189. TÍCH CHUYỆN VỊ TỲ KHEO GANH TỴ
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến thái độ ganh tị của một vị tỳ kheo trẻ tuổi tên là Thi Sa.Thuở ấy có một tỳ kheo trẻ tuổi tên là Thi Sa, tánh hay ganh tị, thường chê bai sự bố thí cúng dường của người khác. Thậm chí, Thi Sa cũng chẳng hề khen ngợi công đức của hai vị đại thí chủ nổi tiếng đương thời là cư sĩ Cấp Cô Độc và nữ cư sĩ Vi Sa Kha. Hơn nữa, Thi Sa lại thường khoe khoang, tự hào rằng gia đình mình rất giàu có, tiền bạc nhiều như nước trong giếng, ai muốn đến xin, cứ việc múc lấy mà dùng.
Nghe lời khoác lác nầy, các vị tỳ kheo khác rất nghi ngờ mới tìm về làng của Thi Sa; họ khám phá ra rằng, nhà cửa của Thi Sa rất là bần cùng, các thân nhơn họ hàng của Thi Sa bữa đói, bữa no. Các vị tỳ kheo mới trình lên đức Phật sự việc đó. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ kheo, tu sĩ nào chẳng hoan hỉ khi thấy các vị tỳ kheo khác nhận được sự cúng dường, và tỏ lòng ganh tị, thì chẳng bao giờ chứng đắc được Đạo và Quả cả".
Rồi đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
- Do niềm tin và tâm hoan hỉ,
Con người mới sanh lòng bố thí.
Thấy người khác nhận được cúng dường
Đồ ăn, thức uống, mà đố kỵ,
Cả ngày lẫn đêm, kẻ ganh tị
Chẳng thể nào đắc được định tâm.
(Kệ số 249)
Ai cắt được ganh tị trong lòng,
Bứng tận rễ và dẹp bỏ xong,
Định tâm người ấy thường chứng được
Đêm cũng như ngày, nếu ra công.
(Kệ số 250)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
- Ganh tị: Đố kỵ, ghen ghét, cà nanh, đòi cho hơn kẻ khác.A. NGHĨA CHỮ:
- Đại-thí-chủ: Đại = lớn; Thí-chủ = người bố thí, còn gọi là thí giả.
- Cư sĩ: Cư = ở; ở tại nhà; Sĩ = người. Cư sĩ là người tu tại gia.
- Cấp Cô Độc: Tên của vị cư sĩ xây cất chùa Kỳ Viên, tiếng Pali là Anāthapindika.
- Vi Sa Kha: Tên của vị nữ cư sĩ xây cất nữ tu viện Đông viên (Pubbārāma), ở phía Đông chùa Kỳ Viên, tiếng Pali là Visakha.
- Đạo, Quả: Đạo = con đường, đường lối tu hành (Pali: Magga); Quả = kết quả, sự tu hành đã thành-công tốt đẹp (Pali: Phala). Danh từ chuyên môn trong Bắc tông, gọi là hướng và quả, như Tu đà hườn hướng và Tu đà hườn quả.
- Định tâm: Định = đứng yên lại, chẳng xao động; Tâm = lòng. Đắc được định tâm là ngồi Thiền, tâm vắng lặng, chuyên chú vào một đề mục duy nhứt, chẳng hề xao lãng.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:Tích chuyện rất giản dị, kể lại tánh xấu hay ganh tị của một vị tỳ kheo. Đức Phật dạy, kẻ nào biết diệt lòng ganh tị, hoan hỉ khi thấy người khác được cúng dường, thì khi ngồi Thiền sẽ sớm đắc định tâm.
(2) Ý nghĩa hai bài Kệ số 249 và 250:
- a. Hai câu đầu của bài Kệ số 249: Do đâu mà sanh lòng bố thí? Do niềm tin vào phước báo, và lòng hoan hỉ, vui mừng thấy người nhận của bố thí được vui. Thấy người vui mà vui theo gọi là tùy hỉ.
b. Bốn câu sau của bài Kệ số 249: Vì trong tâm sanh ra ganh tị, cú lo ganh ghét mãi, nên ngồi Thiền chẳng đắc được định tâm.
c. Hai câu đầu của bài Kệ số 250: Phải bứng tận gốc rễ lòng ganh tị. Gốc rễ đó ở đâu? Chính ngay trong tâm mình, nên dẹp bỏ đi.
d. Hai câu chót của bài Kệ số 250: Tại sao đắc được định tâm? Vì nếu ra công dọn dẹp cõi lòng cho trong sạch, thì tâm định ngay.