Kính thưa toàn thể chư vị.
kính thưa đạo hữu Hoa Sen Cõi Tịnh.
Trước hết Không Duyên xin cám ơn đạo hữu Hoa Sen Cõi Tịnh cho phép tôi góp ý đôi lời, tôi có đọc một vài bài viết do đạo hữu HSCT, nhận thấy có phần nào hợp với Pháp, hợp với các tông phái Phật giáo hiện nay, tôi viết các tông phái bởi vì từ khi có duyên với diễn đàn này, tôi nhận thấy sự hiểu lầm sanh chia rẽ bởi văn tự ngôn ngữ có sự khác biệt, tôi có duyên nhiều với BT và đã trãi qua nhiều cách tu tập khác nhau do các vị BT này chỉ dạy, để nắm rõ các cách tu tập tôi đã phải mất rất nhiều thởi gian, tôi dành 1/2 giờ cho một cách tu tập, nên phải mất thời gian 5, 6 giờ trong một ngày, tôi không bao giờ nhắm mắt tin càn hoặc tự ý độc đoán trước khi tôi chưa hoàn toàn thông suốt từ cách tu tập một, mất hơn khoãng 20 năm trời và cuối cùng tôi đã được vào nhà, tôi thông suốt một cách tự nhiên không thông qua một ý tưởng hay suy nghĩ nào cả, không một ngôn ngữ văn tự, trong tâm tôi hoàn toàn trống rỗng, quên hết các văn tự, chỉ biết nghĩa mà không văn tự, từ khi vào diễn đàn này tôi phải học lại các văn tự ấy đễ diễn tả Pháp không hình, không tướng, không âm thanh, tôi tội nghiệp các vị đây nên nhẫn nại dùng nhiều cách, nhiều văn tự khái niệm, cho dể hiểu phù hợp với vị ấy, tội nghiệp cho các vị chấp thủ pháp, tự cao ngã mạn làm đình trệ việc tu tiến của người khác, nhân đọc được bài viết của đạo hữu Hoa Sen Cõi Tịnh thấy phù hợp với pháp không hình, không tướng, không âm thanh, tôi xin mạn phép tôi màu vào các phần cốt lõi và thêm vào vài chữ, chư vị nào có duyên với pháp này, nhận rõ các chư pháp rỗng không vốn không hình không tướng không âm thanh, nhưng diệu hữu đầy đủ các chư pháp, phần nào chư vị chưa thông suốt chưa sáng tỏ cứ bỏ qua, trước hết phải đọc hiểu một cách tự nhiên không dùng tâm ý sửa đổi, thứ đến xem xét kỹ có phù hợp với pháp không, sau cùng là tu tập buông bỏ không chấp thủ ý nghĩ riêng tư, nhận thấy không phù hợp thì cần nên biết rõ tại sao ? từ từ ổn định rồi tập tiếp, không cầu, không nắm giữ, không tất cả, làm một cách tự nhiên không ràng buột hay gượng ép thúc đẩy, cho mau chóng chứng đắc pháp, hay tưởng tượng thông suốt điều chi, khi có thì biết có, khi không biết có thì biết không có, chẳng nắm giữ (lìa pháp) các chư pháp, tránh hình dung hay tưởng tượng một hình ảnh hay ý nghĩa gì (lìa tướng), pháp rất tự nhiên vô cầu, vô tác, không.
gửi bởi Hoa Sen Cõi Tịnh » 06/Tháng 5/'14 :
Phật bảo ngài Từ Thị: - Nếu có chúng sanh dùng tâm nghi hoặc tu các công đức, nguyện sanh cõi ấy, chẳng hiểu rõ Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, Ðại Thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Ðối với các trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành, nguyện sanh cõi ấy.
Giải:
Phẩm này giảng về cái nhân của Thai Sanh, khuyên nên sanh lòng tin sâu xa hầu khỏi đọa vào nghi thành biên địa: Trong năm trăm năm chẳng được thấy Phật và Tăng, chẳng được nghe kinh pháp. Ngài Vọng Tây nói: “Biên Ðịa và Thai Sanh đồng Thể khác tên”.
Sách Lược Luận ghi: “Lại có một loại vãng sanh An Lạc nhưng chẳng thuộc vào ba bậc… Trong năm trăm năm thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát và thánh chúng Thanh Văn, gọi là Biên Ðịa của cõi Cực Lạc, còn gọi là Thai Sanh”. Như vậy, ngài Vọng Tây chỉ nhắc lại ý của tổ Ðàm Loan.
Tôi biết tên cõi này nhưng tôi không viết ra tránh hiểu lầm.
Sách Lược Luận còn viết:
“Biên Ðịa là ý nói trong năm trăm năm chẳng được nghe đến Tam Bảo, giống như cái nạn [sanh nơi] biên địa, hoặc cũng là ở tuốt ngoài bìa cõi Cực Lạc. Thai Sanh là ví như người sanh trong thai, lúc sơ sanh nhân pháp chưa thành. Chữ Biên chỉ cho cái nạn ấy, chữ Thai chỉ sự tối tăm. Hai danh từ này đều là mượn tình huống nơi đây để ví cho tình trạng nơi kia (Ý nói: chữ Biên và Thai đều là thí dụ mà thôi), chứ chẳng phải là biên địa trong tám nạn, cũng chẳng phải là kiểu Thai Sanh bằng thai bào. Do đâu biết thế? Cõi nước An Lạc thuần một bề là hóa sanh, cho nên biết là chẳng thật có Thai Sanh. Do năm trăm năm sau lại được thấy nghe Tam Bảo, nên chẳng phải là nạn biên địa trong tám nạn”.
Lại nữa, “nghi thành” là nếu ai trong lòng nghi ngờ, niệm A Di Ðà Phật thì sanh trong cung điện bảy báu nơi biên địa cõi Cực Lạc, trong năm trăm năm chẳng được nghe đến danh hiệu Tam Bảo. Do chốn đó là nơi kẻ nghi ngờ cư ngụ nên gọi là “nghi thành”.
Kinh Pháp hoa gọi là hóa thành tụ.
Trong tác phẩm Lược Luận, ngài Ðàm Loan đã giảng câu “bất liễu Phật trí” (chẳng hiểu rõ Phật trí) như sau: “Chẳng hiểu rõ Phật trí là chẳng thể tin trọn vẹn vào Nhất Thiết Chủng Trí của Phật. Do chẳng hiểu nổi nên khởi nghi. Một câu này nêu chung điều nghi; bốn câu tiếp theo, mỗi câu đối trị mối nghi ấy”.
Các vị Tịnh Ảnh, Pháp Vị, Nguyên Hiểu đều theo thuyết này, cùng cho rằng câu “bất liễu Phật trí” là Tổng, bốn câu kia là Biệt.
Ngài Tịnh Ảnh viết: “Trước hết nói ‘bất liễu Phật trí’, câu này là Tổng, [những câu như] ‘bất tư nghị trí’ v.v… là Biệt. Phật trí uyên thâm, những trí khác không thể suy lường nổi nên bảo là ‘bất tư nghị’. Phật trí thật nhiều, chẳng thể kể hết nên bảo là ‘bất khả xưng’. Phật trí biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là ‘quảng trí’. Phật trí ở địa vị cao trỗi nên gọi là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.
Ngài Hải Ðông Nguyên Hiểu đời Ðường lại đem bốn câu ấy phối hợp với bốn trí. Trong tác phẩm Tông Yếu, Ngài đã viết:
“Câu Phật Trí là câu nêu chung, bốn câu tiếp đó đều nói về bốn trí. ‘Bất tư nghị trí’ là Thành Sở Tác Trí, trí này có thể làm được những việc chẳng thể nghĩ bàn; chẳng hạn như một niệm xưng danh vĩnh viễn diệt được trọng tội trong nhiều kiếp. Công đức của mười niệm phát sanh ra quả báo thù thắng vượt ngoài tam giới. Các việc như thế chẳng thể lường suy nổi, cho nên gọi là ‘bất tư nghị trí’.
‘Bất khả xưng trí’ là Diệu Quán Sát Trí. Trí này quán sát chẳng thể nói nổi cảnh giới, nghĩa là: Hết thảy pháp như huyễn, như mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, lìa ngôn ngữ, dứt bặt suy nghĩ, chẳng thể dùng ngôn ngữ để suy lường, diễn tả nổi. Vì thế trí này gọi là ‘bất khả xưng trí’.
‘Ðại Thừa quảng trí’ là Bình Ðẳng Tánh Trí. Trí này độ rộng khắp, chẳng giống với Tiểu Thừa, tức là dung hội vô ngã nên chẳng bất ngã. Do bất ngã nên không gì là chẳng bình đẳng nhiếp thọ. Dùng trí lực đồng thể này độ khắp vô biên hữu tình khiến cho họ đều chứng vô thượng Bồ Ðề cho nên gọi là ‘Ðại Thừa quảng trí’.
‘Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí’ chính là Như Lai Ðại Viên Kính Trí. Thỉ Giác chuyển thành bổn thức thì mới quay về nguồn tâm. Với hết thảy cảnh, không cảnh nào chẳng chiếu soi trọn vẹn. Vì lẽ đó, gọi là Ðại Viên Kính Trí.
Trong túi áo có ngọc mà không biết dùng (dụng, kinh Pháp Hoa)
Đức Phật Thích Ca mâu Ni có đầy đủ các trí này, nên chỉ một câu nói hay làm thinh mĩm cười vậy mà các chư tăng chứng Pháp vô sở đắc nhiều vô số.
Trong một trí này có năm điều thù thắng:
1. Như Nhị Thừa cũng chứng đắc giải thoát thân, nhưng vì Kính Trí này chính là Pháp Thân nên Nhị Thừa chẳng thể đạt được; do vậy gọi là ‘vô đẳng’ (không ai bằng). Ðấy là điều thù thắng thứ nhất.
2. Ba trí trước đó Bồ Tát cũng dần dần sẽ đạt được; nhưng Ðại Viên Kính Trí chỉ Phật mới đốn chứng, chứ không ai khác có thể chứng nổi nên gọi là ‘vô luân’ (không ai sánh nổi). Ðấy là điều thù thắng thứ hai.
3. Hơn cả ‘bất tư nghị trí’ là ‘tối’; vượt xa ‘bất tư nghị trí’ là ‘thượng’. Rộng hơn ‘Ðại Thừa quảng trí’ là ‘thắng’. Ðấy chính là các điều thù thắng thứ ba, thứ tư và thứ năm vậy.
Bởi thế, trí này được gọi là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.
Sách Hội Sớ lại nói:
“Bất liễu Phật trí là nghi ngờ tánh đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật trí, chẳng ngộ được vì sao đức Như Lai là vĩ đại. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi Phật trí mà [chúng sanh] lại nghi ngờ trí ấy nên chẳng thể hiểu rõ Phật trí.
Bất tư nghị trí: Vì trí huệ của Phật sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là ‘bất tư nghị trí’. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi bất tư nghị trí mà [chúng sanh] lại nghi trí ấy nên bảo là ‘chẳng hiểu rõ bất tư nghị trí’.
Bất khả xưng trí là trí huệ của Phật nhiều đến vô lượng chẳng thể nói kể cho hết được nên gọi là bất khả xưng trí. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí thành tựu mà lại nghi trí ấy thì gọi là ‘chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí’.
Ðại Thừa quảng trí là trí biết đến cùng tột các pháp môn nên gọi là Đại Thừa quảng trí. Niệm Phật vãng sanh là do Đại Thừa quảng trí cảm thành mà lại nghi trí ấy nên gọi là ‘chẳng hiểu rõ Ðại Thừa quảng trí’.
Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí là do trí ấy có địa vị cao trỗi nên gọi là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Nay niệm Phật vãng sanh là do vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí phát khởi mà lại nghi trí ấy nên bảo là chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.
Người không hiểu rõ Phật trí sanh nghi tình, tự ý nghi ngờ giải nói khi chưa được kiến tánh, tức là nghi trí ấy, nên không dám tu, chấp khó chứng đắc bởi sở đắc trí nên chẳng rõ Phật trí vô sở đắc, Phật tánh (Phật==giác, tánh==tuệ)==tuệ giác.
Ba thuyết trên hỗ trợ nhau: Thuyết của Tịnh Ảnh Sớ trình bày tóm lược những điểm quan trọng; thuyết của sách Tông Yếu giảng rộng từng ý nghĩa; sách Hội Sớ quy kết về Tịnh tông nên tôi cùng trích dẫn cả ba thuyết.
Kinh nói: “Dĩ nghi hoặc tâm” (Dùng tâm nghi hoặc) nghĩa là do chẳng thể tin hiểu nổi Phật trí nên sanh tâm ngờ vực. Chữ “nghi” có bốn ý, dưới đây tôi sẽ tổng hợp những ý chính của các vị Ðàm Loan, Nguyên Hiểu, Tuấn Ðế và Cảnh Hưng để giảng.
* Một là chẳng tin vào bất tư nghị trí nên nghi nếu chỉ niệm A Di Ðà Phật chưa chắc đã được vãng sanh Cực Lạc, chẳng biết rằng bất tư nghị trí có đại oai lực chẳng thể suy lường được nổi. Hết thảy muôn pháp không pháp nào chẳng phải là tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, thiên biến vạn hóa vô lượng vô biên. Há nên dùng cái tình thức còn ngăn ngại của phàm phu để ngờ vực diệu pháp vô ngại của đức Như Lai;đâu biết rằng một tấm gương có thể hiện bóng muôn vàn cảnh tượng, củi chất ngàn năm một mồi lửa cháy sạch. Vì vậy, chí tâm nhất niệm xưng danh tiêu diệt được trọng tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Mười niệm ắt được vãng sanh có chi là lạ!
bởi nghi tình Phật trí, nên chẳng dám ''niệm Phật tự tánh'' nghi tình '' Phật chúng sanh chẳng đồng bản thể'', bởi khi xưa phật cũng từng là chúng sanh như mình, ''Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng'' lại sanh nghi ngờ, chẳng rõ ''Phật trí''.
* Hai là chẳng tin vào bất khả xưng trí, chẳng hiểu được rằng thể tánh của Phật trí là tuyệt dứt mọi đối đãi, lìa mọi lỗi lầm, tuyệt mọi sai trái.
Ngài Ðàm Loan nói: “Bất khả xưng trí là tin Phật trí chẳng thể diễn bày, mô tả, chẳng thể đối đãi. Vì sao nói thế? Pháp nếu là có thì ắt phải có cái trí biết có. Pháp nếu là không thì ắt phải có cái trí biết không. Các pháp rời ngoài có không mà Phật thấu hiểu sâu xa các pháp nên trí Ngài vượt khỏi mọi đối đãi. Dùng cái biết để hiểu Phật thì chẳng gọi là biết Phật.Dùng cái chẳng biết để hiểu Phật thì cũng chẳng gọi là biết Phật. Dùng cái bất tri, phi bất tri để hiểu Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Dùng cái phi phi tri, phi phi bất tri để hiểu Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Phật trí rời ngoài cả bốn câu ấy”.
Lìa khỏi tứ cú ấy thì tuyệt bách phi. Phật trí lìa tứ cú, tuyệt bách phi, Thể của Phật trí không còn đối đãi nên gọi là “bất khả xưng trí”. Do trí ấy chẳng thể diễn tả nổi nên công đức niệm Phật cũng chẳng thể diễn tả nổi. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí tạo thành nên hễ nghi trí này thì gọi là “chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí”.
* Ba là chẳng hiểu rõ Ðại Thừa quảng trí, nghi Phật chẳng thể thật sự độ hết thảy chúng sanh, lại ngờ hết thảy chúng sanh niệm Phật chẳng phải đều được vãng sanh Tịnh Ðộ. Bởi thế, đối với A Di Ðà Phật bèn sanh ý tưởng suy lường. Ðể đối trị mối nghi này, Phật mới nói đến Ðại Thừa quảng trí. Trí này không pháp gì chẳng biết, không phiền não nào nó chẳng đoạn được, không điều thiện nào nó chẳng trọn vẹn được, không chúng sanh nào trí này chẳng độ được.
Muốn chỉ rõ Phật trí không gì là chẳng độ thoát được, đều đưa hết thảy vào vô dư nên gọi là “Ðại Thừa”. Trí ấy độ thoát vô hạn vô ngằn nên gọi là “quảng trí”. Trí ấy lại biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là “Ðại Thừa quảng trí”.
Một chúng sanh này từ vô lượng kiếp cho tới nay tạo nghiệp thiện ác oan trái với vô số chúng sanh khác, tùy theo nghiệp tạo tác sanh vào bốn cõi sáu đường, sanh vào hằng hà sa số thế giới vô số kỳ quốc, mang vô số hình tướng lớn nhỏ đa dạng, cộng nghiệp với vô số chúng` sanh khác, nếu chưa vào vô dư còn tiếp tục sanh tử cộng nghiệp thiện ác oan trái với vô số chúng sanh khác trong vị lai, sanh vào vô số thế giới vô số kỳ quốc vô số lượng ức kiếp, nếu vào vô dư rồi sẽ không còn tiếp tục oan trái các chúng sanh khác trong vị lai, kinh gọi là độ thoát vô hạn vô ngằn .
Vì thế, trí ấy có thể khế hợp rộng rãi mọi căn cơ, đều độ thoát tất cả. Như Lai đại bi đại trí, đối với những kẻ hữu duyên thì không một ai Ngài chẳng độ thoát cho được nhập Niết Bàn. Ngài khai diễn diệu nghĩa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” khiến cho các hữu tình do niệm Phật chứng nhập vô niệm, do vãng sanh chứng được vô sanh. Bởi thế có thể khiến cho chúng sanh niệm Phật đều sanh Tịnh Ðộ.
Hơn nữa, thế giới chẳng phải là hữu biên, chẳng phải là vô biên, cũng tuyệt hẳn tứ cú. Phật làm cho chúng sanh lìa được tứ cú ấy thì gọi là “độ”, nhưng thật ra Ngài chẳng độ mà cũng chẳng phải là chẳng độ, chẳng phải tận mà cũng chẳng phải là chẳng tận.
* Bốn là chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, ngờ Phật chẳng đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Do bởi nghi như thế nên đối với pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh chẳng thể chánh tín; do đó cảm lấy Thai Sanh.
khai diễn diệu nghĩa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” chứng nhập vô niệm, chứng được vô sanh, tâm vô biệt niệm.
Theo ngài Nguyên Hiểu, đối với Phật trí như thế chỉ có thể ngưỡng mộ, kính tin, chứ chẳng thể so lường nên gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”. Tin tưởng, ngưỡng mộ như thế nào? Hãy nên như Trí Ðộ Luận đã nói:
“
Hết thảy cảnh giới vốn là
nhất tâm,
lìa khỏi tưởng niệm. Do chúng sanh lầm lạc thấy có cảnh giới nên tâm có phân chia. Do
vọng khởi tưởng niệm chẳng xứng hợp với pháp tánh nên
chẳng thể hiểu rạch ròi. Chư Phật Như Lai
lìa khỏi các tướng thấy, không gì là chẳng hiểu trọn vẹn vì tâm
chân thật chính là tánh của chư pháp. Tự thể chiếu
rõ hết thảy pháp hư vọng, có đại trí dụng, vô lượng phương tiện, tùy theo các chúng sanh hiểu được pháp nào thì Phật sẽ đều khai thị các thứ pháp nghĩa đó. Vì thế được gọi là Nhất Thiết Chủng Trí”.