Giảng về TÁM BÀI KỆ CHUYỂN HÓA TÂM & PHÁT KHỞI BỒ ĐỀ TÂM
Tại Citi Wang Theater, Boston, ngày 30 tháng 10 năm 2014
Tỳ kheo Thích Tấn Hạnh dịch qua tiếng Việt.
Bài giảng được thâu hình và sẽ được lên mạng vào tháng 8 năm 2015
http://www.prajnaupadesa.net hoặc http://www.dalailatma.com
BÀI GIẢNG BUỔI SÁNG
Sau đó, tôi sẽ tụng hai phần tán thán riêng biệt. Một do ngài Di Lặc, Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (Matraya's Ornament of Clear Realization), là bài giải thích vô cùng quan trọng về Trí Tuệ Bát Nhã bao gồm những ý nghĩa tiềm ẩn được gọi là Bảy Mươi Khái Niệm. Bài luận của ngài Di Lặc chính là một khuôn khổ nền tảng để học hiểu Trí Tuệ Bát Nhã. Do đó tôi sẽ tụng tán thán bài này.
Kế là bài kệ tán thán của ngài Long Thọ, Căn Bản Trí Trung Quán Luận (Nagarjuna's Wisdom on the Middle Way). Ngài Long Thọ, trình bày minh bạch ý nghĩa về Bát Nhã Ba La Mật, giáo lý của Tánh Không trong những tác phẩm của ngài, đặc biệt là văn bản này.
Cám ơn. Các thiện nam, tín nữ, tôi rất lấy làm vinh hạnh có được cơ hội này và xin cám ơn đã gởi lời mời tôi thuyết pháp hôm nay. Và cái nón nay, rất là thực dụng! Nếu vị Tăng nào bị chói mắt, thì cũng có thể đội nón để bảo vệ mắt.
Trong cộng đồng người Việt, ở những quốc gia khác nhau có rất nhiều là người tỵ nạn giống người Tây Tạng. Tuy quý vị đã được định cư ổn định, quý vị vẫn bảo tồn nền văn hóa gồm truyền thống tâm linh và truyền thống Phật giáo. Người Việt có sự quyết tâm bảo tồn văn hóa. Điều này rất là quan trọng. Đời sống hiện nay ít hay nhiều, mang tính cách toàn cầu, nhưng những truyền thống văn hóa là một sự quý báu. Sự phát triển của một văn hóa được thành hình bởi một môi trường đặc biệt, trong đó quý vị có thể nhận biết đặc trưng của đời sống, phương cách sinh tồn và cách suy nghĩ.
Người Việt rất kiên cường như đã được thấy trong giai đoạn chiến tranh. Nhưng kiên cường nếu trở thành bạo động thì không còn tốt nữa. Kiên cường để bảo tồn những văn hóa tốt đẹp, bao gồm Phật pháp quy báu, là điều rất tốt. Việc bảo tồn Phật pháp không phải ở chỗ xây một ngôi chùa, đúc một tượng Phật, hay luôn ngồi yên lặng. Bảo tồn Phật pháp cho đúng đắn là phát tâm từ bi vô lượng, Bồ đề tâm kết hợp với Trí tuệ con người rất quý báu. Bản Tâm Kinh này diễn đạt những ý nghĩa mà chỉ con người mới có khả năng hiểu được.
Vì vậy, để bảo tồn Phật pháp đúng đắn nhất, Phật tử cần sự tu học. Để chuyển hóa những cảm thọ, ý thức, chúng ta cần có niềm tin vững chắc qua sự thiền quán, khảo nghiệm và thực chứng để được tự thuyết phục về chân lý.
Không chỉ nên theo truyền thống mà cần phải thấy rõ ý nghĩa, giá trị của Phật pháp. Khi đó, quý vị sẽ có sự hăng hái và niềm tin vững chắc. Đây chúng ta cần phải tu học, thiền quán, thực nghiệm.
Như đức Phật đã từng dạy: "Này các Phật tử, Tỳ kheo, học giả, chớ vội cả tin những điều ta dạy, bằng sự tín thành mà hãy qua sự khảo nghiệm và thực chứng. Sau khi đã được thuyết phục qua sự khảo nghiệm và thực chứng, lúc bấy giờ hãy chấp nhận".
Vì vậy, những vị đại sư của dòng Nalanda, như ngài Long Thọ và Nguyệt Xứng, đã thực sự theo lời dạy này của đức Phật và theo đường hướng đó.
Hiện nay chúng ta ở thế kỷ thứ hai mươi mốt, tôi cho rằng lòng vị tha vô hạn rất là cần thiết trong xã hội hiện nay. Thế giới hiện tại có quá nhiều bạo động, lừa đảo, hiếp đáp. Do đó rất nhiều truyền thống và tôn giáo đều mang thông điệp với tâm từ bi vị tha. Mục tiêu của Phật pháp là sử dụng trí thông minh của con người một cách tuyệt đối.
Phật tử theo truyền thống Bắc Phạn (Sanskrit) luôn nhấn mạnh vào việc khảo nghiệm. Sự liên hệ của chúng ta với những nhà khoa học rất có lợi ích. Các nhà khoa học cũng dùng phương cách khảo nghiệm, thí nghiệm. Do đó, tu học rất là quan trọng. Tôi luôn nói với Phật tử, chúng ta cần là người Phật tử của thế kỷ thứ hai mươi mốt, áp dụng sự khảo nghiệm và thực chứng.
Trong quá khứ, đôi khi chúng ta theo Phật pháp với một niềm tin mù quáng. Tuy chúng ta trì tụng: "Con xin quy y Phật. Con xin quy y Pháp. Con xin quy y Tăng" (Buddham Saranam Gacchami; Dhamman Saranam Gacchami. Sangham Saranam Gacchami), nhưng không hiểu rõ Phật là ai? Pháp là gì? Tăng là gì? Ở quá khứ, giáo dục cộng đồng rất là yếu, và mọi người có ý nghĩ đơn giản, vì vậy đành chấp nhận niềm tin mù quáng.
Nhưng thời đại bây giờ, mỗi nước, đều nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Giáo dục Phật pháp cũng quan trọng như vậy. Do đó tu học rất là quan trọng, điều này tôi luôn nhắc nhở. Dầu chúng ta tin hay chấp nhận đạo Phật hay không, điều này tùy thuộc từng cá nhân. Bất cứ tôn giáo nào, dầu là ta chấp nhận hay không đều tùy vào cá nhân, nhưng một khi đã chấp nhận thì đều cần phải nghiêm túc, đúng đắn với sự nhiệt tình và niềm tin pháp quyết trong vấn đề thực tập.
Tám Pháp Luyện Tâm là bài kệ với chủ yếu về tâm từ bi. Nhưng trước hết, tôi muốn nói vài điều liên quan đến Bát Nhã Tâm Kinh. Theo truyền thống thống Bắc Phạn (Sanskrit), đức Phật tích tụ trí tuệ và công đức trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp và cuối cùng đạt được giác ngộ qua thị hiện trong hóa thân chứng đạo Bồ đề. Sau đó Ngài đã chuyển pháp luân ba lần.
Lần chuyển Pháp đầu tiên, Ngài giảng về Tứ Diệu Đế. Pháp Tứ Diệu Đế vô cùng quan trọng, là nền tảng cho con đường Phật đạo đi đến giác ngộ. Nếu quý vị nhìn vào giáo lý Tứ Diệu Đế, tinh tùy chân chính được trình bày về luật Nhân quả.
Nếu quý vị tìm hiểu những tôn giáo ở Ấn Độ, trong đó có những truyền thống tin vào bậc sáng thế, họ giải thích sự hình thành thế giới qua pháp lực của đấng sáng thế. Ngược lại, có những tuyền thống không tin vào bậc sáng thế như là một nhánh của trường phái Số Luận (Samkhya), Kỳ Na (Jaism), cũng như Phật giáo đều không chấp nhận một đấng tạo hóa hay một đấng chủ tể bên ngoài nào đã sáng thế.
Theo những truyền thống tâm linh này, thì sự hình thành của thế giới là một quá trình tiến hóa, bao hàm toàn thể chúng sinh, ngay cả những kinh nghiệm đau khổ và hạnh phúc khác nhau cần được hiểu theo luật Nhân quả.
Tất cả những hiện hữu đều dưa trên lý Nhân duyên. Nguyên lý này được trình bày trong Tứ Diệu Đế. Khi học Tứ Diệu Đế, chúng ta sẽ thấy trong đó có:
- 1. Chân lý về Khổ (Sufering).
2. Chân lý về nguyên nhân của Khổ (Origin).
3. Chân lý của sự chấm dứt Khổ - Diệt Đế (Cessation).
4. Chân lý của con đường Đạo đưa đến sự chấm dứt Khổ - Đạo Đế (The Path).
Chân lý thứ hai giải thích nguyên nhân của sự khổ đau. Qua chân lý thứ ba, đức Phật trình bày khả năng tiêu thất của khổ, Diệt Đế. Diệt khổ không phải chỉ là niềm vui hay hạnh phúc thông thường, nhưng đúng hơn là một trạng thái vĩnh hàng, hạnh phúc miêm viễn, chỉ có thể đạt được qua việc hiểu thấu nhân duyên của nó. Chân lý thứ tư, Đạo Đế trình bày con đường đạt sự an lạc vĩnh hằng này.
Tóm lại, giáo lý Tứ Diệu Đế giải thích về lý nhân quả tương ưng với nhu cầu căn bản của chúng sanh đi tìm hạnh phúc và không muốn khổ đau. Lần chuyển pháp luân thứ nhất, đức Phật đặt nền tảng tổng quát cho đạo Phật qua Tứ Diệu Đế.
Giáo lý Tứ Diệu Đế được tôn trọng trong tất cả các truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, truyền thống Bắc Phạn (Sanskrit) thì nhấn mạnh đến cả ba lần đức Phật chuyển pháp luân. Qua sự trình bày và phân tích rõ ràng trong Giải Thâm Mật Kinh (Samdhinirmochana Sutra) chúng ta có thể thấy là đức Phật chuyển pháp luân lần đầu qua pháp Tứ Diệu Đế. Trong lần chuyển pháp luân thứ hai, tại đỉnh Linh Thứu, đức Phật đã giảng dạy về Bát Nhã Ba La Mật qua sự trình bày hoạt động và đặc tính của các pháp.
Và lần chuyển pháp luân thứ ba, đức Phật diễn đạt những phân biệt ý nghĩa rõ ràng hơn lần chuyển pháp luân thứ hai về Tánh Không của pháp. Trong đó, Ngài bao hàm cả Giải Thâm Mật Kinh (Samdhinirmochana Sutra). Đức Phật diễn giảng về giáo lý Tánh Không, Trí tuệ Ba la mật trong mối quan hệ với các hiện tượng tương duyên. Đây là một trong những bản văn chánh của lần chuyển pháp luân thứ ba. Ngoài ra, trong lần chuyển pháp luân thứ ba còn có những bản vản giảng về giáo lý Phật tánh, Như Lai Tạng (Tathagathagarbha).
Điểm chung của những kinh về Như Lai Tạng hay Phật tánh là ngoài sự trình bày về Tánh Không của mọi hiện tượng (Emptiness of self and phenomena), còn có sự trình bày về Phật tánh qua kinh nghiệm thực chứng. Chúng ta thấy có một bản thể thanh tịnh khách quan là Tánh Không, và một sự nhận biết trong sáng chủ quan là trí tuệ thực chứng về Tánh Không.
Trên phương diện này, lần chuyển pháp luân thứ ba chứa đựng hai thể loại kinh. Một là loại luận giảng (Sastra) và hai là bản thể nói về lý thuyết Phật tánh (Tathagathagarbha).
Bát Nhã Tâm Kinh thuộc về lần chuyển pháp luân thứ hai. Đây là một phần của hệ Kinh Bát Nhã Ba La Mật (Prajnaparamita Sutra). Có rất nhiều bản văn về Trí Tuệ Bát nhã: loại giảng rộng, loại trung bình và loại ngắn. Và ngay cả trong loại giảng rộng cũng có những bản văn khác nhau. Có thể là có vài bản cũng chưa được dịch sang tiếng Tạng.
Tâm Kinh là một trong những bản văn thuộc loại ngắn. Và kinh Kim Cang cũng là một bản kinh ngắn, thỉnh thoảng còn được gọi là bản kinh Bảy Trăm Câu. Tâm Kinh thỉnh thoảng cũng được biết đến với tên Bản Kinh Ngắn - Hai Mươi Lăm (25) câu. Bản kinh Bát Nhã ngắn nhất chỉ có một chữ, đó là AH. Và chữ AH trong tiếng Phạn đại biểu cho sự phủ định, nghĩa tối hậu là "Không" hay "Không phải".
Giáo lý Tánh Không, trong Bát Nhã Ba La Mật mở bày cho chúng ta thấy hiểu được mọi hiện tượng, dầu là hiện tượng bên ngoài như những hình thể vật chất, hoặc là cảm thọ bên trong như sự đau đớn và vui sướng, chỉ là hiện hữu huyễn ảo không có bản thể độc lập. Và thực tánh của chúng là không. Vì vậy ngay cả một chữ AH duy nhất vẫn được xem là một bản kinh trọn vẹn, bản kinh ngắn nhất.
Một trong điểm quan trọng khác Bát Nhã Tâm Kinh trình bày là phân tích sâu về lý duyên khởi để giúp chúng ta hiểu rõ hơn luật Nhân quả được hình thành như thế nào.
Khi chúng ta nói về luật Nhân quả, ở đây không có gì để tranh luận. Tất cả chúng ta qua kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày đều có thể nhận thức những khía cạnh và yếu tố tương quan giữa những việc xảy ra. Ngay cả những con thú cũng có một vài khả năng phân biệt sự liên hệ giữa những sự kiện với nhau.
Chúng ta đều biết kết quả chịu sự ảnh hưởng bởi nguyên nhân, nhưng nếu bạn đi sâu hơn, thì bạn sẽ nhận biết một sự tương duyên ngược lại. Như thế, quả chịu ảnh hưởng bởi nhân, nhân lại tùy thuộc nơi quả. Vậy bạn sẽ hiểu một cách trọn vẹn về tánh tương duyên và tương quan của hiện tượng thế giới. Không phải chúng ta chỉ nói về những vật thể được thành lập như thế nào qua kết quả của nhân duyên, mà là ngay bản chất của mọi hiện hữu đều nằm trong sự tương duyên và tương quan.
Những kinh thuộc hệ Bát Nhã, trình bày tất cả các pháp đều không có một hiện hữu độc lập.
Qua sự nhận thức một cách ngờ nghệch, chúng ta có thể chia thế giới thành nhân, quả và sự kiện. Đây cũng là một cách nhìn. Khi chúng ta nghĩ về nhân và quả của một sự kiện, chúng ta có khuynh hướng cho rằng sự kiện khác biệt với nhân và quả. Khi chúng ta nói về quả, chúng ta thấy như là chúng có một nền tảng khách quan tạo thành một loại quả. Giống như vậy, khi chúng ta nghĩ về một nhân, chúng ta tưởng tượng có một nền tảng khách quan và cái đó làm nhân. Khi chúng ta xác định về những sự kiện. Chúng ta cũng làm như chúng là những hiện hữu độc lập, tự thể, như là có một sự kiện cố định.
Nói chung, nếu chúng ta nghĩ về những sự kiện, nhân và quả, chúng ta phóng tưởng sự tương quan tạm thời giữa chúng ta với thế giới. Bởi khi chúng ta nói "bản thể sự kiện" chúng ta nghĩ đến một hiện hữu có thật.
Khi chúng ta nghĩ về nhân quả sự kiện, chúng ta nghĩ đến những gì thuộc về quá khứ. Khi chúng ta nghĩ về quả của sự kiện, chúng ta tạo một huyễn ảnh về tương lai.
Bây giờ nếu chúng ta phân tích những giai đoạn tạm thời này, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Chúng ta không thể tìm thấy hiện tại một cách khách quan. Bởi vì, theo thời gian, hiện tại đang lùi vào quá khứ và liên quan tới tương lai.
Chúng ta có khuynh hướng nhận thức một cách ngờ nghệch cho rằng, tất cả những hiện hữu này đều có nền tảng khách quan. Nhưng trên thực tế chúng đều lệ thuộc vào nhau qua sự tương duyên và tương quan. Không có một nền tảng khách quan thực sự nào cả. Đây chính là những gì mà giáo lý Bát Nhã muốn nói để mở bày những vấn đề trong sự nhận thức về hiện tượng giới của đời sống hàng ngày cho chúng ta.
Và câu hỏi có thể đặt ra bây giờ là:
- - Tại sao chúng ta cần phải quan tâm?
- Cụ thể cái gì?
- Tại sao cần phải lặn sâu vào sự hiểu biết về Tánh Không này, về bản thể sâu sắc của hiện tượng?
Thực chất của giáo lý Tánh Không là để đạt được sự hiểu biết về nguyên nhân của khổ trong Tứ Diệu Đế, về nghiệp và phiền não.
Gốc rễ của phiền não là vô minh. Vô minh liên quan đến bản chất của hiện hữu. Có hai loại vô minh. Một là vì thiếu hiểu biết. Hai là vì sự nhận thức sai lầm về các Pháp.
Giáo lý Tánh Không nhắm vào vô minh để tìm cách phá tan và diệt trừ điểm vô minh này. Một trong những điểm trọng yếu của Phật giáo là thiền quán về Trí Tuệ Vô Ngã. Đức Phật đã trình bày những điều này trong lần chuyển pháp luân đầu tiên, khi ngài giảng về Tứ Diệu Đế.
Chân lý thứ nhất về khổ trong Tứ Diệu Đế có bốn phần: vô thường, khổ, tánh không và vô ngã. Vô ngã là một trong những khía cạnh quan trọng trong giáo lý của đức Phật. Ta có thể nói, giáo lý Tánh Không và giáo lý Vô ngã là những đặc điểm tiêu biểu độc đáo của đạo Phật.
Nếu chúng ta nhìn truyền thống cổ Ấn Độ, ngoài đạo Phật, những truyền thống khác kể cả đạo Kỳ Na (Jainism), đều mang bóng dáng của một khái niệm hiện hữu miên viễn (eternalism) là ngã hay linh hồn (atman). Họ cho rằng linh hồn của người tạo nghiệp sẽ nhận hậu quả mà nghiệp đó mang lại. Và có một ngã hay linh hồn vĩnh viễn tồn tại tạo ra sự liên hệ người tạo nghiệp và người nhận nghiệp quả. Đạo Phật thì không chấp nhận một tồn tại vĩnh hằng gọi là linh hồn, thay vì đó, dạy về giáo lý Vô ngã.
Tóm lại, điều chính mà chúng ta tìm thấy trong giáo lý Bát Nhã là giảng giải chi tiết về thuyết Duyên khởi và Tánh Không. Ví dụ, khi chúng ta nhìn Tâm Kinh, bản kinh này chứa đầy các phủ định "Không mắt, không mũi",... Trọng điểm là phá bỏ sự nhận thức kiên cố sai lầm trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Bản kinh không nói là những sự kiện này hoàn toàn không có mặt. Bản kinh không đề xuất một khái niệm không ngơ (nihilism) để phủ nhận tất cả.