3.
SO SÁNH SỰ TỔN HẠI VÀ LỢI ÍCH GIỮA ĐƯỢC VÀ KHÔNG ĐƯỢC TRỢ NIỆM
Cư sĩ Lưu Hiểu Ngu tên là Cảnh Liệt, người huyện Cám tỉnh Giang Tây, thuở trẻ du học Đông Doanh (Nhật Bản), là bạn học với ông Thái Tùng Pha v.v… Sau khi quang phục, từng làm Nghị Viên Quốc Hội khóa đầu tiên. Năm Dân Quốc thứ sáu, thứ bảy (1917-1918), đảm nhiệm chức Ty Trưởng ty Chức Phương
(5). Do người anh họ là cư sĩ Hảo Ngu, tên [ngoài đời là] Cảnh Hy, vốn là một thân sĩ tiếng tăm ở Cám Châu rất tôn sùng Phật học; cho nên từ thuở bé, đối với pháp môn cư sĩ cũng chịu hộ trì. Ngôi chùa cổ Thọ Lượng trong thành bị bỏ hoang, sụp nát từ lâu. Đầu thời Dân Quốc, người dân trong vùng tính mượn danh nghĩa lập trường tiểu học cho quốc dân để che đậy ý đồ chiếm hết [cả chùa], chiếm đóng nơi ấy. Về sau, do cư sĩ phát khởi, thỉnh hòa thượng Đại Xuân kiêm nhiệm Trụ Trì, giúp sức bảo vệ. Đến năm Dân Quốc thứ tám, thứ chín (1919-1920), nhà chùa cùng trường học dính vào chuyện thưa kiện, đều do cư sĩ đức cao trọng vọng mà một người xướng, trăm người hòa, ngả rạp theo gió, phàm những vị chánh sĩ thuộc các giới thân sĩ, thương nhân, giáo dục ở địa phương đều nhất trí chủ trương công đạo, dời nhà trường khỏi chùa, bảo toàn được cơ sở nhà chùa và chuộc lại chừng đó ruộng cho cấy rẽ.
Đến năm Dân Quốc 22 (1933), [chánh quyền địa phương] phóng đường cái, nhà chùa nằm ngay trên tuyến đường được quy định thiết lập đại lộ, hai bên đều biến thành trang trại nhỏ, [họ tính] phá sạch cả chùa, muôn phần không còn cách gì bảo tồn được nữa! Hàng Tăng - tục đã đến chỗ sơn cùng thủy tận rồi, biết Sâm khi xưa đã từng phụ giúp hòa thượng Đại Xuân, có mối nhân duyên với chùa ấy; khi đó, Sâm đang hầu hạ cụ Ấn tại đất Tô, ắt sẽ quen biết vị hộ pháp có thế lực, họ bèn gởi thư xin lập phương cách cứu vãn.
Khéo sao, cư sĩ cũng do tỵ nạn mà đến đất Tô, đã quy y với Ấn lão pháp sư, ăn chay theo kỳ, tu Tịnh nghiệp, pháp danh là Đức Thành. Sâm vì tạo dựng tượng Đại Sĩ bằng sắt cao hai mươi thước mà bôn tẩu hô hào, [nhà chùa] được giữ nguyên vẹn; tiến hơn một mức nữa là lại được trùng hưng cũng nhờ công sức cư sĩ giúp đỡ không ít. Đến năm Dân Quốc 25 (1936), cư sĩ trở về quê, chuyện duy trì nhà chùa càng nhờ cậy cư sĩ nhiều hơn, nhưng do việc công chuyện tư bề bộn, tuy đã phát tín tâm, nhưng khó chuyên thực hành được. Mỗi ngày bất quá thực hiện công khóa chốc lát, tùy duyên tu tập mà thôi!
Đến cuối Thu năm Dân Quốc 27 (1938), do sát nghiệp trong đời trước đời này chiêu cảm, lại bị bệnh nặng (
khi chưa quy y Phật, cư sĩ thích bẫy chim lưới cá, sát hại rất nhiều sanh mạng. Năm Dân Quốc mười mấy, từng bị chứng Đối Khẩu Sang(6), bệnh tình rất nguy hiểm, đau khổ cùng cực, bèn phát nguyện đoạn trừ thói quen xấu ác ấy. Do niệm Quán Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, chợt nghe trên hư không tỏa hương, bệnh tình dần dần được bình phục), dây dưa lâu ngày, đau khổ khó kham, sai con là Phát Trang đem món tiền mấy trăm đồng, cậy Sâm cúng dường cho cụ Ấn và làm công đức thay cho mình. Sâm lo liệu xong, viết thư phúc đáp khuyên cư sĩ nên ăn chay trường; nghe nói đến cuối năm [cư sĩ] mới thực hành chuyện thôi ăn mặn. Cho đến tháng Ba năm Dân Quốc 28 (1939), bệnh tình ngày càng thêm nặng. May nhờ thê thiếp, dâu, con đều là đệ tử quy y với cụ Ấn, đều biết trợ niệm lúc lâm chung là chuyện khẩn yếu, bèn trong ngày Mười Bảy thỉnh hai vị Tăng ở chùa Thọ Lượng đến trợ niệm.
Niệm đến sáng ngày Mười Chín, cư sĩ tự biết sắp từ biệt trần thế, sai khiêng ra trước sân để đổi không khí, gọi anh em dặn dò hậu sự, bảo người con cả là Phát Trang quỳ nghe di chúc. Nói xong, mọi người thấy sắc mặt [cư sĩ] rất lạ, bèn khiêng trở vào phòng ngủ. Hai vị Tăng và người nhà đồng thanh niệm Phật hiệu để trợ niệm. Phát Trang kính cẩn nâng tượng A Di Đà Phật tiếp dẫn, thỉnh [cư sĩ] hãy nhìn xem. Do lúc mới phát bệnh ngặt thì vẫn là chứng bệnh ở phía ngoài cổ (tức chứng Đối Khẩu Sang tái phát) khiến cho tay trái rũ xuống mấy tháng không thể giở lên được; chính đang lúc hấp hối vừa thấy tượng Phật, tay trái chợt hoạt động như thường, giơ lên chắp tay, liền tỏ vẻ hoan hỷ hớn hở, niệm gấp A Di Đà Phật. Lúc ấy, chẳng có mảy may đau khổ nào, an tường qua đời giữa tiếng niệm Phật của mọi người, thọ được sáu mươi mốt tuổi, nhằm ngày Mười Chín tháng Ba năm Kỷ Mão (1939) Âm lịch.
Cư sĩ bệnh nặng mấy tháng, đau khổ khó kham, quả thật là báo nặng trong đời sau do não hại chúng sanh đã chuyển thành báo nhẹ trong hiện đời, đến khi lâm chung có được tướng lành ấy, có thể nói là các căn tươi vui, chánh niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Định, chắc chắn sanh về Tây Phương không còn ngờ gì nữa! Việc ma chay, đãi khách nhất nhất đều tuân theo lời cụ Ấn đã dạy trong thư: Nhất loạt dùng cỗ chay, mở ra đầu mối đầu tiên theo đường lối Phật hóa ở miền Nam Cám Châu. Thiện lợi như vậy tuy do chính thiện căn của chính cư sĩ chín muồi, nhưng quyến thuộc giúp sức đúng pháp khéo trợ niệm vào lúc lâm chung cho nên cũng thật sự là một trợ duyên rất lớn. Vì thế, cuối cùng, tôi mong tứ chúng Phật tử hãy sớm chú ý [điều này].
Bà Đinh nhà họ Lý, pháp danh Đức Hoằng, từng làm vợ cả ông Lý X... ở Dương Châu. Do chồng đã cưới vợ lẽ mà bà lại chưa từng sanh nở, khó sống yên trong nhà [chồng] được, bèn đến sống nhờ nơi mẹ kế là cư sĩ Đinh Đức Nguyên. Bà mẹ kế cũng coi bà Đinh như con ruột, nâng đỡ lẫn nhau, quây quần bên nhau gần suốt hai mươi năm mà giống hệt như một ngày. Năm Dân Quốc 17 (1928) ở tại đất Thân (Thượng Hải), do thân hữu dẫn đến gặp Ấn lão pháp sư, bèn cùng nhau cầu khẩn xin được nhiếp thọ, quy y, xin ban pháp danh. Lão nhân cũng nghĩ tới lòng họ thành khẩn bèn từ bi chấp thuận, và ghi cho pháp danh là Đức Nguyên, Đức Hoằng.
Từ đấy, ăn chay trường, thờ Phật, tu trì nghiêm cẩn, mẹ con nương tựa nhau, chuyển thành pháp lữ. Đau đáu nghĩ tục duyên bạc phước, quyến thuộc thưa thớt, nay gặp Tịnh tông là cha mẹ tốt lành hướng dẫn xuất thế, được nương tựa nơi thầy, cũng là may mắn muôn vàn. Do vậy, đối với lão nhân tâm hiếu kính mười phần chân thật, thiết tha.
Luận về sự tin tưởng, tu trì thường ngày thì hết thảy mọi mặt [cư sĩ Lý Đinh Đức Hoằng] đều trội hơn Lưu cư sĩ, chỉ hận túc nghiệp ngăn chướng, nhân duyên khiếm khuyết! Mùa Hạ năm Dân Quốc 27 (1938), thấy Vũ Hán sắp lâm vào cảnh vây hãm, nguy ngập, bèn từ Hương Cảng đến tỵ nạn tạm thời tại đất Hỗ (Thượng Hải). Do giá nhà quá cao, thuê mướn chẳng dễ dàng, bèn ở tại khách sạn, vừa quá tốn kém vừa quá bất tiện. Cụ Chân Đạt chùa Thái Bình biết mẹ con bà tin Phật chân thật, thiết tha, trong lúc đại kiếp này lênh đênh không nơi nương tựa, quyến thuộc đìu hiu, thật đáng thương xót, nên trong chùa có lập một tịnh thất cho năm người già trẻ cùng sống.
Đến đầu tháng Ba năm Dân Quốc 28 (1939), [Lý cư sĩ] đột nhiên mắc bệnh thương hàn, dây dưa tới tháng Tư thuốc men không công hiệu, bệnh tình ngày càng nặng thêm, trong chùa Phật sự bề bộn, phòng ốc lại ít, nếu chết tại chùa không cách chi xếp đặt ổn thỏa được, bất đắc dĩ phải đưa vào bệnh viện. Quy định của bệnh viện là phải theo quy cách Tây Phương, việc trợ niệm lúc lâm chung muôn phần khó thể thực hiện được. Nhập viện hai ba ngày, những người biết Phật pháp chẳng thể đến thăm được, cư sĩ bèn chết hồ đồ tại bệnh viện vào sáng ngày Mười Tám tháng Tư, thọ năm mươi tuổi.
Người có tín tâm tu trì như thế nếu lâm chung được trợ niệm đúng pháp, sẽ hiện tướng lành vãng sanh chẳng kém cư sĩ Lưu [Hiểu Ngu]; nhưng vì cơ duyên bị trở ngại, hoàn toàn chẳng được hưởng lợi ích do trợ niệm, đến nỗi tín tâm hằng ngày chẳng thể thọ dụng được trong đời này, chỉ thành nhân duyên đắc độ trong vị lai, thật đáng tiếc quá! So sánh những chuyện này, biết đích xác trợ niệm lâm chung có quan hệ rất trọng yếu! Tuy nhiên, công chẳng luống uổng, quả không bỏ phí!
Cõi đời chẳng có quả nào không có nhân, cũng như không có nhân nào chẳng kết thành quả. Lưu cư sĩ hưởng thiện lợi như thế là do nhân gieo trong đời trước nay đã chín muồi, vì thế có được thiện duyên quyến thuộc giúp cho thành tựu.
Lý cư sĩ chịu cảnh ngang trái như thế chắc là vì đời trước phá hoại chuyện thù thắng của người khác đến nỗi cảm lấy đủ mọi thời tiết nhân duyên chẳng đúng pháp gây nên chướng nạn. Hết thảy thiện hạnh do tín phụng Tam Bảo trong hiện tại chắc chắc sẽ tạo thành cái nhân đắc độ trong vị lai, chẳng thể nghi ngờ, bàn bạc mảy may nào nữa, nhưng rốt cuộc chẳng thẳng chóng bằng liễu thoát ngay trong đời này.
Do vậy, lão nhân thường nói: "
Lợi người tức là lợi mình, hại người còn quá hại mình". Nguyện những vị Tăng - tục cùng hàng có chí sanh Tây trong nhất cử nhất động hãy chú ý nhân quả khiến cho mỗi bước mỗi chuyện đều tạo thành duyên thù thắng để thành tựu vãng sanh, [đấy là điều] thiết yếu vậy!
GHI CHÚ:
(5)
Đây là một trong sáu ty trực thuộc Bộ Nội Vụ của Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm 1912 tại Nam Kinh. Thoạt đầu sáu ty này có tên gọi là Dân Trị (coi về hành chính trị an), Cảnh Vụ (công an, cảnh sát), Lễ Giáo (trông coi giáo dục và thuần phong mỹ tục), Thổ Mộc (trông coi về xây dựng, thiết kế những công trình công cộng) và Biên Lý (quản trị biên cương, quy hoạch bản đồ lãnh thổ quốc gia). Khi chính quyền Dân Quốc chiếm được Bắc Kinh, dời kinh đô từ Nam Kinh lên Bắc Kinh, ty Biên Lý được đổi tên thành ty Chức Phương (dựa theo ý nghĩa xưa của chữ Chức Phương là bản đồ).
(6) Đối Khẩu Sang:
Còn gọi là Não Thư, Khẩu Thư, Khẩu Đinh, Lạc Đầu Thư, hay Đại Thư, là một chứng bệnh lở loét ở phía trên phần cổ, giáp ót. Sang và Thư đều có nghĩa là lở loét. Bệnh nhân mọc một cái nhọt độc lớn ở phần sau cổ, lở loét mãi không lành miệng, thường có mủ, khiến bệnh nhân hay bị sốt cao, rất đau đớn. Nếu không chữa trị đúng lúc, bệnh nhân bị hôn mê rồi chết.
4.
NGƯỜI TU TỊNH NGHIỆP ĂN CHAY, NIỆM PHẬT TRONG XỬ SỰ THƯỜNG NHẬT CHUYỆN GÌ CŨNG PHẢI RẤT PHÙ HỢP VỚI TỊNH HẠNH THÌ MỚI CÓ THỂ VÃNG SANH
Cư sĩ Tào Á Bá người huyện Dương Tân tỉnh Hồ Bắc, thiên tư khá tốt, đến tuổi búi tóc đi học, liền cùng với những vị tham gia cuộc khởi nghĩa Vũ Xương
(7) cực lực đề xướng cách mạng. Triều đình nhà Thanh nghiêm cấm, bèn liều mạng bỏ ra nước ngoài, đi khắp Âu - Mỹ, cùng hoạt động chung với các vị như Tôn Tổng Lý
(8). Đến năm Dân Quốc 11 (1922), cư sĩ bèn chẳng muốn nghe đến chuyện quốc sự nữa, ẩn cư tại Thượng Hải. Tiếp đó tậu sản nghiệp, dựng nhà tại Côn Sơn, rồi nghe theo lời khuyên của cư sĩ Trương Thuần Nhất tin tưởng Phật pháp, đọc khắp những bộ kinh luận nổi tiếng của Đại Thừa. Đến năm Dân Quốc 18, 19 (1929-1930), sau khi thân cận cụ Ấn, cũng khá hợp tính với Sâm, hễ gặp người khác bèn đem Phật pháp khuyên lơn, đề xướng tuyên truyền, khá có ảnh hưởng.
Đối với chuyện thuộc pháp môn, cư sĩ tận lực hộ trì, chẳng hề né tránh, kiêng dè, cũng là người làm được những điều người khác khó thể làm. Sâm lo liệu những chuyện thuộc về tài sản nhà chùa tại Giang Tây cũng được cư sĩ giúp sức không ít. Ông ta khinh tài trọng nghĩa, thanh cao, thật thà, chẳng tranh quyền lợi với ai, cũng là hạng người hiếm có trong thời này.
Tiếc là chuyện gì cũng luông tuồng, chẳng tuân theo quy củ đã định, đến nỗi phần nhiều những chuyện ông làm đều trở thành trò đùa! Vì thế, chỉ gieo được cái nhân xa, chứ khó thể được lợi ích thật sự trong đời này.
Thường ngày, do thân lẫn tâm đều mạnh mẽ, ông tự coi mình là anh hùng, mong có thể sống tới một trăm hai mươi tuổi! Hiềm rằng thuở thiếu niên chơi bời bừa bãi (
chuyện này ông ta thường tự lớn tiếng nói cho người khác biết), trác táng quá độ nên đã trở thành bề ngoài mạnh mẽ nhưng bên trong thì khô héo; cho nên đến tuổi xế chiều cũng thường sanh bệnh. Mùa Thu năm Dân Quốc 26 (1937), bị bệnh thổ tả nhẹ, trị gần lành, vẫn gởi thư cho Sâm ước hẹn kỳ hạn đến đất Tô lễ bái, thân cận cụ Ấn, nhân đấy bày tỏ nỗi lòng.
Nào ngờ tối hôm trước ngày đã định, cư sĩ mắc chứng dịch tả. Lần này những người bạn thân đã ước hẹn đồng hành đến mời cư sĩ lên đường, thấy ông ta đã sắp mất, chưa đầy một tiếng đồng hồ đã thiêm thiếp qua đời, thọ sáu mươi hai tuổi, chỉ được nửa số tuổi mong muốn, mất đúng vào giữa trưa ngày Hai Mươi Lăm tháng Tám. Hết thảy các sự thế gian lẫn xuất thế gian đã nói trước đây đều trở thành bánh vẽ. Đây chính là bằng chứng chắc như sắt về chuyện đùa bỡn nơi pháp môn, khó được lợi ích thật sự trong đời này! Người tu Tịnh nghiệp đối với hết thảy những chuyện chẳng tuân theo quy củ đã định phải thống thiết răn ngừa vậy!
Cư sĩ Bành Thủ Chuyết người huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây, năm Dân Quốc 18 (1929), đặc biệt sang đất Hỗ chọn đầu bếp chuyên nấu món chay về Nam Xương trông coi tiệm đồ chay. Nhân đó, đến chùa Thái Bình lễ cụ Ấn nên mới bắt đầu quen biết Sâm. Về sau, ông lại trông coi Phật Kinh Lưu Thông Xứ tại chùa Hựu Dân. Do làm việc nghiêm túc, ông được các cư sĩ tín nhiệm, cho nên công việc cả hai nơi đều giao cho ông chăm sóc. Đối với chuyện trong pháp môn, ông luôn ủng hộ các vị Tăng - tục, cũng như dốc cạn tâm lực hộ trì đề xướng. Sâm phải lo chuyện tài sản nhà chùa ở vùng Nam Cám, được ông lập nhiều cách giúp đỡ, hưởng lợi ích cũng sâu đậm lắm. Nhưng vì ông đông con quá, trong nhà chẳng có của cải gì, duy trì sanh kế cho gia đình khá vất vả. Công khóa tự tu tuy chưa thể không gián đoạn, nhưng cũng chẳng chịu bỏ luống.
Khi ngoài năm mươi tuổi, do lao lực chất chứa, thân suy nhược, đến nỗi thường đổ bệnh. Đến khoảng tháng Bảy năm Dân Quốc 27 (1938), biết trước lúc mất, đã định sẵn kỳ hạn với người nhà. Khi ấy, người nhà vây quanh trợ niệm Phật hiệu, cư sĩ cũng chánh niệm phân minh, an tường về Tây giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Do ông ta cung kính Tam Bảo, chuyện gì cũng học theo ông Hứa Chỉ Tịnh, nghe nói tướng lành lúc vãng sanh cũng gần giống như vậy (
nhưng lúc nghe còn chưa ghi lại, nên vẫn còn nhiều chuyện chưa thể tường tận được).
Cư sĩ Tra Tân Thần, người huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây, năm Dân Quốc 24 (1935), làm nghề buôn bán, gia đạo cũng dư dả đôi chút, nhiệt tâm làm chuyện công ích, ưa làm lành, thích bố thí. Những chuyện từ thiện trong địa phương đều khảng khái giúp cho thành tựu, làm phó xã trưởng của Cửu Giang Liên Xã. Năm Dân Quốc 24 (1935), Sâm qua Cửu Giang vừa gặp mặt lần đầu liền được ông đặc biệt ưu đãi. Năm Dân Quốc 25 (1936), triều bái Phổ Đà, đến đất Tô, càng thêm quen biết đậm đà hơn. Mùa Xuân năm Dân Quốc 28 (1939), do tỵ nạn về sống tại Cám Châu, tuy phải lênh đênh trôi nổi, vẫn cứ nhất tâm thờ Phật, mấy lần gởi thư cho Sâm để bàn bạc chuyện trong pháp môn.
Đến tháng Giêng năm Dân Quốc 29 (1940), chẳng may phi cơ oanh tạc Cám Thản, bom rớt xuống gần nơi [cư sĩ] cư ngụ, bị kinh hãi trúng phong, tiếp đó bị chứng bệnh viêm màng não cấp tính, qua đời vào giờ Thân ngày Hai Mươi Mốt tháng Hai. Do bình nhật tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, thật sự có tu trì, lại thêm quyến thuộc cũng hơi biết về ý nghĩa quan trọng của sự giúp sức trong lúc lâm chung, nên tuy bị mất vì bệnh ngặt, tâm vẫn giữ được chánh niệm, trọn chẳng có hiện tượng hôn mê, vướng mắc, xưng niệm A Di Đà Phật liên tiếp, nhắm mắt, an nhiên qua đời. Dựa theo kinh giáo, người mất như vậy có khá đầy đủ tướng lành sanh về Tây, cũng là do chuyện gì cũng đều tuân theo quy củ đã định, phần nhiều phù hợp với Tịnh Độ mà cảm vời ra.
Xét ra, ba vị cư sĩ này đều quy y dưới tòa của Ấn lão nhân, giữ lễ đệ tử, đối với cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh không ai chẳng đồng thanh tán dương, nhưng hết thảy hành vi của hai vị Bành - Tra phần nhiều lấy hai vị lão nhân (tức tổ Ấn Quang và ông Hứa Chỉ Tịnh) làm khuôn mẫu để phỏng theo; nếu có chỗ nào sức không kham nổi thì cũng tự biết hổ thẹn, chẳng dám buông lung, do vậy kết quả cũng chẳng thua kém cho mấy! Tào cư sĩ xưng tụng ngoài miệng, có thực hành, nhưng không có gì tới nơi tới chốn, chỉ tự mình hành động, phần nhiều gần như là làm quấy quá, chứ thật ít khi thực hiện thật sự! Hơn nữa, hoàn toàn chẳng có công khóa nhất định để lễ bái, trì tụng đúng pháp, lại còn thuận theo tâm hạnh của chính mình, nên mang tiếng là niệm Phật nhưng kết quả cũng hoàn toàn chẳng có ảnh hưởng gì! Đủ chứng tỏ Phật pháp quý nơi thật hành, chứ không phải chỉ nói xuông là có thể giải quyết xong việc. Công chẳng lãng phí, quả chẳng phí uổng. Sâm viết bài này để tự răn mà cũng để răn nhắc hết thảy những ai cùng bệnh vậy!
GHI CHÚ:
(7)
Tức cuộc Cách Mạng Tân Hợi (1911), xảy ra vào ngày 10 tháng 10 năm Tân Hợi, bắt đầu từ Vũ Xương, lật đổ nhà Thanh, lập ra Dân Quốc. Thoạt đầu, Tào Á Bá là một trong những lãnh tụ của nhóm thanh niên chủ trương cách mạng, canh tân Trung Hoa.
(8)
Tức Tôn Văn (tự Dật Tiên, hiệu Trung Sơn), quốc phụ của Trung Hoa Dân Quốc.