng
    Hoàng thành vốn là đại kinh đô.
TÂM PHẬT KHÔNG KHÁC
  • Tâm này chính là Phật Di Đà
    Di Đà chính là tự tâm nguyên
    Mọi người đều bảo trăng khuyết giảm
    Ai tin xưa nay vầng nhật viên.
BẶT DẤU KHÔNG TƯỚNG
  • Một niệm sáng tròn trùm pháp giới
    Khỏi hướng ba kỳ chấp kiếp tu
    Nếu ở trong đây hay rõ được
    Một điểm vi trần cũng chẳng lưu.
TÌNH HẾT TỎ TƯỜNG
  • Tỳ Lô hải tạng toàn không dấu
    Tịch Quang cõi diệu vết cũng không
    Kiếp hỏa cháy tiêu dù kẽ tóc
    Non xanh vẫn thế mây trắng trong.
NƠI NƠI THẤY ĐẠO
  • Tịch Quang kim bảo và cát bùn
    Chốn chốn không tâm tức là nhà
    Rõ được trong đây huyền diệu ý
    Ưu đàm vốn là Bạch liên hoa.
CHỐN CHỐN GẶP NGUỒN
  • Tâm tâm, niệm niệm Phật Di Đà
    Nơi nơi chốn chốn Tỳ Lô xưa
    Vi trần biển cõi như sao bủa
    Sơn tăng thâu trong một họa đồ.


    CHÚ THÍCH:
(54) Thật Báo: nơi sinh về của các vị Bồ tát đã đoạn trừ một phần vô minh. Đây là cõi nước vô ngại tự tại, là quả báo có được nhờ tu đạo chân thật nên gọi là Thật Báo Vô Chướng Ngại độ; đây là chỗ ở của các vị Bồ tát không có phàm phu và Nhị thừa, là cõi nước quả báo, nơi ở của các vị Bồ tát từ Sơ địa của Biệt giáo trở lên, từ Sơ trụ của Viên giáo trở lên.

(55) Phương Tiện: chỗ ở của hàng A la hán, Bích chi Phật, Bồ tát Địa tiền. Vì các vị này tu phương tiện đạo, đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc nên gọi là phương tiện; nhưng còn dư chướng hoặc vô minh căn bản che lấp Thật tướng trung đạo nên gọi là hữu dư.

(56) Cơ quan: mưu chước, cơ pháp mà vị thầy tùy theo căn cơ lập ra, giúp cho người học khai ngộ và chỉ phù hợp với căn bản từng người. Cơ pháp ấy có thể là: công án, thoại đầu, đánh và hét.

(57) Bảo sở: dụ cho Niết bàn của Đại thừa, chỉ nơi an trụ rốt ráo chân thật.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
QUYỂN BA

THIÊN THỨ BA
CHÁNH TÔNG NIỆM PHẬT

Đại sư Minh Giáo nói: "Đức Phật thiết lập giáo pháp hẳn là lấy Thiền làm tông, Phật là vị Tổ khai sáng, Tổ là khuôn phép rộng lớn của giáo pháp, tông là chỗ bao quát toàn thể giáo pháp. Chỗ bao quát toàn thể của giáo pháp, nếu không rõ ràng thì thiên hạ không thể đạt đến chỗ đồng nhất; khuôn phép rộng lớn của giáo pháp, nếu không chân chánh thì thiên hạ không thể chứng đắc chỗ chân thật".

Những người học Phật xưa nay, đem sở học của mình cạnh tranh hơn thua lẫn nhau là vì tông không rõ, Tổ không chánh mà trở thành tai hại. Song, chẳng phải Tổ và tông vốn không rõ ràng, không chân chánh, mà bởi người học đời sau không thể khảo cứu tận cùng kinh luận, sửa đổi cho đúng đắn. Vì thế, nên có những người hạn cuộc nơi giáo pháp, chẳng rõ ý chỉ sâu kín nơi đức Phật, huyền diệu ở ngoài ngôn ngữ. Các Thiền giả chẳng cứu xét lời Phật, chỉ xem khái quát ở trong giáo pháp, tự phát sinh phải quấy lăng xăng với nhau, xưa nay chưa từng tạm thời ngưng nghỉ.

Tôi từng cứu xét trong Đại tạng, hoặc kinh, hoặc truyện để kiểm nghiệm, goi là Thiền tông đó chính là tâm của Phật, Tổ. Phật nói, một Đại tạng giáo lý chưa từng không lấy tâm làm tông chỉ. Than ôi! Căn cơ của chúng sinh khác biệt, sao có thể lấy một pháp để làm cho họ thấu rõ tâm ấy. Đức Phật thiết lập sự giáo hóa một cách bình đẳng, đối với căn bệnh nào thì cho thứ thuốc ấy thôi.

Vả lại, pháp môn niệm Phật trong tông Tịnh độ có chân thật và quyền biến, có đốn có tiệm, nhưng đều hiển bày lý chân thật mà Như Lai chứng ngộ, mở ra cội nguồn tự tánh của chúng sinh. Lấy môn Niệm Phật Tam-muội thâu nhiếp tất cả mọi người, khiến cho minh tâm thấy tánh, vào nơi trí tuệ Phật.

Có người hỏi:

- Niệm Phật có thể rõ tâm thấy tánh, vào nơi trí tuệ Phật được không?

Tôi đáp:

- Tâm là chủ của vạn pháp. Nếu ta làm chủ được tâm thì đạo nào chẳng thành tựu? Bồ tát Đại Thế Chí do niệm Phật mà chứng ngộ Vô sinh nhẫn. Cứu xét về nhân tu hành của Ngài, thuần là dụng công phu ở nơi niệm Phật, niệm niệm không gián đoạn, nhồi thành một khối. Cho nên nói: "Thâu nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà được chánh định. Đó là bậc nhất".

Bởi lẽ, Phật là tâm, niệm Phật là niệm tâm, tâm tâm không hai. Tâm đã không hai, Phật Phật đều như thế. Một niệm thông suốt, không có bờ mé trước sau. Ba mé đều dứt, đó là đạo tràng chân thật. Mỗi hạt bụi đầu hiển lộ, tất cả cõi hoàn toàn hiển bày, đó là vào nơi biển trí tuệ chân chánh thấy biết tất cả của Như Lai, đầy đủ Nhất thiết chủng trí. Ý chỉ của niệm Phật đại lược như thế.

Tổ sư Huệ Viễn được Tam muội này, lấy đó dạy cho một trăm hai mươi ba người cùng tu cùng chứng, tư tưởng chuyên nhất lặng lẽ cho đến chỗ cứu cánh. Đây thật là Tổ sư có tâm lo lắng sâu xa cứu giúp mọi loài.

Hơn nữa, thời Đông Tấn, những kinh điển mới lạ chưa được truyền sang, trong nước chưa từng nghe cam lộ Thiền pháp, mỗi người nói tông chỉ thật tướng theo mỗi cách khác nhau. Do đó, ngài Huệ Viễn mới sai đệ tử vượt ngọn Thông Lãnh thỉnh Thiền sư từ nơi xa đến, tìm xét kinh điển. Thế nên, Đại sư Minh Giáo trong Định Tổ Đồ nói: "Thời Tần, thấy Trí Nghiêm ở nước Kế Tân, thành khẩn mời thỉnh ngài Bạt Đà La sang Trung Hoa, truyền trao pháp Thiền. Ban đầu đến Trường An, sau đó đến Lô Sơn, cùng với ngài Huệ Viễn phiên dịch Thiền kinh. Sau khi phiên dịch xong, ngài Huệ Viễn viết lời tựa".

Bạt Đà La từng bảo ngài Huệ Viễn rằng: "Các Tổ sư truyền pháp ở Ấn Độ, từ ngài Đại Ca Diếp truyền thừa, về sau gồm có hai mươi bảy vị Tổ. Tổ thứ hai mươi sáu diệt độ gần đây tên là Bất Như Mật Đa và vị đệ tử kế thế của ngài là Bát Nhã Đa La đến giáo hóa ở miền Nam nước Thiên Trúc. Đem ngọn đèn trí tuệ này lần lượt truyền trao cho Đạt Ma Đa La, về sau trở thành vị Tổ thứ hai mươi tám. Nay, tôi theo những điều được nghe ấy mà nói về ý nghĩa này".

Ngài Huệ Viễn nghe Bạt Đà La nói, nên viết lời tựa rằng: "Đạt Ma Đa La là bậc tài trí xuất chúng ở Tây Vực, người nắm Tông chỉ của Thiền phái".

Trong Bảo Lâm Truyện nói: "Bạt Đà La từng nói với ngài Huệ Viễn về sự truyền pháp qua các đời của chư vị Tổ sư". Điều này vốn là nghiệm xét từ nơi kinh Thiền. Do đó, Trương Dã viết lời tựa về bài minh nơi ngôi tháp của ngài Huệ Viễn rằng: "Các kinh tâm thiền xuất phát từ Lô Sơn. Sư thường bảo pháp Thiền tinh vi, người không có khả năng chớ nên trao truyền. Chỉ có môn niệm Phật là công đức cao vời và dễ dàng tu tiến, dùng pháp chỉ quán để tu hành, chuyên cần tinh tấn nơi Tịnh nghiệp. Đó là nhờ sự tu hành lắng đọng tinh thần, thực tập lần lần sửa đổi tánh tình. Thật là từ nơi đây mà được vào nơi pháp môn vô tận của Như Lai".

Thế nên, khi giáo pháp Tịnh độ này đến chỗ Đại sư Trí Giả ở Thiên Thai thì Ngài chỉ dạy Tam quán(58), chứng ngộ Nhất tâm, xâu kết tất cả hạnh chánh yếu của Ba thừa, thâu nhiếp hết căn cơ của Năm tánh(59), giao phó gia tài chân thật về quán hạnh, ngộ nhập tri kiến của Như Lai. Từ đó mà biết, cương yếu của môn niệm Phật là lấy kinh Quán Vô Lượng Thọ làm tiêu chuẩn. Kinh này lấy cảnh tịnh của cõi Phật làm chính yếu, lấy trí quán tưởng, hạnh vi diệu làm chỗ hướng đến; lấy thật tướng Di Đà làm thể, lấy bỏ ác làm thiện làm dụng. Thế nên, thấy rõ vô lượng công đức cùng trang nghiêm và tất cả hạnh thù thắng đều dẫn trở về Cực Lạc; lời nói, hỏi đáp, thuyết minh tỏ tường. Ví như các vì sao hướng về Bắc đẩu, muôn dòng sông chảy về biển Đông. Vì thế, bà Vi Đề Hy chẳng trải qua địa vị, nhanh chóng chứng ngộ Vô sinh; người phạm năm tội nghịch(60) niệm mười câu Phật hiệu liền lên Cực Lạc. Đây tức là thuộc về giáo lý Viên đốn.

Pháp môn Niệm Phật Tam muội này, có quyền thật, có đốn tiệm, thâu nhiếp mê ngộ, gồm thâu hết tất cả để cùng trở về tông chỉ chân thật. Giống như xe có hai bánh, chim có hai cánh, từ đây mà vào đạo, pháp này đáng gọi là cùng tột. Thế nên, tập hợp mọi phương pháp chánh định, chỉ dạy tông yếu của sự tu hành, khai sáng mắt tâm, chỉ thẳng cội nguồn, ngõ hầu giúp cho người niệm Phật tiến tu, tỏ rõ tông, không mờ mịt nơi Tổ. Còn như một câu hợp cơ, thì Tịnh độ từ nơi tâm hiển lộ đầy đủ.
  • CHÚ THÍCH:
(58) Tam quán: ba pháp quán do Đại sư Trí Giả lập riêng khi giảng kinh Pháp Hoa.
  • a. Tùng hạnh quán: nghĩa là chỉ y cứ theo hạnh môn của các kinh mà tu quán, tức là chỉ đối với muôn cảnh mà quán nhất tâm, muôn cảnh tuy khác nhau nhưng lý diệu quán là một, nhu quán "ấm"... là thuộc nghĩa ấy.

    b. Phụ pháp quán: nương vào các pháp tướng để tu viên quán, tức y cứ vào các pháp tướng như Tứ đế Ngũ hạnh... mà vào nhất niệm tâm để thành tựu pháp quán.

    c. Thác sự quán: nghĩa là giả mượn sự nghĩa để thành tựu tu quán.
Hễ tu một pháp quán nào đều dùng pháp quán đối trị, để giúp cho tu quán. Như giả mượn thành Vương Xá để tu quán thì quán Vương là sáu thức tâm vương, Xá là ngũ ấm, thành Vương xá là thân của chúng ta, cho đến thành Vương Xá này tức là Không, Giả, Trung, tâm vương tạo ra Xá này, nếu phân tích ngũ ấm thì Xá là Không, Không tức thành Niết bàn. Theo Thập Bất Nhị Môn Khu Yếu, Thượng, Thập thừa là nghĩa chung của ba thứ pháp quán, còn ba pháp quán tâm: Thác sự, Phụ pháp và Tùng hạnh là tướng khác của ba thứ pháp quán.

(59) Năm tánh: năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh do chủng tử trong thức A lại da quyết định, không có cách gì thay đổi được. Đây là chủ trương của tông Pháp tướng. Năm tánh là:
  • a. Thanh văn thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng A la hán.

    b. Độc giác thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Bích Chi Phật.

    c. Như Lai thừa định tánh: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Phật.

    d. Bất định chủng tánh: người có chủng tử vô lậu, nhưng vẫn chưa quyết định là thuộc căn cơ nào trong Tam thừa. Bất định chủng tánh có bốn:
    • (a) Nhị tánh bất định của Bồ tát, Thanh văn: người có hai chủng tử quả Phật và quả A la hán.
      (b) Nhị tánh bất định của Duyên giác, Bồ tát: người có hai chủng tử quả Phật và quả Bích Chi Phật.
      (c) Nhị tánh bất định Thanh văn và Độc giác: người có hai chủng tử quả quả A la hán và quả Bích Chi Phật.
      (d) Tam tánh bất định của Thanh văn, Độc giác và Bồ tát: người có ba chủng tử quả quả A la hán và quả Bích Chi Phật và quả Phật.
    e. Vô tánh: mặc dù không có chủng tử vô lậu của ba thừa, nhưng có chủng tử hữu lậu có thể đạt được quả trời, người.
Trong năm tánh thì ba tánh Thanh văn định tánh, Duyên giác định tánh, và Vô tánh đều không có chủng tử Phật, rốt ráo không thành Phật nên gọi là Tam vô. Còn Bồ tát định tánh và người chứng quả Phật trong Bất định tánh là có chủng tử Phật và quyết định thành Phật, nên gọi là Nhị hữu.

(60) Năm tội nghịch (Ngũ nghịch tội): năm tội cực ác trái với đạo lý. Theo thuyết Tiểu thừa, năm tội nghịch: giết mẹ, giết cha, giết A la hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng. Hai tội trước là phá Ân điền, ba tội sau là hủy Đức điền. Người phạm vào năm tội này sẽ bị đọa vào địa ngục Ngũ vô gián. Tội phá hòa hợp tăng chia làm hai:
  • a. Phá Yết ma Tăng: tách rời giáo đoàn mà mình đã sống, thành lập giáo đoàn mới tổ chức các việc Bố tát, Yết ma riêng biệt.

    b. Phá Pháp luân Tăng: tôn thờ thầy khác, lập thuyết khác, tổ chức giáo đoàn riêng.
    Theo kinh Đại Tát Giá Ni Kiền Tử Sở Thuyết, quyển 4, thì năm tội trọng:
    • (a) Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng, cướp đoạt tài vật của Tam Bảo hoặc sai bảo người khác làm việc này.
      (b) Hủy báng Thanh văn, Duyên giác cho đến giáo pháp Đại thừa.
      (c) Ngăn cản người xuất gia tu hành hoặc giết hại người xuất gia.
      (d) Phạm một trong năm tội Ngũ nghịch của Tiểu thừa.
      (e) Chủ trương tất cả đều không có nghiệp báo, thực hành mười nghiệp ác hoặc không sợ quả báo đời sau mà sai bảo người khác làm mười điều ác.
Trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ, quyển 5, ngài Huệ Chiếu hợp tội giết cha và giết mẹ trong năm tội nghịch của Tiểu thừa thành một, đồng thời thêm vào tội phỉ báng Phật pháp mà lập thành năm tội nghịch cho cả Tam thừa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 1
XÁC ĐỊNH RÕ TÔNG THỂ

Trong Thông Tán của ngài Từ Ân nói: "Các bậc Cao đức thuở xưa ở phương này, phân định chung về kinh luận có bốn tông:
  • 1. Tông lập tánh.
    2. Tông phá tánh.
    3. Tông phá tướng.
    4. Tông hiển thật.
Các kinh Niết bàn, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... là hiển bày nghĩa Trung đạo chân thật, bỏ Hóa thành[/b](61)[/b] về Bảo sở. Vì thế, kinh A di đà thuộc về Tông thứ tư.

Y theo văn mà phân định giáo pháp thì giáo pháp chỉ có ba. Theo loại để sắp đặt thì có tám tông:
  • 1. Tông ngã pháp đều có.
    2. Tông có pháp không ngã.
    3. Tông pháp không tới lui.
    4. Tông hiện thông giả thật.
    5. Tông tục vọng chân thật.
    6. Tông các pháp chỉ là giả danh.
    7. Tông thắng nghĩa đều không.
    8. Tông ứng lý viên thật.
Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm và kinh A Di Đà thuộc về Tông thứ tám".
  • CHÚ THÍCH:
(61) Hóa thành: dụ cho Niết Bàn của Tiểu thừa chưa rốt ráo và không thật.
Chương 2
TÔNG THỂ QUYỀN THẬT VỀ MƯỜI LOẠI TỊNH ĐỘ
TRONG HOA NGHIÊM HỢP LUẬN
CỦA TRƯỞNG GIẢ LÝ THÔNG HUYỀN

Biển trí bát ngát mênh mông chẳng thể xét cùng bờ mé, nguồn chân rộng lớn bao la khó tìm kiếm được bến bờ. Pháp giới Tỳ Lô Giá Na, thể tướng bao quát nơi trần sa. Pháp môn Phương Quảng, tịnh uế chan hòa nơi vô cực. Tùy theo nghiệp dụng tu tập trong hiện tại, nên thấy cảnh giới chẳng đồng; vì trái với cảnh Thánh, mà y báo và căn trần bất định. Hoặc dùng quyền biến phân biệt Tịnh độ nơi cõi khác để chỉ cõi uế trược nơi Ta Bà, hoặc bảo nơi đây chỉ là phương tiện để dẫn dắt giáo hóa và nói rõ phương trên mới là cõi Thật Báo. Bồ tát Văn Thù ở thế giới Kim Sắc, từ cõi nước phương Đông đến; Quan Âm ở cõi mầu An Lạc, từ Tây Phương sang. Mỗi vị đều có cách hiện bày sự quyền biến khác nhau, dẫn dắt người mê, giúp họ thấu rõ sự lý. Do đó, chúng sinh chỉ nên tin chắc, nhưng không nên chấp trước.

Nay, sơ lược gom các môn lại để giúp cho người mới tu có chỗ y cứ vững. Trình bày tóm lược có mười loại để làm kim chỉ nam.

1. Tịnh Độ trong kinh Di Đà: đây là pháp môn dành cho hàng phàm phu còn một phần chấp tướng, chưa tin được lý chân thật về pháp không. Chỉ do chân thành chuyên nghĩ nhớ tưởng niệm không đổi dời. Vì vậy, tâm được phần nào thanh tịnh mà vãng sinh Tịnh độ. Đó là quyền biến chưa phải chân thật.

2. Tịnh Độ trong kinh Quán Vô Lượng Thọ: đây là pháp môn dành cho những chúng sinh có một phần chưa tin lý chân thật về pháp không và ưa thích sắc tướng vi diệu. Do đó, dạy bảo họ đem tâm chuyên quán tưởng về sắc tướng của Phật A Di Đà, đến khi thành tựu thì vãng sinh cõi Phật. Đó là quyền biến chẳng phải chân thật.

3. Tịnh Độ trong kinh Duy Ma: đức Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, khi Ngài sử dụng thần lực thì tạm hiện bày cõi Phật, nhưng rồi cũng trở về không. Tuy đó là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, nhưng chưa trình bày đầy đủ về sự rộng lớn và nhỏ hẹp. Ở đây là chân thật mà chưa rộng lớn.

4. Tịnh Độ trong kinh Phạm Võng: tuy nói một đóa hoa vương to lớn và có ngàn cánh. Trên mỗi một cánh có trăm ức vị Hóa Phật, giáo hóa các chúng sinh trong trăm ức tứ thiên hạ. Nhưng do hàng Bồ tát Tam thừa thấy chưa được rộng lớn nên phân ngàn cánh kia và hoa vương kia nói là cảnh Thật Báo chưa viên mãn. Đây là quyền biến chưa phải chân thật.

5. Tịnh Độ của cõi trời Ma Hê Thủ La: đức Như Lai ở nơi tòa sen, thành tựu đạo giác ngộ chân chánh, lấy đó làm Thật Báo. Còn lúc đức Phật ở trong đạo tràng Bồ đề, nước Ma Kiệt Đà nơi cõi Diêm phù đề này thành tựu đạo giác ngộ chân chánh, đó là vì để giáo hóa hàng Bồ tát quyền giáo trong ba thừa. Đối với người vẫn còn cái thấy về nhiễm và tịnh, nói rằng cõi Diêm phù- đề này và sáu cõi Trời... là cõi Dục hữu lậu, còn cõi trời Ma Hê Thủ La thượng giới là vô lậu. Tâm còn nhiễm và tịnh, chưa quên kia đây... Đó là giáo lý quyền biến chưa phải chân thật.

6. Tịnh Độ được trình bày trong kinh Niết Bàn: đức Như Lai có Tịnh độ Thật Báo ở Tây Phương, trải qua số cõi Phật nhiều gấp hai mươi hai lần số cát sông Hằng. Đây là giáo lý quyền biến trong ba thừa để giáo hóa những người còn một phần nhiễm tịnh chưa hết. Nói Tam thiên Đại thiên thế giới này đều là cõi uế trược, và dùng phương tiện quyền biến nói rằng chỉ có cảnh Thật Báo của Như Lai là cõi Tịnh độ ở Tây Phương. Đây là quyền biến chẳng phải chân thật.

7. Tịnh Độ được biến hiện ba lần trong kinh Pháp Hoa: đây là vì hàng Bồ tát trong giáo lý quyền biến ba thừa, chưa hết tâm nhiễm tịnh mà nói, dời chư thiên và loài người đặt ở cõi khác. Đó là quyền biến chẳng phải chân thật.

8. Tịnh Độ được hiển bày trên hội Linh Sơn: đây là vì dẫn dắt hàng Bồ tát trong giáo lý ba thừa chưa hết tâm nhiễm tịnh, khiến họ biết ngay nơi cõi này: uế trược tức là thanh tịnh. Đại chúng tuy có tin nhận, nhưng chưa thể tự thấy. Đó là chân thật chẳng phải quyền biến.

9. Tịnh Độ Duy Tâm: tự mình chứng ngộ tự tâm, ngay nơi thể vô tâm. Tự tánh là trí tuệ chân thật, chẳng còn suy nghĩ phân biệt tịnh uế, xứng hợp với chân tánh. Tâm không ngăn ngại, không tham, không si, hồn nhiên vận dụng từ bi, trí tuệ để làm an lạc chúng sinh. Đây là Tịnh độ chân thật, do tự mình thanh tịnh nên khiến cho người khác cũng thanh tịnh. Thế nên, kinh Duy Ma nói: "Tùy theo tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Muốn được cõi nước thanh tịnh nên thanh tịnh tâm mình". Đó là Tịnh độ chân thật.

10. Tịnh độ của Phật Tỳ Lô Giá Na cư trú: là ở cõi nước của mười đức Phật. Cõi nước Phật Liên Hoa bao hàm cả tịnh lẫn uế. Cõi ấy không uế, không tịnh, không có tướng cao thấp, kia đây, mình người. Mỗi một cõi Phật đều trải rộng cùng khắp pháp giới, nhưng không chướng ngại nhau. Nói sơ lược về cõi nước nhiều như cát bụi của mười đức Phật để thấy được vô tận cõi Phật không ra ngoài một hạt bụi, vì không có lớn nhỏ nên không lập ra hạn lượng. Lấy pháp làm giới, chẳng hạn cuộc ở nơi bờ mé, sắc tượng trùng trùng. Đây là Tịnh độ chân thật, chẳng thuộc về quyền biến.

Ngài Ngộ Khai nói: "Tảo Bách luận bàn về sự quyền biến và chân thật của mười loại Tịnh độ chưa đạt được ý chỉ, quyết đoán riêng tư theo ý mình, xem thường Tịnh nghiệp Tây Phương. Tại sao? Vì cho là giáo lý quyền biến. Đâu chẳng biết ý nghĩa về quyền biến và chân thật không có hơn kém, không rõ lý nhiệm mầu của thể và dụng, chỉ mê lầm vọng sinh chấp trước. Huống chi, Tảo Bách do căn cứ vào kinh Hoa Nghiêm mà phân định giáo pháp, nên mới nói như thế".

Còn như nói: "Phàm phu còn một phần chấp tướng, chưa tin lý chân thật về pháp không". Lời nói ấy thành thật thay! Nên biết thủ tướng là nắm lấy tướng tịnh và uế. Tất cả phàm phu từ lúc sinh đến khi tử, chỉ toàn nắm lấy tướng uế trược, thậm chí tạo mọi nghiệp ác. Đó là lỗi lầm của sự nắm lấy tướng uế trược. Do đó, họ quanh quẩn trong ba đường đen tối không có ngày dừng nghỉ.

Đức Như Lai thường thương xót nỗi đau khổ của chúng sinh, lo nghĩ cứu vớt. Nếu đem lý chân không thật tướng để chỉ dạy ngay thì tuy rất hợp với hoài bão chính yếu của Ngài, nhưng chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, trí tuệ tối tăm, làm sao có thể tin nhận và tu học? Vì vậy, đành phải ẩn dấu chỗ chân thật, mà chỉ dạy bỏ uế trược lấy thanh tịnh. Trước tiên là để thoát khỏi nỗi khổ đau trong ba cõi. Đó là quyền biến.

Hai chữ "quyền" và "thật" này vốn ở nơi chúng sinh mà nói, chứ không ở nơi đức Như Lai, cũng không ở nơi kinh giáo. Tại sao chẳng thấu suốt ý chỉ ấy, chỉ theo lời nói để hiểu, chấp hơn chấp kém, chê bai chánh pháp của Như Lai?

Nay tôi thuận theo sự phân định quyền và thật của ngài Tảo Bách để làm sáng tỏ điều này.

Còn như Tịnh nghiệp Tây Phương vốn là pháp môn lợi khắp ba căn, dung thông quyền và thật, thấu suốt trên dưới. Về mặt quyền biến thì thâu nhiếp hàng trung hạ; về mặt chân thật thì thâu nhiếp bậc thượng căn. Trong luận này nói, "Tịnh độ duy tâm" là chân thật, chẳng phải quyền biến. Niệm Phật đến chỗ nhất tâm không loạn, đạt sâu lý nhiệm mầu, thế thì chẳng phải duy tâm là gì? Tịnh nghiệp của Tây Phương này đây, không phải phù hợp với giáo pháp chân thật hay sao?

Ở đây, Bảo Giám trích dẫn lời luận bàn của ngài Tảo Bách về sự quyền và thật của Tịnh độ, chỉ là muốn chứng minh thêm nghĩa lý sâu xa của Liên Tông mà thôi.
Chương 3
NÓI VỀ NIỆM PHẬT, THAM THIỀN CẦU TÔNG CHỈ
Thiền sư Từ Giác Di nói: "Niệm Phật chẳng ngại tham thiền; tham thiền chẳng ngại niệm Phật. Pháp tuy có hai môn, nhưng lý vốn đồng nhất"

Người thượng trí hễ làm gì đều không dính mắc vào Nhị đế, còn kẻ hạ trí đều nghiêng về một bên không có sự hòa hợp, cho nên sinh khởi nhiều sự phân tranh. Từ đó, người tham thiền chê bai niệm Phật, người niệm Phật bác bỏ tham thiền, đều là do chấp trước chân thật phỉ báng quyền biến, hoặc chấp trước quyền biến phỉ báng chân thật. Cả hai đều chưa thành đạo quả, mà đã đến Địa ngục trước.

Nên biết, căn cơ dù có sâu cạn, nhưng đều phải được chỗ thích nghi. Ví như người làm ruộng đâu thể giữ kho, người giữ kho sao có thể làm ruộng được. Nếu bảo người làm ruộng đi giữ kho, cũng như kẻ què leo núi; còn nếu bảo người giữ kho đi làm ruộng, cũng như dìm người tài thành kẻ hèn, hoàn toàn không thích hợp. Chi bằng, kẻ làm ruộng hãy tự lo làm ruộng, người coi kho hãy tự coi kho, ai nấy đều được vừa ý tùy theo sở thích của mình. Thế nên, người niệm Phật và tham thiền đều phải tìm cầu tông chỉ. "Núi khe tuy khác, trăng mây vốn đồng".

Thật đáng gọi là:
  • Chốn chốn liễu xanh kham buộc ngựa
    Nhà nhà trước cửa thấu Trường An.
Chương 4
TỊNH ĐỘ CHẲNG PHẢI THUYẾT QUYỀN BIẾN
CHO HÀNG ĐỘN CĂN
Ngài Tư Phạm là giảng chủ của tông Thiên Thai, cư trú lâu dài nơi núi Lâm Bình, sự hiểu biết và tu hành sáng suốt cao vời, đạt sâu về giáo lý và quán chiếu, thấu suốt cội nguồn về pháp tánh và pháp tướng. Sư thường qua lại với các sĩ phu và đều giải đáp rõ ràng những câu hỏi của mọi người.

Một hôm, Thông phán Trịnh Công hỏi:

- Trong giáo lý nói rõ, niệm Phật A Di Đà nguyện sinh về Tịnh độ, chỉ vì hàng độn căn nên mới dùng phương tiện quyền biến nói ra. Nếu là bậc thượng căn đốn ngộ, một khi vượt qua thì vào thẳng địa vị Phật. Sao lại nhờ vào Tịnh độ của đức Phật khác?

Sư đáp:

- Các bậc Cao đức trong tông Thiên Thai đều quở trách lời nói này. Bảo rằng: "Lúc đức Phật còn ở đời thì có Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền. Sau khi Phật diệt độ, thì có ngài Mã Minh, Long Thọ, Đại sư Trí Giả, Thiền sư Trí Giác ở cõi này, tất cả đều nguyện vãng sinh Tịnh độ. Vậy thì các Ngài đều là hạng độn căn hay sao? Nếu cho đây là giáo lý quyền biến thì lấy pháp gì làm chân thật?". Thuở xưa, Lão Tôn Tân cũng nghi điều này, nhân gặp Dương thứ công là Vương Mẫn Trọng giải bày rõ ràng, nên liền dứt mối nghi ngờ ấy.

Tin pháp môn Tịnh độ này, chẳng phải sự lập bày quyền biến của Thánh nhân, mà là tông chân thật viên mãn. Chú tâm niệm Phật A Di Đà ắt vãng sinh Tịnh độ. Đó chính là lời nói chân thật xứng hợp bản tánh, chẳng phải là giáo lý quyền biến.
Chương 5
TỊNH ĐỘ TÔNG YẾU CỦA THIỀN SƯ CHÂN YẾT LIỄU

Phật A Di Đà, chúng sinh và tâm chẳng rời nhau, cả ba không khác biệt. Cực Lạc ở khắp mọi nơi, vừa nêu lên một thì đã thâu nhiếp hết toàn thể. Như mạng lưới có cả ngàn hạt bảo châu trên điện của Đế Thích, ánh sáng của ngàn hạt châu đều hiện trong một hạt châu, ánh sáng của một hạt châu chiếu khắp cả ngàn hạt. Tuy mỗi hạt, mỗi hạt phản chiếu qua lại lẫn nhau khắp cả, nhưng hạt châu này không thể là hạt châu kia, và hạt châu kia không phải là hạt châu này. Hòa lẫn nhau mà chẳng có tạp loạn, riêng biệt mà chẳng có phân chia, mỗi hạt đều rõ ràng trải rộng khắp cả, cũngkhông có chỗ nơi nhất định.

Tịnh độ của Phật A Di Đà tức là một trong ngàn hạt bảo châu. Mười muôn cõi Phật tức là một cõi Phật, đều là một trong ngàn hạt châu. Thánh nhân dùng phương tiện khéo léo dạy người chuyên niệm Phật A Di Đà, đó chính là ở nơi ngàn hạt châu mà chỉ thẳng một hạt châu. Thấy một đức Phật tức thấy chư Phật khắp mười phương, cũng là thấy tất cả chúng sinh trong chín pháp giới và biển thế giới nhiều như cát bụi. Mười đời xưa nay, một ấn nhanh chóng viên mãn, hoàn toàn không còn thiếu xót pháp nào.
Chương 6
LỜI KHAI THỊ TỊNH ĐỘ THẬT KIẾN
CỦA ĐẠI SƯ TỊCH THẬT

Người không tu Tịnh nghiệp nói:

- Những người tu tập Thiền định, ngộ tánh chân tông, hoặc nghe nói về Tịnh độ ắt bảo rằng Tịnh độ duy tâm. Tâm ta đã thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh, cần gì mong cầu sinh về nơi nào khác!

Ngài Tịch Thất bảo:

- Trong kinh Duy Ma nói: "Đức Như lai dùng ngón chân ấn xuống đất, thì toàn cõi Ta bà đều trang nghiêm thanh tịnh, nhưng mọi người trong chúng hội không thấy được, chỉ có Phạm vương Loa Kế biết được thôi". Nay, những người nói rằng ngộ tánh có thể thấy được Tịnh độ như Phạm vương Loa Kế chăng? Huống chi ông ở trong căn nhà thấp hẹp, liền mong muốn nhà cao cửa rộng; bữa ăn chỉ có canh rau đạm bạc, thì mong cầu sơn hào hải vị; y phục cũ xấu ắt mong muốn gấm vóc lụa là. Nếu bảo rằng: "Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh", nhưng sao chẳng xóa tan sự phân biệt như thế? Vả lại, ngay khi gặp nỗi khổ già, bệnh, chết, tình người trái ngược ở thế gian, thì vẻ mặt giống như người chưa ngộ. Như vậy, tuy miệng lớn tiếng nói rằng: "Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh", nhưng thân lại bị phiền não đau khổ trong cõi uế trược ràng buộc. Như vậy, thật sự là tự dối mình. Không nên thế! Cần phải tin theo giáo lý mà tu tập về pháp môn Tịnh độ.
Chương 7
LỜI KHAI THỊ NIỆM PHẬT SỰ LÝ KHÔNG HAI
CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ

Sư từng viết lời tựa cho quyển Tịnh Độ Tập của Pháp sư Từ Huệ Văn, sơ lược như vầy: "Người học Phật xưa nay, phần nhiều lầm lẫn giữa Sự và Lý". Bảo rằng: "Lý thì mảy trần chẳng lập; Sự thì vạn tượng sum la. Lắng tâm trụ nơi lặng lẽ đó là Lý, động dụng tu hành đó là Sự". Bèn dẫn lời người xưa: "Chỗ Lý chân thật chẳng nhận mảy trần, trong cửa Phật, Sự chẳng bỏ một pháp". Đây chính là lập ra việc đối nghịch giữa Sự và Ly, cùng rong ruổi nơi có và không. Tôi từng đổi lời nói ấy thành "chỗ Lý chân thật chẳng thiếu mảy trần. Trong cửa Phật, Sự chẳng còn một pháp". Tại sao? Vì Lý chân thật gồm đầy đủ tất cả pháp, lẽ nào lại thiếu một mảy trần? Còn trong cửa Phật, Sự thì lìa tất cả tướng, lẽ nào lại còn một pháp? Như thế, mới thấy Lý Sự như một, có không chẳng hai.
Chương 8
NIỆM PHẬT TÔNG YẾU TRONG LỜI TỰA
PHÁP MÔN TỊNH HẠNH CỦA PHÁP SƯ VĂN

Phàm thấu suốt hữu tâm nơi vô tâm, biết rõ vô niệm nơi hữu niệm, chẳng trụ nơi có không thì năng sở đâu còn. Thế nên, niệm niệm tròn sáng, tâm tâm rỗng lặng. Nếu không rõ ý chỉ này, thì pháp nào cũng đều trở thành lầm lỗi. Còn khế hợp tông chỉ, thì môn nào cũng đều thông suốt.

Nay, có thể nói rõ về sự tu hành viên mãn không trái với chỗ chân thật, khiến cho những kẻ vác nặng đi xa trút bỏ được gánh nặng xuống, những người trôi nổi trong biển mê mau chóng bước lên bờ giác. Muốn cầu sinh về Tây Phương thì không gì hơn môn Quán Tưởng Niệm Phật(62).

Tôi vì người tu Tịnh nghiệp đã trích dẫn sơ lược về đại cương trong kinh luận, trước tác thành quyển Pháp Môn Tịnh Hạnh Tây Phương, chỉ rõ đường lối tu hành, giúp mọi người hiểu được yếu chỉ. Nếu có người đã đọc sách này rồi mà vẫn còn không phát khởi lòng tin tu hành, thì khác nào kẻ lao thẳng xuống hầm xí, toàn thân lún sâu mà muốn người cứu vớt. Biết làm thế nào được!
  • CHÚ THÍCH:
(62) Quán Tưởng Niệm Phật: ngồi ngay thẳng, chuyên tâm chánh niệm quán tưởng tướng hảo trang nghiêm của thân Phật, là một trong bốn cách niệm Phật được nói trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao của ngài Tông Mật.

Theo kinh Quán Phật Tam muội Hải quyển 9, 10 và kinh Tọa Thiền quyển thượng, nếu chuyên quán một trong ba mươi hai tướng của Phật thì diệt được tội nặng sinh tử trong chín mươi ức na do tha hằng hà sa vi trần số kiếp; nếu quán tướng hảo của toàn thân Phật thì phải ngồi ngay thẳng và chính thọ buộc niệm nơi thân Phật, không nghĩ đến các pháp khác như: đất, nước, gió, lửa... thường chỉ nhớ nghĩ thân Phật, thấy chư Phật ở ba đời mười phương đều ở ngay trước mắt, thì diệt trừ được tội chướng của vô lượng kiếp.

Ngoài ra, quán tưởng niệm Phật có Nhất tướng quán, Đa tướng quán, Toàn tướng khác nhau.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THIÊN THỨ TƯ
CHÁNH PHÁI NIỆM PHẬT
Phật do nơi tâm tạo, đạo ở nơi người hoằng hóa. Chỗ chính yếu của sự hoằng đạo không gì hơn niệm Phật. Niệm Phật tức là làm cho tâm chân chánh, tâm chân chánh nên có thể hợp với đạo. Chỗ tột cùng của đạo gọi là Phật. Phật nghĩa là "giác". Tất cả chúng sinh đều có tánh bản giác này, nhưng do một niệm sai lầm nên trở thành bất giác. Tướng quốc Bùi Hưu nói: "Trọn ngày Viên giác, mà chưa từng Viên giác là chúng sinh. Đầy đủ Viên giác, mà an trụ vững chắc tánh Viên giác là Như Lai".

Thế nên, đức Phật thành đạo ở xứ Ma Kiệt Đà, nói có bàn không, quán xét tùy theo căn cơ mà chỉ dạy. Đặc biệt ở ngoài các pháp, mở ra một môn niệm Phật. Pháp môn này cắt đứt được cội nguồn đau khổ, là con đường chính yếu để bước vào dòng Thánh. Vì thế, kinh A Di Đà nói: "Từ đây qua phương Tây cách mười muôn ức cõi, có thế giới tên là Cực Lạc, cõi ấy có đức Phật hiệu là A Đi Đà. Trong cõi Cực Lạc không có ba độc[/b](63)[/b], tám nạn(64), mà có bảy loại báu và các thứ trang nghiêm vi diệu, lấy pháp làm thân, lấy các bậc Thánh làm bạn. Nếu có thể chí thành tin tưởng phát nguyện quy hướng về cõi ấy thì liền được vãng sinh, vượt qua Tam giới Cửu hữu, chứng ngộ đạo nhiệm mầu Vô thượng của chư Phật". Lời nói ấy thật không lừa dối!

Từ khi giáo pháp lưu truyền qua phương Đông, đến ngài Phật Đồ Trừng thì hưng thạnh. Sau ngài Phật Đồ Trừng là ngài Đạo An. Dưới cửa của Đạo An lại có ngài Huệ Viễn. Đại sư Huệ Viễn giới hạnh trong sáng tợ châu ngọc, thấu suốt giáo nghĩa rộng sâu như biển cả bao la, thần thái phi phàm, nên kỷ cương của giáo môn được chấn hưng trở lại, đầy đủ hoàn bị hơn. Đại sư trước tác quyển Niệm Phật Tam Muội, Vịnh Thân Khuyến. Khi ấy, các bậc hiền tài thời Đông Tấn kính mộ đạo đức của Ngài, cùng tranh nhau cứu xét đạo này hướng đến con đường chánh giác. Danh tiếng của Đại sư chấn động đến tai vua, một thời đức hạnh của Ngài được mọi người tôn kính. Hòa thượng Đạo An chọn Sư làm đệ tử lớn. Pháp sư Cưu Ma La Thập kết làm bạn hiền. Tri thức và tâm lượng của Đại sư Huệ Viễn rất rộng lớn, siêu xuất xưa nay. Ngài còn dùng lời nói phản đối để hành đạo, làm bậc tông sư cho muôn đời, ích lợi rộng rãi Người, Trời.

Đời Tùy, có ngài Trí Giả; đời Ngụy, có Đàm Loan; đời Đường, có Thiện Đạo chấn hưng tông phong. Đời Tống, Đại sư Tông Đản soạn thuật Cam Lồ Sớ, Tỉnh Thường kết Liên Xã, Từ Giác khuyên tu, Thiền sư Diên Thọ dung thông muôn điều thiện để cùng trở về (Vạn Thiện Đồng Quy Tập), tông chủ Nguyên toát yếu các kinh viết thành nghi sám hối; thực hành phương tiện rộng rãi, uyển chuyển làm nên từ bi. Tổ sư vì muốn khiến cho mọi chúng sinh trên địa cầu thấy Di Đà bản tánh, đạt Tịnh độ duy tâm, ai nấy đều giác ngộ đạo mầu nhiệm Bồ đề, nên bèn lập ra bốn chữ "Phổ Giác Diệu Đạo" định danh cho Liên tông.

Xét thấy bốn chữ, một gương soi suốt vô biên đồng một thể dụng. Tại sao biết như vậy? Nói tóm lại, ví như một thân thể con người mà có nhiều tác dụng của đầu, mắt, tay, chân, nhưng không một bộ phận nào có thể phân chia được. Nếu tự mình không phát nguyện rộng lớn, không có tâm từ bi sâu xa, đâu thể được thiên hạ đời sau tin tưởng.

Tôi từng thầm luận rằng: khắp cả pháp giới chúng sinh gọi là "Phổ"; trí thấu suốt lý này gọi là "Giác"; đức dụng vô biên gọi là "Diệu"; con đường ngàn Thánh cùng cất bước gọi là "Đạo".

Vả lại, "Phổ" tức là bản thể tự tâm cùng khắp mười phương; "Giác" tức là tác dụng trí tuệ chiếu soi không mê mờ của tự tâm; "Diệu" tức là hạnh lợi tha và ứng cơ của tự tâm; "Đạo" tức là lý thông đạt trung đạo chân chánh của tự tâm. Hằng sa chư Phật chứng ngộ là chứng đạo này, chỗ mà bao đời Tổ sư đạt được cũng là đạt đạo này, những người vãng sinh Tịnh độ trong mười phương đã học đạo này, những người tu hành thời vị lai sẽ học đạo này. Huống chi, chư Phật và Bồ tát thị hiện ở thế gian làm bậc đại Đạo sư, các Ngài đều có tâm nguyện từ bi chẳng bỏ chúng sinh. Hoặc làm vua quan, khanh tướng, cư sĩ, tể quan, xuất tục, tại gia, nghịch hành, thuận hạnh, đều đem đạo này giác ngộ cho người.

Chúng sinh trong ba cõi trôi nổi luân chuyển cho đến ngày nay, qua lại trong sáu đường như kiến bò quanh miệng chén không ngày ra khỏi. Bậc Đại Giác từ bi thiết lập phương tiện để dẫn dắt mọi loài, khiến họ thú hướng đến chỗ mà Ngài đã từng hướng đến. Chỗ hướng đến ấy chẳng phải lục đạo, chẳng phải Tam thừa mà chính là đạo Chánh Giác của Như Lai. Người được đạo này cũng dùng đạo đó giáo hóa những người chưa hướng đến. Ví như một ngọn đèn mồi sang trăm ngọn đèn, trao đèn tiếp lửa sáng soi kim cổ. Pháp môn chánh tâm của tông niệm Phật này làm cho tâm chúng sinh được ngay thẳng trở về chánh đạo. Người người trao truyền cho nhau vô tận, cho nên gọi là ngọn đèn vô tận. Thuyết Phổ Giác Diệu Đạo đâu phải là lời nói suông!

Bởi lẽ, người người đều có thể làm Phật, chẳng do khoảng cách giữa tăng tục, chẳng do sự phân biệt giữa lợi căn và độn căn, không kia đây, không cao thấp, đồng một bản tánh mà thôi. Thấu được bản tánh ấy là ngộ, quên mất bản tánh ấy là mê, vốn cùng một lý. Mê là phàm phu, ngộ là Thánh nhân. Mê là ngăn cách trên mặt Sự, nhưng Lý thể không ngăn cách; bởi tự mình quên mất, nhưng bản tánh vốn không mất. Thế nên biết, tu Niệm Phật Tam muội tức là làm ngay thẳng tâm mình. Tâm này ngay thẳng thì tánh thuận với Lý, được tánh thuận với Lý thì sáu trần không thể ô nhiễm, muôn cảnh chẳng thể đổi dời. Động dụng trong một tâm rỗng thênh, lặng lẽ trong sự biến hóa của vạn vật. Chẳng rời chỗ ngồi mà cùng khắp mười phương; vượt lên thế giới Cực Lạc đi vào ngôi nhà Tịch Quang; ở trên đỉnh núi Niết bàn, hướng về Pháp vương Vô thượng. Nghĩa lý chánh tâm của Phổ Giác Diệu Đạo thật rất là cùng tột. Người không biết nghĩa lý này thì công phu ở chỗ nào? Trí tuệ từ đâu phát sinh? Ví như người không có mắt, chẳng thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng, đi trên con đường nguy hiểm sa hầm sụp hố, những hạng người này không thể tính đếm hết được.

Ôi! Cách Phật đã xa, con người phần nhiều hiểu biết sai lầm. Tuy là ở nơi chánh đạo nhưng lại rơi vào tà tông, những kẻ tầm thường mờ tối chỉ thâu nhận tri thức đến nỗi bị bọn tà kiến dối trá mê hoặc, bè phái nổi dậy công kích lẫn nhau, xôn xao luận bàn về có không, cắt xén hư không, thi nhau bài bác. Có kẻ chấp vào sự tướng chẳng chịu buông bỏ, có người thuận theo ứng duyên không tự giác ngộ, có người giữ cây khô mà nói Thiền định, có kẻ cậy vào thông minh xưng là trí tuệ, có người rong chạy trên con đường sai quấy lại cho là tài năng, có kẻ nhờ vào quỷ thần mà nói là thần thông, có người thân tâm buông lung mà nói vô ngại, có kẻ miệng tai thầm truyền mà nói là bí quyết, có người chấp vào chữ "Phổ", chữ "Giác" là của tông ta, có kẻ nói chữ "Diệu", chữ "Đạo" của tông kia. Như thế, đều là riêng tư trộm cắp chiếc gương này mà đi vào chỗ tà kiến, đến nổi bụi dơ che lấp chẳng hiểu rõ tông thể. Tuy được cái danh của gương này nhưng không đạt được công dụng. Đâu chẳng biết, ngài Từ Chiếu lập bốn chữ ấy có ý nghĩa rất sâu xa. Kẻ mê mờ không hiểu rõ, chấp vào đó thì mất tiêu chuẩn.

Huống chi lại có lời nói rằng: giáo pháp của Phật Di Dà dành cho người tại gia, giáo pháp của Phật Thích Ca là dành cho người xuất gia. Họ tự tôn làm Tổ, chấp pháp làm tông. Giữ lấy tâm chấp trước kia đây, đụng đâu vướng đó, hạn cuộc vào sự hiểu biết thấp kém nghiêng lệch tà vạy, tự cho mình là phải, người khác là sai, khiến cho chúng ta là hậu duệ của Phật Tổ mà không thể phá trừ sự chấp trước ấy, dẹp bỏ mê lầm của họ. Nếu đã vậy thì làm sao nêu cao mặt trời trí tuệ trong con đường tối tăm?

Thật đau lòng thay! Mạng sống trí tuệ của Phật Tổ lâm nguy, đau đớn còn hơn xẻo thịt trên người. Nghĩ nhớ báo đáp ơn sâu của Phật Tổ, ăn ngủ không yên. Nghĩ đến việc Phật tử các nơi lầm đường tu hành nên tuy chưa thể thấu rõ tận cùng được một phần nhỏ của người xưa, nhưng tâm này không hề lừa dối.

Tôi thường khẩn thiết ở nơi đây, cẩn trọng suy xét trong Cao Tăng Truyện Ký, tìm cầu khắp cả sự tích chân thật của các bậc Hiền triết, cứu xét cội nguồn, trích dẫn lý chân thật, thích đáng và những việc còn để lại, tập hợp mà biên soạn ra. Chỗ thiếu xót thì bổ túc, chỗ dư thừa thì lược bớt, những điều u ẩn làm cho sáng tỏ, lời nhận định thì trưng dẫn chứng minh. Mong rằng nghìn năm sau, người tu Tịnh nghiệp nhân lời nói mà suy tư về đạo; uống nước biết nguồn, hiểu rõ phong cách của các bậc Thánh xưa để lại; thể hội khuôn phép của Liên tông thuở trước, tiếp nối làm hưng thịnh dòng dõi Phật; xiển dương sáng tỏ đạo nhiệm mầu, khiến cho mạng sống trí tuệ vô cùng, trao truyền ngọn đèn chân thật mãi mãi. Ở trước chẳng nói, bốn chữ một gương soi thấu vô biên đó sao! Người thể hội đạo này nên thận trọng chớ lơ là!
  • CHÚ THÍCH:
(63) Tam độc: ba thứ phiền não: tham dục, sân khuể, ngu si. Tất cả phiền não gọi chung là độc, nhưng ba thứ phiền não này có mặt khắp ba cõi, là thứ độc hại nhất trong thiện tâm xuất thế của chúng sinh, khiến cho hữu tình phải chịu khổ nhiều kiếp và không ra khỏi được, nên đặc biệt gọi là Tam độc. Tam độc này còn là nguồn gốc của ba ác hạnh thân, khẩu, ý, nên cũng gọi là tam bất thiện căn, đứng dầu trong các phiền não căn bản.

Theo Luận Đại Trí Độ 34, Tam độc có hai loại là Chánh tam độc và Tà tam độc. Vì Tà tam độc khó trừ, Chánh tam độc dễ trừ, nên Tịnh độ của chư Phật có Chánh tam độc mà không có Tà tam độc.

Theo Ma Ha Chỉ Quán 6, thượng, tham, sân, si về mặt tư hoặc là Chánh Tam độc và tham, sân, si về mặt kiến hoặc là Tà tam độc.

Theo Đại Tạng Pháp Số 15, Nhị thừa và Bồ tát đều có Tam độc. Hàng Nhị thừa thích cầu Niết bàn là tham dục, chán lìa sinh tử và sân khuể, mê lầm đối với Trung đạo là ngu si. Bồ tát muốn rộng cầu Phật pháp là tham dục, quở trách Nhị thừa là sân khuể, chưa liễu ngộ Phật tánh là ngu si.

(64) Tám nạn: tám nơi khổ nạn, chướng ngại chúng sinh đến với pháp đạo. Theo kinh Thập Thượng, Trường A Hàm 9; kinh Bát Nạn, Trung A Hàm 29 thì tám nạn là:
  • a. Nạn địa ngục: chúng sinh do tạo nghiệp ác chiêu cảm quả báo đọa vào Địa ngục, chịu khổ không ngừng suốt đêm trường tăm tối, không được thấy Phật nghe pháp.

    b. Nạn ngạ quỷ: quỷ đói có ba loại:
    • (a) Ngạ quỷ nghiệp nặng nhất, nhiều kiếp không được nghe đến tên nước uống.
      (b) Ngạ quỷ nghiệp nặng vừa, chỉ ở nhân gian rình tìm nơi tẩy rửa máu mủ dơ uế để ăn.
      (c) Ngạ quỷ nghiệp nhẹ, loài này có khi được một bữa no thì lại bị dao rượt đuổi, bức bách không có chỗ trốn, chịu khổ vô lượng.
    c. Nạn súc sinh: Súc sinh có nhiều loại, mỗi loại đều theo thân gây tạo mà chịu quả báo hoặc có loài được người nuôi dưỡng hoặc có loài ở núi rừng, sông biển thường bị đánh đập, sát hại. Có loài ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô cùng.

    d. Nạn sinh lên cõi trời Trường Thọ: cõi trời này thọ năm trăm kiếp, tức trời Vô Tưởng trong đệ tứ thiền thuộc cõi Sắc. Vô tưởng là do tâm tưởng không vận hành, giống như cá, trùng, sâu bị ướp lạnh. Ngoại đạo tu hành phần nhiều sinh vào cõi trời này, bị chướng ngại không được thấy Phật, nghe pháp.

    e. Nạn sinh ở cõi Uất Đan Việt: Uất Đan Việt, Hán dịch là Thắng Xứ. Người sinh vào cõi này thọ đúng một ngàn tuổi, không chết nửa chừng, đo đó tham đắm hưởng lạc không chịu nghe giáo hóa. Cõi này lại không được thấy Phật nghe pháp, thế nên không có Thánh nhân xuất hiện.

    f. Nạn điếc, đuôi, câm, ngọng: những người tuy sinh trong vùng trung tâm (không phải biên địa), nhưng nghiệp chướng rất nặng, các căn không đủ: điếc, đuôi, câm, ngọng. Tuy có Phật ra đời mà họ không được thấy Phật, nghe pháp.

    g. Nạn thế trí biện thông: người tuy thông minh lanh lợi, nhưng chỉ ưa học kinh sách ngoại đạo, không tin chánh pháp xuất thế.

    h. Nạn sinh trước Phật và sau Phật: người do nghiệp nặng duyên mỏng, sinh trước hoặc sau Phật, không được thấy Phật, nghe pháp.

    Theo kinh Tăng Nhất A Hàm 16, phụng trì pháp Bát quan trai có thể đối trị tám nạn này.

    Theo luận Thành Thật 2 thì dùng tứ luân để đối trị bát nạn, đó là:
    • - Ở chỗ lành: được sống ở đô thị.
      - Nương người thiện: sinh ra đời gặp Phật.
      - Tự phát chánh nguyện: đầy đủ chánh kiến.
      - Gieo sẵn căn lành: các căn đầy đủ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: LIÊN TÔNG BẢO GIÁM

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chương 1
SƯ HUỆ VIỄN
(Tổ thứ nhất của Liên tông)
Sư húy là Huệ Viễn, họ Cổ, nguyên quán ở Lâu Phiền Nhạn Môn, nay là Đại Châu ở Hà Đông. Ngài sinh tại Thạch Triệu vào năm Giáp Ngọ, niên hiệu Diên Hy; nhằm niên hiệu Hàm Hòa thứ chín (334) đời vua Thành Đế nhà Tấn.

Năm mười hai tuổi, Sư theo cậu ở Lịnh Cô du học miền Hứa Lạc. Không bao lâu, Sư bác thông Lục Kinh (sáu bộ kinh của nhà Nho: Kinh Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu), thấu suốt những thuyết Chu Dịch, Lão Trang.

Năm hai mươi mốt tuổi, Sư muốn qua sông ở ẩn với Phạm Tuyên Tử. Nhưng vì lúc ấy có loạn Thạch Hồ, đường giao thông bị trở ngại nên ý nguyện không thành.

Thời gian sau, nghe Pháp sư Đạo An ở tại chùa Nghiệp Trung núi Thái Hành, Sư bèn cùng Sư đệ Huệ Trì tìm đến đó. Sau khi nghe Pháp sư giảng kinh Bát Nhã, Sư suốt thông tỏ ngộ, than rằng: "Phật pháp quả thật vi diệu, xét lại học thuyết của Nho Đạo cửu lưu (chín trường phái học thuật thời Chiến Quốc: Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia) khác nào như cặn bã". Sư và Huệ Trì xin xuất gia, hai vị thường lấy việc gánh vác Đại pháp làm trách nhiệm của mình. Ngài Đạo An thấy vậy khen ngợi rằng: "Về sau, Phật pháp lưu thông ở Trung Quốc, có lẽ do Huệ Viễn này!".

Năm thứ chín niên hiệu Thái Nguyên (384), đời vua Hiếu Vũ, Sư đến Lô Sơn, cầm tích trượng dộng xuống đất, nói: "Có suối thì sẽ ở lại nơi đây!".

Bỗng nhiên có dòng nước phúng lên, Sư bèn lấy cỏ tranh dựng am. Giảng kinh Niết bàn, cảm được Sơn thần hiển linh, mưa giông sấm sét mở mang đất đai, trợ giúp vận chuyển cây gỗ. Thái thú Giang Châu kinh ngạc về sự thần dị ấy, tấu xin xây dựng chùa Đông Lâm, gọi đại điện là Thần Vận.

Năm thứ 11 niên hiệu Thái Nguyên (386), ngôi chùa được hoàn thành. Sư thấy ở phía Đông Nam kinh luật chưa đầy đủ, chưa nghe về thiền pháp, bèn dựng lập thiền thất riêng biệt ở trong chùa, thỉnh một Thiền sư chỉ dạy chúng tu tập thiền định. Lại còn sai đệ tử vượt sa mạc tìm cầu kinh nói về thiền, hầu như bốn chúng ở Giang Biểu đều được tu tập. Sư có tâm nguyện làm cho làm cho sự giáo hóa của Đại thừa từ phương Bắc truyền bá đến tận miền Nam.

Sư thường bảo: "Pháp thiền sâu xa mầu nhiệm, người không có khả năng thì chẳng trao truyền. Cửa đi vào đạo công đức cao dễ tiến tu, niệm Phật làm đầu".

Đồ chúng tới lui ba ngàn người, những bậc có niềm tin chân thật được một trăm hai mươi ba người. Trong đó có mười tám vị đứng đầu, gọi là Đông Lâm Thập Bát Đại Hiền, ở trước tượng Phật Vô Lượng Thọ kiến lập trai đàn thệ nguyện cùng tu Tây Phương Tịnh độ, kết Bạch Liên Xã. Lưu Di Dân viết văn phát nguyện, Sư viết lời tựa Niệm Phật Tam muội.

Tạ Linh Vận cậy tài kiêu căng nhưng vừa gặp Sư liền cung kính khâm phục, đào ao trồng sen, cầu xin gia nhập Liên Xã. Sư nhận thấy Tạ Linh Vận nội tâm hỗn tạp nên từ chối.

Ở Lô Sơn nhiều rắn, có hành giả không biết là người ở đâu thường hầu bên Sư, rất khéo đuổi rắn, đến nay được gọi là "Thánh giả đuổi rắn".

Chỗ Sư ở suối chảy vòng quanh chùa, phía dưới vào Hổ Khê. Mỗi khi đưa tiễn khách, Sư lấy Hổ Khê làm ranh giới. Khi ấy, Đào Uyên Minh và Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Lúc đưa khách ra về, vì đàm đạo khế hợp bất giác, Sư bước qua khỏi Hổ Khê hồi nào không hay. Ba người nhìn nhau cả cười, đời sau nhân đó lưu truyền bức họa "Tam tiếu".

Khi ấy, Pháp sư La Thập gởi thư đến khen Sư là "Bồ tát hộ pháp phương Đông". Chúng tăng ngoại quốc đều ca ngợi: "Đất Hán có bậc Đạo sĩ Đại thừa", mỗi khi dâng hương lễ bái đều hướng về phía Đông cúi lễ, dâng tấm lòng về Lô Sơn.

Vua Diêu Tần khâm phục đạo đức, gởi thư liên tiếp. Năm đầu niên hiệu Long An (397) thời Tấn An Đế, Hoàn Huyền khuyên vua thanh lọc tăng ni, nhưng lại bảo Lô Sơn là nơi có đạo đức không cần tra xét. Sư gởi thơ ngăn chặn Hoàn Huyền, bèn được khỏi nạn ấy.

Năm đầu niên hiệu Nguyên Hưng (402), Hoàn Huyền gởi văn thư cho Ngài, nói rõ lời đề nghị của Dữu Băng muốn Sa môn phải lễ bái quốc vương. Sư lại gởi thơ bàn luận rõ về việc ấy, nên được bãi bỏ.

Vua An Đế từ Giang Lăng trở về kinh, phụ quốc Hà Vô Kỵ khuyên Sư nghinh tiếp. Sư lấy cớ đau yếu từ khước. Vua sai sứ đến thăm hỏi bảo rằng, tờ biểu của Sư đã được nghe. Nhà vua lại đáp lời bằng chiếu chỉ ưu ái ân cần.

Mồng 01 tháng 11 năm Ất Mão niên hiệu Nghĩa Hy (415), Sư nhập định đến ngày 17 mới xuất định, thấy Phật A Di Đà thân sắc vàng đầy khắp hư không. Văn Long Thơ Tịnh Độ nói: "Ngài Huệ Viễn ba lần thấy Thánh tướng mà trầm lặng không nói ra". Đại sư ở Lô Sơn hơn ba mươi năm, chân không bước ra khỏi núi, từ khước mọi sự liên lạc không cần thiết với thế tục.

Mồng 01 tháng 08 năm Bính Thìn (416), Sư nhuốm bệnh, đến mồng sáu thì bệnh tình trầm trọng. Các bậc Tôn đức kỳ cựu khuyên phương tiện dùng thuốc rượu để điều trị, Sư khước từ. Lại thỉnh Sư tạm dùng mật. Ngài sai Luật sư tra xem trong tạng, nhưng chưa tìm thấy thì Sư đã tập hợp các đồ đệ dạy rằng: "Ta từ lúc năm mươi tuổi gởi thân nơi núi này, tự xét ắt có ngày mạng tận mới dứt tuyệt duyên ngoài để mong toại chí nguyện của mình. Chẳng mấy chốc thân thể già suy đã tám mươi ba tuổi rồi, nay ngày giờ đã đến, chỉ mong chôn xương cốt nơi rừng tùng, lấy ngọn núi làm phần mộ, đồng hình trạng với đất đai cây cỏ. Đó là lễ của người xưa, các ông chớ làm trái ngược! Nếu khiến tinh thần chẳng mờ tối mới mong để đạt đến chỗ chí thành. Thương xót thay! Đức Thế Tôn cũng sẽ dùng đạo lực gia hộ".

Đại sư nói xong, liền qua đời. Hàng đệ tử và Thái thú Tầm Dương cùng các quan làm lễ an táng và xây tháp Sư ở phía Tây Lô Sơn.

Vua An Đế sắc phong cho Đại sư thụy hiệu: "Lô Sơn Tôn Giả, Hồng Lô Đại Khanh Bạch Liên Xã Chủ", tháp được đặt tên là Ngưng Tịch. Tạ Linh Vận lập bia ghi lại đức hạnh của Sư, Trương Dã viết lời tựa. Đại sư có trước tác Khuôn Sơn Tập 10 quyển, lưu hành ở đời.

Thụy hiệu của Tổ sư Huệ Viễn được phong qua các triều đại:

- Niên hiệu Nghĩa Hy đời Tấn An Đế, phong thụy hiệu: Lô Sơn Tôn Giả, Hồng Lô Đại Khanh Bạch Liên Xã Chủ.

- Năm Mậu Thìn niên hiệu Đại Trung đời Đường, phong thụy hiệu: Đại Sư Biện Giác.

- Năm thứ ba niên hiệu Thăng Nguyên đời Nam Đường, phong thụy hiệu: Đại Sư Chánh Giác.

- Năm thứ ba niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc đời Tống, phong thụy hiệu: Đại Sư Viên Ngộ.

- Năm thứ hai niên hiệu Càn Đạo đời Tống, phong thụy hiệu: Đại Pháp Sư Đẳng Biến Chánh Giác Viên Ngộ.
Chương 2
ĐẠI SƯ MINH GIÁO GHI LẠI LỜI KÝ NƠI NHÀ THỜ DI ẢNH TỔ SƯ HUỆ VIỄN

Sự tích ngài Huệ Viễn, học giả tuy xem nhưng ít ai hiểu tường tận được, khiến cho người đời chẳng thấy tỏ tường đức hạnh của bậc tiên hiền. Đó cũng là lỗi lầm của kẻ hậu học.

Tôi đọc Cao Tăng Truyện, Liên Xã Lục và Cửu Giang Tân Cựu Lục, rất mến mộ sáu việc của ngài Huệ Viễn. Thấy rằng có thể dùng để khuyên bảo người học nên mới dẫn ra giải thích, nêu lên nơi nhà thờ di ảnh, nói rõ với những người đến đây.
  • - Lục Tu Tĩnh là học giả khác đạo mà đưa qua khỏi Hổ Khê, đó là không do người mà vứt bỏ lời nói của họ.

    - Đào Uyên Minh say sưa rượu chè mà vẫn qua lại, là bởi bỏ qua tiểu tiết, nhận lấy sự thông đạt của người.

    - Cao tăng Bạt Đà do hiển bày những việc lạ kỳ nên bị đuổi mà mời về, lại còn khen ngợi, là bởi trọng người có trí thức để sửa đổi những kẻ ganh ghét bậc hiền tài.

    - Tạ Linh Vận do tâm hỗn tạp nên không tiếp nhận, kết quả bị chết bởi hành hình, là vì biết tánh khí của người ấy mà cẩn thận về sau.

    - Lô Tuần muốn tạo phản mà nắm tay nhận bạn cũ, là bởi vì tự tin tưởng đạo đức.

    - Hoàn Huyền uy thế lẫy lừng mà chống lại không khuất phục, là bởi vì có tiết tháo lớn.
Nói chung, tình người xưa nay không ai chẳng sợ uy thế mà tạm lánh tai ương, quên tình nghĩa để tránh sự nghi ngờ, háo danh mê mờ sự thật, a dua theo quyền thế, tàn nhẫn đối với kẻ cô độc; thay đổi cử chỉ vì sợ liên lụy; cho mình là đúng, kẻ khác là sai.

Ai có đạo đức được tôn kính một đời, làm bậc thầy của người hiền, lại vì vài lời nói mà nghe theo người sao?

Ai vốn đã có đức thù thắng, hạnh trong sạch, lại chịu kết giao với kẻ say sưa, tôn trọng sự thông đạt của người?

Có ai lại hạ thấp sự tôn nghiêm của bậc thầy mà quý trọng người khách bị kích bác và xua đuổi, bày tỏ sự hiền tài của người?

Có ai cự tuyệt kẻ sĩ danh tiếng lẫy lừng, chẳng tiếp nhận giáo hóa, giữ được toàn vẹn về sau?

Có ai vì nghĩa chẳng tránh tai họa, vẫn thân thiện với bạn cũ, tin tưởng đạo đức của người?

Có ai đứng trước uy quyền của tướng soái, ở nơi sát phạt bạo ngược mà giữ đạo chẳng khuất phục, gìn tiết tháo của mình?

Thế nên, kiến thức và độ lượng của ngài Huệ Viễn rộng lớn, vượt hẳn cả xưa nay. Còn như việc gánh vác chánh pháp, mở rộng đạo Thánh, lưu lại công hạnh cho trời người. Kẻ ngu tối này chẳng thể hiểu tường tận, có lẽ Ngài là bậc Thánh chăng? Bậc Hiền chăng?

Vĩ đại thay! Khí phách trùm thiên hạ, thanh phong khắp đất trời, đó là danh tiếng của ngài Huệ Viễn. Vẻ thu bốn biển, sừng sửng trong núi thần, đó là sự thanh cao của ngài Huệ Viễn. Rồng trong loài người, phụng trong hàng tăng, từ bỏ quyền vị giống như Sào Phủ, Hứa Do(65) đó là phong cách của ngài Huệ Viễn. Mây trắng hang sâu, cây ngọc cỏ thơm, là nơi gởi thân của Ngài Huệ Viễn.

Kẻ ngu tối này tuy mến mộ nhưng lại hận sinh sau Ngài. Nay chiêm lễ di ảnh, cúi đầu đảnh lễ, nguyện đem lời văn quê dốt ghi lên nơi vách.

- Tên họ mười tám bậc đại hiền ở Lô Sơn:
  1. Tổ sư Huệ Viễn, họ Cổ, người ở xứ Lâu Phiền, Nhạn Môn.
  2. Pháp sư Huệ Vĩnh, họ Phồn, người ở Hà Nội.
  3. Pháp sư Huệ Trì, sư đệ của ngài Huệ Viễn, cùng sư huynh tôn thờ Pháp sư Đạo An làm thầy.
  4. Pháp sư Đạo Sinh, họ Ngụy, người ở Cự Dã, cư ngụ tại Bành Thành, sinh ra trong gia đình quan lại.
  5. Tôn giả Phật Đà Da Xá, Trung Hoa gọi là Giác Minh, người ở nước Kế Tân, dòng dõi Bà la môn.
  6. Tôn giả Phật Đà Bạt Đà La, Trung Hoa gọi là Giác Hiền, hậu duệ của Cam Lồ Phạn Vương.
  7. Pháp sư Huệ Duệ, người ở Ký Châu.
  8. Pháp sư Đàm Thuận, người ở Hoàng Long.
  9. Pháp sư Đạo Kính, họ Vương, ở Lang Da (huyện Chư Thành ở Sơn Đông), ông nội là Vương Ngưng Chi coi giữ Giang Châu.
  10. Pháp sư Đàm Hằng, người ở Hà Đông, xuất gia lúc còn trẻ thơ, chẳng biết họ gì.
  11. Pháp sư Đạo Bính, người ở Dĩnh Xuyên, họ Trần.
  12. Pháp sư Đàm Tiên, người ở Quảng Lăng, chẳng biết họ gì.
  13. Cư sĩ Lưu Di Dân, húy Trình Chi, tự Trọng Tư, người ở Tụ Lý tại Bành Thành.
  14. Cư sĩ Lôi Thứ Tôn, tự Trọng Luân, người ở Nam Xương.
  15. Cư sĩ Tôn Bính, Thiếu Văn, người ở Nam Dương.
  16. Cư sĩ Trương Dã, tự Lai Dân.
  17. Cư sĩ Trương Thuyên,
  18. Cư sĩ Châu Tục Chi, tự Đạo Tổ, người ở Hoàng Vu, Nhạn Môn.
Bài thơ của Thiền sư Quán Hưu được ghi nơi thơ di ảnh mười tám bậc Đại Hiền.
  • CHÚ THÍCH:
(65) Sào Phủ, Hứa Do: tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許S由).

Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau (lời đối thoại theo Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của):

Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.

Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai.

Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao.

Hứa Do trả lời:

- Vua Nghiêu đòi tôi, bảo tôi thì làm vua.

Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống.

Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp:

- Anh rửa tai anh xuống đó, tôi sợ trâu tôi uống nhằm.

Sào Phủ lại nói:

- Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi.

Huỳnh Tịnh Của phê rằng: "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe".

Tích Sào Phủ Hứa Do trở thành một điển cố về lòng trong sạch và tính ẩn dật.

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm vào quán nước gặp một chủ quán có vẻ có tài, Vân Tiên khuyên ông ra làm quan. Ông trả lời:
  • Quán rằng: Nghiêu Thuấn thuở xưa
    Khó ngăn Sào Phủ khôn ngừa Hứa Do.
Ý nói, ngay cả đời thịnh vượng thanh bình như thời vua Nghiêu, vua Thuấn mà còn có người ẩn dật không ra làm quan, huống chi thời này!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.171 khách