một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm
Đã gửi: 11/08/11 04:39
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy: "Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn. Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Ðà Hoàn ăn. Cho một trăm vị Tu Ðà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Ðà Hàm ăn. Cho một ngàn vạn vị Tư Ðà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn. Cho một ức vị A Na Hàm ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn. Cho mười ức vị A La Hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật). Cho một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn".
II. Ðại Ý
So sánh công đức bố thí nhiều hay ít tùy vào đối tuợng bố thí.
III. Giảng Nghĩa
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ:
Bích chi Phật: dịch âm tiếng Phạn Pratryka Buddha, Trung Hoa dịch là Ðộc Giác Phật hay là Duyên Giác Phật tức là người tu hành vào thời kỳ không có Phật pháp, không gặp Phật pháp, tự lực giác ngộ nhờ quán chiếu nguyên lý duyên sinh.
Tam thế chư Phật: chư Phật 3 đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Thường thì Ðức Phật Di Ðà tượng trưng cho Phật quá khứ, Ðức Phật Thích Ca tượng trưng cho Ðức Phật hiện tại và Ðức Phật Di Lặc tương trưng cho vị lai. Ở chương này muốn nói đến ứng hóa thân của chư Phật trong chúng sinh giới, cụ thể là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng: Ở đây muốn nói đến vị Phật thể tánh, sự thanh tịnh tuyệt đối của bản thể. Phật này là vô tướng Phật, pháp thân Phật.
2. Giải thích nội dung:
Chương 11 này nói về sự sai biệt của công đức bố thí tùy theo đối tượng bố thí. Ở trong A hàm và Nikàya có 2 kinh tương đồng với chương này đó là kinh Cù Ðàm Di số 180 (Trung a hàm) và kinh phân biệt cúng dường (Trung bộ kinh 3). Ðại ý như sau: Bà Mahapajapati Gotami dâng cúng Ðức Phật chiếc y do chính bà cắt may, Ðức Phật không nhận, khuyên bà nên cúng y ấy cho Tăng chúng công đức rất lớn. Sau đó ngài dạy về 14 đối tượng cá thể cúng dường được phước:
1. Bố thí cho bàng sinh được trăm phần công đức.
2. Bố thí cho phàm phu ác giới sẽ được ngàn phần công đức.
3. Bố thí cho người giữ (5) giới được trăm ngàn lần công đức.
4. Bố thí cho ngoại đạo ly dục được trăm ngàn ức công đức.
5. Bố thí cho vị đang hướng về quả Dự lưu được công đức vô lượng.
6. Bố thí cho vị đã chứng quả Dự lưu được công đức vô lượng.
7. Bố thí cho vị đang hướng về quả Nhất lai được công đức vô lượng.
8. Bố thí cho vị đã chứng quả Nhất lai được công đức vô lượng.
9. Bố thí cho vị đang hướng về quả Bất lai được công đức vô lượng.
10. Bố thí cho vị đã chứng quả Bất lai được công đức vô lượng.
11. Bố thí cho vị đang hướng về quả A La Hán được công đức vô lượng.
12. Bố thí cho vị đã chứng quả A La Hán được công đức vô lượng.
13. Bố thí cho vị Ðộc giác Phật được công đức vô lượng.
14. Bố thí cho vị Như Lai được công đức vô lượng.
Sau đó Ðức Phật dạy thêm 7 đối tượng tập thể nếu bố thí công đức cũng vô lượng.
1. Bố thí cho Phật và hai chúng Tăng Ni.
2. Bố thí cho chúng Tăng và Ni sau khi Phật qua đời.
3. Bố thí cho Tăng chúng.
4. Bố thí cho Ni chúng.
5. Bố thí cho vị Tăng Ni đại diện cho Tăng Ni chúng
6. Bố thí cho vị Tăng đại diện cho Tăng chúng
7. Bố thí cho vị Ni đại diện cho Ni chúng.
Như vậy so sánh giữa Kinh Tứ Thập Nhị Chương và A Hàm, Nikàya như sau:
1. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không đề cập đến bố thí cho hạng bàng sinh.
2. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có bố thí cho hạng tiên nhân, ngoại đạo ly dục. Ahàm và Nikàya đặt hạng người này chỉ thấp hơn Tu Ðà Hoàn.
3. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có 4 hạng Tu đà Hoàn hướng, Tư đà Hàm hướng, A na Hàm hướng, A La Hán hướng.
4. Kinh Tứ Thập Nhị Chương lại đưa thêm một vị được coi là cao hơn Phật là vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng, đây là tư tưởng thiền tông Ðại thừa sau này thêm vào.
5. Về số lượng, đối tượng, Kinh Tứ Thập Nhị Chương có 10; A Hàm và Nikàya có 14 - Ðặc biệt A hàm và Nikàya khi ngang mức Tu đà Hoàn trở lên không tính số công đức mà gọi chung là công đức vô lượng .
Trong toàn văn kinh phân biệt cúng dường và kinh Cù Ðàm Di, Ðức Phật dạy cho Mahapajapati Gotami gồm 14 đối tượng cá thể và 7 đối tượng tập thể, ngoài ra còn đề cập đến công đức bố thí hoàn hảo phải nhờ vào đối tượng bố thí và người bố thí đều thanh tịnh. Như vậy nội dung rất rõ và hợp lý.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương chỉ trích ngang một đoạn nên có vẻ khập khễnh. Chỉ chú trọng đối tượng bố thí mà không quan tâm đến người bố thí. Nếu người bố thí là kẻ trộm thì đồ vật ăn trộm đem bố thí công đức không thể lớn được.
Dựa trên cơ sở nào để so sánh bố thí cho đối tượng này ít hoặc nhiều công đức hơn đối tượng kia?
Ðối tượng bố thí có trình độ đạo đức càng cao thì công đức càng lớn bởi lẽ sự có mặt của một người thiện sẽ có tác dụng tích cực cho những người xung quanh, họ có thể đem lại bình an cho nhiều người. Vì vậy, bố thí cho họ không chỉ đem đến lợi ích cho cá nhân họ mà còn đem lại lợi ích cho số đông, cho nên công đức bố thí ấy lớn hơn công đức bố thí cho người bình thường.
Về mặt tâm lý, khi bố thí cho một người đạo đức Thánh thiện, sự Thánh thiện ấy tỏa ra từ đối tượng bố thí làm cho tâm lý người bố thí chuyển hóa mạnh mẽ, tạo ấn tượng sâu sắc làm cho tăng trưởng niềm tin, sự hoan hỷ phát sinh nên công đức người bố thí càng lớn.
IV. Nhận Xét Và Kết Luận
1) Chương này có xuất xứ trong Kinh Trung A Hàm và Trung Bộ Kinh (Kinh Cù Ðàm Di và Kinh Cúng Dường Phân Biệt).
2) Ðối tượng Tam thế Phật và vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng là được thêm vào sau này, nguyên bản cũ không có.
3) Bố thí cho người có trình độ, đạo đức và tâm linh càng cao thì công đức càng lớn. Bố thí là pháp môn tu tập của người Phật tử , qua đó làm cho tâm thức của mình được thanh thoát, xả ly.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
Thích Viên Giác dịch và giảng
Nguồn http://www.buddhanet.net
Ðức Phật dạy: "Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn. Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Ðà Hoàn ăn. Cho một trăm vị Tu Ðà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Ðà Hàm ăn. Cho một ngàn vạn vị Tư Ðà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn. Cho một ức vị A Na Hàm ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn. Cho mười ức vị A La Hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật). Cho một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn".
II. Ðại Ý
So sánh công đức bố thí nhiều hay ít tùy vào đối tuợng bố thí.
III. Giảng Nghĩa
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ:
Bích chi Phật: dịch âm tiếng Phạn Pratryka Buddha, Trung Hoa dịch là Ðộc Giác Phật hay là Duyên Giác Phật tức là người tu hành vào thời kỳ không có Phật pháp, không gặp Phật pháp, tự lực giác ngộ nhờ quán chiếu nguyên lý duyên sinh.
Tam thế chư Phật: chư Phật 3 đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Thường thì Ðức Phật Di Ðà tượng trưng cho Phật quá khứ, Ðức Phật Thích Ca tượng trưng cho Ðức Phật hiện tại và Ðức Phật Di Lặc tương trưng cho vị lai. Ở chương này muốn nói đến ứng hóa thân của chư Phật trong chúng sinh giới, cụ thể là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng: Ở đây muốn nói đến vị Phật thể tánh, sự thanh tịnh tuyệt đối của bản thể. Phật này là vô tướng Phật, pháp thân Phật.
2. Giải thích nội dung:
Chương 11 này nói về sự sai biệt của công đức bố thí tùy theo đối tượng bố thí. Ở trong A hàm và Nikàya có 2 kinh tương đồng với chương này đó là kinh Cù Ðàm Di số 180 (Trung a hàm) và kinh phân biệt cúng dường (Trung bộ kinh 3). Ðại ý như sau: Bà Mahapajapati Gotami dâng cúng Ðức Phật chiếc y do chính bà cắt may, Ðức Phật không nhận, khuyên bà nên cúng y ấy cho Tăng chúng công đức rất lớn. Sau đó ngài dạy về 14 đối tượng cá thể cúng dường được phước:
1. Bố thí cho bàng sinh được trăm phần công đức.
2. Bố thí cho phàm phu ác giới sẽ được ngàn phần công đức.
3. Bố thí cho người giữ (5) giới được trăm ngàn lần công đức.
4. Bố thí cho ngoại đạo ly dục được trăm ngàn ức công đức.
5. Bố thí cho vị đang hướng về quả Dự lưu được công đức vô lượng.
6. Bố thí cho vị đã chứng quả Dự lưu được công đức vô lượng.
7. Bố thí cho vị đang hướng về quả Nhất lai được công đức vô lượng.
8. Bố thí cho vị đã chứng quả Nhất lai được công đức vô lượng.
9. Bố thí cho vị đang hướng về quả Bất lai được công đức vô lượng.
10. Bố thí cho vị đã chứng quả Bất lai được công đức vô lượng.
11. Bố thí cho vị đang hướng về quả A La Hán được công đức vô lượng.
12. Bố thí cho vị đã chứng quả A La Hán được công đức vô lượng.
13. Bố thí cho vị Ðộc giác Phật được công đức vô lượng.
14. Bố thí cho vị Như Lai được công đức vô lượng.
Sau đó Ðức Phật dạy thêm 7 đối tượng tập thể nếu bố thí công đức cũng vô lượng.
1. Bố thí cho Phật và hai chúng Tăng Ni.
2. Bố thí cho chúng Tăng và Ni sau khi Phật qua đời.
3. Bố thí cho Tăng chúng.
4. Bố thí cho Ni chúng.
5. Bố thí cho vị Tăng Ni đại diện cho Tăng Ni chúng
6. Bố thí cho vị Tăng đại diện cho Tăng chúng
7. Bố thí cho vị Ni đại diện cho Ni chúng.
Như vậy so sánh giữa Kinh Tứ Thập Nhị Chương và A Hàm, Nikàya như sau:
1. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không đề cập đến bố thí cho hạng bàng sinh.
2. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có bố thí cho hạng tiên nhân, ngoại đạo ly dục. Ahàm và Nikàya đặt hạng người này chỉ thấp hơn Tu Ðà Hoàn.
3. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có 4 hạng Tu đà Hoàn hướng, Tư đà Hàm hướng, A na Hàm hướng, A La Hán hướng.
4. Kinh Tứ Thập Nhị Chương lại đưa thêm một vị được coi là cao hơn Phật là vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng, đây là tư tưởng thiền tông Ðại thừa sau này thêm vào.
5. Về số lượng, đối tượng, Kinh Tứ Thập Nhị Chương có 10; A Hàm và Nikàya có 14 - Ðặc biệt A hàm và Nikàya khi ngang mức Tu đà Hoàn trở lên không tính số công đức mà gọi chung là công đức vô lượng .
Trong toàn văn kinh phân biệt cúng dường và kinh Cù Ðàm Di, Ðức Phật dạy cho Mahapajapati Gotami gồm 14 đối tượng cá thể và 7 đối tượng tập thể, ngoài ra còn đề cập đến công đức bố thí hoàn hảo phải nhờ vào đối tượng bố thí và người bố thí đều thanh tịnh. Như vậy nội dung rất rõ và hợp lý.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương chỉ trích ngang một đoạn nên có vẻ khập khễnh. Chỉ chú trọng đối tượng bố thí mà không quan tâm đến người bố thí. Nếu người bố thí là kẻ trộm thì đồ vật ăn trộm đem bố thí công đức không thể lớn được.
Dựa trên cơ sở nào để so sánh bố thí cho đối tượng này ít hoặc nhiều công đức hơn đối tượng kia?
Ðối tượng bố thí có trình độ đạo đức càng cao thì công đức càng lớn bởi lẽ sự có mặt của một người thiện sẽ có tác dụng tích cực cho những người xung quanh, họ có thể đem lại bình an cho nhiều người. Vì vậy, bố thí cho họ không chỉ đem đến lợi ích cho cá nhân họ mà còn đem lại lợi ích cho số đông, cho nên công đức bố thí ấy lớn hơn công đức bố thí cho người bình thường.
Về mặt tâm lý, khi bố thí cho một người đạo đức Thánh thiện, sự Thánh thiện ấy tỏa ra từ đối tượng bố thí làm cho tâm lý người bố thí chuyển hóa mạnh mẽ, tạo ấn tượng sâu sắc làm cho tăng trưởng niềm tin, sự hoan hỷ phát sinh nên công đức người bố thí càng lớn.
IV. Nhận Xét Và Kết Luận
1) Chương này có xuất xứ trong Kinh Trung A Hàm và Trung Bộ Kinh (Kinh Cù Ðàm Di và Kinh Cúng Dường Phân Biệt).
2) Ðối tượng Tam thế Phật và vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng là được thêm vào sau này, nguyên bản cũ không có.
3) Bố thí cho người có trình độ, đạo đức và tâm linh càng cao thì công đức càng lớn. Bố thí là pháp môn tu tập của người Phật tử , qua đó làm cho tâm thức của mình được thanh thoát, xả ly.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
Thích Viên Giác dịch và giảng
Nguồn http://www.buddhanet.net