Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú
Đã gửi: 15/02/16 14:46
225. TÍCH CHUYỆN CÁC TỲ KHEO TĂNG THƯỢNG MẠN
Vào một thời kia, đức Phật ngụ nơi rừng Đại Lâm, xứ Tỳ Da Ly, trong kỳ một giảng pháp, có đề cập đến một nhóm tỳ kheo tăng thượng mạn.Thuở ấy, xứ Hoa Di đang bị đói kém, thực phẩm khan hiếm, dân chúng phải chịu đói khổ. Có một nhóm tỳ kheo đến bên bờ sông Lạc Thủy, sống qua mùa an cư kiết hạ ở xứ đó. Họ bàn luận cùng nhau làm cách nào để được dân chúng cúng dường thực phẩm đầy đủ. Họ kháo lên rằng trong nhóm có người nầy đã chứng được Đạo, người kia đã đắc được Quả, vị nọ thường vào Thiền định. Mỗi khi có dân chúng đến viếng, họ thưa gọi nhau bằng các quả vị, xưng tụng đạo hạnh lẫn nhau, khiến cho dân chúng lầm tin là họ đã thật sự chứng đắc, nên bớt phần thực phẩm trong nhà, đem dâng cúng dồi dào cho họ.
Mãn mùa an cư, chư Tăng quay về tịnh xá để đảnh lễ đức Phật. Ngài thăm hỏi chư tỳ kheo, đã trải qua mùa hè ra sao, tu tập như thế nào. Hầu hết các vị tu sĩ đều xanh xao vì thiếu ăn trong ba tháng; chỉ riêng có nhóm tỳ kheo sống bên bờ sông Lạc Thủy xem ra hồng hào, lại có phần mập mạp ra. Đức Phật hỏi họ: "Xứ Hoa Di đang đói kém, chư Tăng ở bên sông Lạc Thủy có gặp khó khăn trong việc ăn uống không?" Họ thưa, không. Đức Phật gạn hỏi lý do, họ liền thưa lại việc họ gọi nhau bằng các quả vị, nên được dân chúng tin tưởng cúng dường đầy đủ. Đức Phật hỏi lại: "Trong số các ông đây, ai đã thật sự chứng được Đạo, Quả?" Chẳng ai đáp có. Đức Phật liền quở trách họ: "Chưa chứng đắc mà bảo là đã chứng đắc, đó là tăng thượng mạn, tỳ kheo phải dẹp bỏ lòng ngã mạn mới chứng được Đạo, Quả".
Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
- Thà nuốt hòn sắt đỏ lửa hồng,
Hơn ăn vật thực được cúng dường,
Nếu chưa giữ được tròn giới hạnh:
Nghĩ, nói, làm, xấu cả ba đường.
(Kệ số 308)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
- Tăng thượng mạn: Tăng = gia tăng, thêm; Thượng = trên; Mạn = kiêu căng, quá tự cao. Tăng thượng mạn là nết xấu hay khoe khoang, của kẻ tu hành, chưa chứng đắc quả vị mà tự nhận đã chứng đắc.A. NGHĨA CHỮ:
- Rừng Đại Lâm, xứ Tỳ Da Ly: Khu rừng lớn, tiếng Pali là Mahāvana trong xứ Vesāli, miền Bắc của Ấn Độ xưa.
- Xứ Hoa Di, sông Lạc Thủy: Phiên âm và dịch gượng hai địa danh nầy; tiếng Pali là xứ Vaggis, sông Vaggumudā (= khả ái và an vui).
- An cư kiết hạ: An cư = ở yên; kiết hạ = qua mùa hè. An cư kiết hạ: ở Ấn Độ mùa hè, mưa dầm, côn trùng sinh sản nhiều, tỳ kheo chẳng đi ra ngoài để khất thực, ngại đạp chết côn trùng, lưu lại tịnh xá lo tu tập, sống nhờ sự cúng dường của các tín đồ. Cứ mỗi mùa an cư như thế, người tu tăng thêm một tuổi đạo, được gọi là lạp tuế.
- Đạo, Quả: Đạo = đường, đường lối, cách thức tu hành; Quả = kết quả việc tu hành đã thành công. Có bốn Đạo: Tu đà hườn hướng, Tư đà hàm hướng, A na hàm hướng, A la hán hướng và bốn Quả là Tu đà hườn quả, Tư đà hàm quả, A na hàm quả và A la hán quả.
- Thiền định: tu Thiền và đắc định; khi ngồi Thiền, tâm an định.
- Ngã mạn: Tự cao, phách lối, coi cái Ngã (= Ta) của mình là hơn hết.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:Tích chuyện thuật lại mưu mô của các tỳ kheo tăng thượng mạn, gọi nhau bằng các quả vị còn chưa xứng vì họ chưa chứng được, với mục đích là để dân chúng lầm họ đã đắc đạo mà cúng dường nhiều. Họ bị đức Phật quở về tội tăng thượng mạn đó.
(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 308:
Bài Kệ khuyên các vị tu hành phải tự xét đức hạnh của mình có đầy đủ mới dám nhận lễ vật cúng dường của các tín đồ hiến tặng.
- a. Hai câu đầu: Thà chịu đói khát chớ chẳng lạm nhận của cúng dường. Tại sao? Vì người đi tu mà lạm nhận, sẽ bị sa vào điạ ngục, để phải nuốt hòn sắt nóng đỏ.
b. Hai câu chót nhắc nhở đến ba nghiệp: thân, miệng, ý có trong sạch, thì giới đức mới được tròn vẹn.