II. PHẨM: CHẲNG PHÓNG DẬT
15. TÍCH CHUYỆN HOÀNG HẬU SA MÃ HOA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ ở tu viện Cô Si Ta, gần thành Cô Sâm Bi, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến Hoàng hậu Sa Mã Hoa, chánh cung của vua Ư Đề Na, nước Cô Sâm Bi.
Hoàng hậu Sa Mã Hoa có năm trăm cung nữ, trong số đó có bà Khưu Du hằng ngày đến tiệm bán hoa của Sử Ma Na mua bông về trang hoàng cung của Hoàng hậu. Trong dịp đến tiệm bán hoa, bà Khưu Du được nghe đức Phật thuyết pháp ở đó và bà chứng đắc được quả vị Tu đà huờn. Khi trở về hoàng cung, bà Khưu Du nhắc lại bài pháp cho Hoàng hậu và các cung nữ nghe và nhờ đó mà tất cả đều chứng đắc được quả vị Tu đà huờn. Kể từ đãy, bà Khưu Du được Hoàng hậu kính trọng như mẹ và thầy dạy đạo. Bà Khưu Du khỏi phải làm công việc tạp dịch nữa và tiếp tục đi nghe đức Phật giảng pháp về chỉ dạy lại cho Hoàng hậu và các cung nữ. Chẳng bao lâu, bà Khưu Du đã thông thạo về Tam Tạng Kinh điển.
Hoàng hậu Sa Mã Hoa và các cung nữ rất mong muốn được trông thấy đức Phật để đảnh lễ, nhưng họ sợ vua Ưu Đề Na tức giận, nên chỉ dám khoét một lỗ hổng trên bức tường ở hoàng cung để lén nhìn ra ngoài, nom theo đức Phật hằng ngày đến nhà các cư sĩ Cô Sa Ka, Cúc Khưu Ta và Pha Hoa Di để khất thực.
Vào thời ấy, vua Ưu Đề Na còn có một vị vương phi tên là Mã Can Di Hoa, vốn là người con gái yêu của một vị Bà la môn tên là Mã Can Di. Một hôm, Mã Can Di trông thấy đức Phật với tướng mạo trang nghiêm, đẹp đẽ, ôm bình bát đi khất thực, ông Mã liền gọi vợ và con ra xem, và muốn gả con cho đức Phật vì, theo ông, chỉ có người oai nghi như đức Phật mới xứng với vẻ đẹp tuyệt trần của cô Mã Can Di Hoa. Nhưng dức Phật từ chối: "Ngay cả khi thấy ba người con gái của Ma Vương là các cô Tham Ái, Ác Cảm, và Dục Vọng, nhan sắc xinh đẹp hơn nhiều, ta còn chẳng cảm thấy một chút nào lòng dục khởi lên nữa. Dầu sao, đối với tấm thân đầy chất bẩn và nước tiểu kia, ta cũng chẳng muốn để chơn ta đụng phải".
Khi nghe đức Phật nói như thế, hai vợ chồng vị Bà la môn Mã Can Di liền chứng đắc được đạo quả A Na Hàm. Họ liền giao con gái cho người em trai và xin gia nhập vào Giáo hội Tăng già. Tuy nhiên, cô Mã Can Di Hoa lúc ấy rất căm hận đức Phật và thề rằng sẽ trả thù, khi có dịp. Về sau, cô Mã Can Di Hoa được người chú đem dâng cho Vua Ưu Đề Na và được tuyển làm vương phi. Khi Mã Can Di Hoa hay tin đức Phật đến xứ Cô Sâm Bi và Hoàng hậu Sa Mã Hoa cùng các cung nữ khoét vách tường để dòm ra ngoài, bà Mã liền tố cáo với Vua, bảo rằng Hoàng hậu và các cung nữ chẳng trung thành với Vua và có sự giao du với bên ngoài. Vua Ưu Đề Na đến cung Hoàng hậu, nhìn thấy lỗ hổng trên tường, nhưng khi nghe trình bày sự thật, nhà vua hết nghi nan và chẳng tức giận.
Bà Mã Can Di Hoa vẫn còn căm tức nên tìm cách thuyết phục Vua rằng Hoàng hậu Sa Mã Hoa chẳng những chẳng trung thành với Vua mà còn âm mưu giết vua nữa. Được biết trước Vua sẽ ngự đến cung Hoàng hậu, bà vương phi Mã liền bắt một con rắn nhỏ thật độc, đem dấu vào trong cái bầu của cây đờn tì bà, mà vua thường thích đờn, rồi lấy một bó hoa chận phía ngoài cho rắn chẳng bò ra được. Bà liền tâu với Vua là bà có linh cảm rằng có người sẽ ám hại vua, xin vua đừng đến cung Hoàng hậu. Nhưng nhà vua chẳng nghe, bà Mã liền xin tháp tùng, nói là để bảo vệ Vua khi cần.
Đến cung Hoàng hậu, sau khi dự tiệc, Vua sai mang đờn ra để ngài tấu nhạc. Bà Mã liền rút bó hoa ra khỏi cây đờn và đem dưng cho Vua. Con rắn thoát khỏi chỗ bị giam, liền chui ra, rít lên, bò đến bên Vua. Nhà vua tức giận, bấy giờ tin lời bà Mã là Hoàng hậu Sa Mã Hoa muốn giết vua. Ngài liền bắt Hoàng hậu và các cung nữ đứng giàn hàng, rồi giương cây cung, đặt tên có tẩm thuốc độc, nhắm bắn. Lúc ấy, Hoàng hậu trầm tĩnh bảo các cung nữ đừng sợ hãi và cũng đừng oán giận vua, mà phải nhiệt tâm rải tâm Từ đến Vua và vương phi. Khi mũi tên độc của Vua bay về phía các cung nữ thì lạ thay, nó lại quay ngược trở về, rơi xuống đất. Nhà Vua tỉnh ngộ mới biết Hoàng hậu trong trắng và vô tội. Kể từ đó, Vua cho phép Hoàng hậu được thỉnh đức Phật vào hoàng cung để cúng dường thực phẩm và nghe thuyết pháp.
Nhận thấy các âm mưu để hại Hoàng hậu chẳng thành công, bà vương phi Mã Can Di Hoa mới nghĩ đến một kế hoạch chót. Bà cho người về nhờ chú bà thuê người đến đốt cung Hoàng hậu. Khi hay tin có hỏa tai, nhà Vua đến cung Hoàng hậu, nhưng chậm mất rồi, vì Hoàng hậu và các cung nữ đang nhập vào thiền định dưới ngọn lửa hồng đang bùng cháy. Bấy giờ, phần lớn các cung nữ đều chứng đắc quả vị Tu đà huờn, một số ít chứng được quả A na hàm.
Khi ngọn lửa đã tàn, nhà Vua chẳng để lộ vẻ tức giận, mà nói rằng: "Khi Sa Mã Hoa còn sống, ta vẫn luôn luôn lo ngại bà ta ám hại, nay bà ta đã chết rồi, ta mới yên tâm. Kẻ nào đã đốt cháy cung nầy mới thật là kẻ yêu ta, muốn bảo vệ ta đó". Bãy giờ, bà Mã Can Di Hoa liền tâu rằng chính bà đã thuê người đốt. Nhà vua cười khen bà Mã và ra lịnh mời tất cả thân nhơn của bà đến cung Vua để dự tiệc khen thưởng. Họ vui mà đến, đông đủ cả. Nhà Vua liền ra lịnh bắt tất cả, dĩ nhiên cả Vương phi Mã Can Di Hoa cũng ở trong số đó, đem ra sân thiêu sống.
Khi đức Phật nghe được các biến cố đó, ngài liền đọc lên ba bài Kệ sau đây cho chúng Tăng nghe:
- Tỉnh giác là con đường Bất tử
Buông lung là nẻo dữ Tử sanh.
Sống theo tỉnh giác, tâm lành
Hơn người phóng dật đã thành chửa chôn.
(Kệ số 021)
Đã thông hiểu chỗ hơn kém đó
Bực trí cao chẳng có buông lung;
Chí thành tỉnh giác một lòng
An vui cõi Thánh, ung dung thanh nhàn.
(Kệ số 022)
Bực trí giả hằng tu thiền định
Nỗ lực tinh cần tỉnh giác luôn.
Vô thượng Niết bàn liền chứng đắc;
Gông cùm, xiềng xích đều đập tan.
(Kệ số 023)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
Các tên được Việt hóa cho dễ đọc:
- Tiếng Việt = Tiếng Pali:
- Cô Si Ta: Ghosita.
- Sa Mã Hoa: Sāmāvati.
- Ưu Đề Na: Udena.
- Khưu Du: Khujjuttarā.
- Sử Ma Na: Sumana.
- Cô Sa Ka: Ghosaka.
- Cúc Khưu Ta: Kukkuta.
- Pha Hoa Di: Pāvāriya.
- Mã Can Di: Māgandiya.
- Mã Can Di Hoa: Māgandiyā.
-
Chánh cung: Người vợ chánh của vua; hoàng hậu.
-
Cung nữ: Cô gái phục vụ trong hoàng cung.
-
Tạp dịch: Tạp = lặt vặt; dịch = công việc. Tạp dịch là làm các công việc lặt vặt trong nhà.
-
Vương phi: Vương = vua; phi = vợ; vợ thứ. Theo phong tục đa thê (= có nhiều vợ), ngoài Hoàng hậu ra, Vua còn có nhiều vợ khác, gọi là vương phi.
-
Căm hận: Thù ghét.
-
Tố cáo: Kể rõ tội trạng của một người với kẻ khác.
-
Giao du: Giao = giao thiệp, kết bạn; du = chơi bời với nhau.
-
Nghi nan: Nghi ngờ.
-
Trung trinh: Trung = trung thành; trinh = trinh tiết. Giữ lòng trung thành với chồng.
-
Đờn tì bà: Một loại đờn giây, trông tựa như vĩ cầm ngày nay.
-
Linh cảm: Linh = linh thiêng, huyền bí; cảm = cảm giác. Linh cảm là tự nhiên có ý nghĩ biết trước về một việc sắp xảy ra.
-
Ám hại: Ám = đen tối; hại = nguy hại. Ám hại là hại ngầm.
-
Rải tâm Từ: Tức là trong tâm chỉ nghĩ đến sự Từ bi, và mong muốn tấm lòng Từ bi của mình sẽ chuyển động được tâm người mình đang nghĩ đến.
-
Tỉnh ngộ: Liền biết mình đã nghĩ lầm.
-
Kế hoạch: Mưu kế dự định sẽ làm.
-
Hỏa tai: Hỏa = lửa; tai = tai nạn. Bị lửa cháy thiêu.
-
Thân nhơn: thân = thân tình, bà con; nhơn = người.
-
Biến cố: Việc quan trọng đã xãy ra.
-
Tỉnh giác: Tỉnh = chẳng còn mê; giác = biết. Người tỉnh giác là người sáng suốt, làm gì cũng biết mình đang làm gì, luôn chú ý đến hành động và mọi biến chuyển trong tâm của mình.
-
Bất tử: Bất = chẳng; tử = chết. Vì sao tỉnh giác là con đường Bất tử? Vì khi tỉnh giác, biết mình đang sống, làm gì, nghĩ gì cũng biết, khác với người mê tuy còn thở nhưng như chết rồi vì mình chẳng biết mình đang làm gì, đang nghĩ gì.
-
Buông lung: Buông trôi, chẳng có sự tự kềm chế lấy mình. Cùng nghĩa với chữ Phóng dật.
-
Phóng dật: Phóng = buông trôi; dật = nghỉ ngơi. Cùng một nghĩa với các chữ: buông lung, lười biếng, cẩu-thả.
-
Chửa chôn: Còn sống đó, nhưng vật vờ, vất vưởng như người chết chưa chôn, vậy thôi.
-
Ung dung: Thong thả, tự do, chẳng bị ràng buộc.
-
Vô thượng: Vô = chẳng có; thượng = trên. Vô thượng là chẳng còn gì ở trên đó nữa; cao nhứt.
-
Niết Bàn: Tiếng Pali là Nirvana, có nghĩa là ra khỏi rừng u tối, tức là rừng phiền não. Chữ Niết bàn chỉ tâm trạng của người đã dứt sạch hết các phiền não, sống ung dung, tự tại. Đừng tưởng lầm Niết bàn là một nơi chốn nào trong không gian mà người tu hành đắc đạo đến đó ở cho thật sung sướng. Đó chỉ là cảnh giới của tâm người đã dứt hết các điều ham muốn, sống an nhiên trong niềm vui thanh tịnh, nhẹ nhàng.
Có hai cảnh Niết bàn: khi còn sống thì vào Hữu dư Niết bàn; đến khi bỏ thân xác thì vào Vô dư Niết bàn (dư = dư y, tức là tấm thân thể xác). Các bực chứng quả vị A la hán, đắc được Vô sanh (= chẳng còn phải tái sanh trong cõi Luân hồi), gọi là chứng đắc Niết bàn.
-
Tham ái, Ác cảm, Dục vọng: Tên của ba cô gái đẹp của Ma vương. Tham ái = khao khát; Ác cảm = có ý ác, ghét; Dục vọng = lòng ham muốn. Cả ba đều chỉ đến sự cám dỗ.
-
A na hàm: Quả vị thứ ba trong hàng Thanh văn, chẳng còn phải sanh lại ở cõi người nữa, nên được gọi là Bất Lai. Tiếng Pali là Anāgāmi.
B. NGHĨA Ý:
(1)
Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện đưa ra hai mẫu người: một người hiền từ biết tu tập theo Chánh pháp, biết lấy ơn ra trả oán; và một người buông lung theo lòng oán hận, gây ra nhiều tội ác. Mẩu người trước là Hoàng hậu Sa Mã Hoa; mẩu người sau là bà Vương phi Mã Can Di Hoa. Tích chuyện cho thấy: đã làm ác, tất phải chịu lấy hậu quả xấu, ngay trong đời nầy.
Ngoài ý nghĩa chánh vừa nêu trên, ta còn tìm thấy những ý nghĩa khác sau đây:
- a. Cùng một lời nói của Phật về tấm thân bất tịnh, hai ông bà Mã Can Di và cô gái Mã Can Di Hoa có phản ứng khác nhau:
- Ông bà Mã Can Di biết rõ bên trong tấm thân của con người chứa những thứ bất tịnh như nước tiểu, máu mủ, v.v... nên khi nghe xong lời Phật, hai vợ chồng mới chứng được thánh quả.
- Cô Mã Can Di Hoa vì tự ái, nghe Phật nói thế, liền căm giận; sự si mê nầy cộng với tâm thù oán khiến cô đi sâu vào con đường tà ác.
- Phép quán thân bất tịnh giúp ta nhận thấy rõ, thân bề ngoài có đẹp đẽ vì trau chuốt, còn bên trong chứa đầy chất dơ bẩn. Đó là Sự thật. Một khi đã biết rõ như thế, sẽ sanh ra nhàm chán việc đuổi theo các thú vui thể xác, nhờ đó mà dứt được các dục vọng, tiến đến sự giải thoát cho tâm thoát khỏi mọi sự ràng buộc.
- b. Vua Ưu Đề Na là người biết nhận lỗi khi mình làm quấy:
Khi mũi tên quay ngược lại chẳng hại bàHoàng hậu, nhà vua liền biết ngay là bà vô tội. Trước đó, thái độ trầm tĩnh của Hoàng hậu dặn bảo các cung nữ chẳng những chẳng đưọc oán hận Vua, mà còn phải rãi tâm Từ đến Vua và vương phi. Lẽ ra, đứng trước thái độ đó, nhà Vua phải cảm động mà dừng tay, nhưng vì lòng tức giận đang nổi mạnh lên đã che mời lý trí của nhà vua. Nhà Vua đã tỏ ra sáng suốt khi chăng cái bẫy ra để bắt kẻ thủ phạm chủ mưu đốt chết Hoàng hậu; tuy nhiên khi trừng trị luôn tất cả thân nhơn của bà Mã Can Di Hoa, thì cũng tàn ác quá!
Lòng Từ là lòng thương người, muốn cho người được an vui. Rải tâm Từ là trong tâm an định phát ra những tư tưởng tốt đẹp hướng về người mà mình muốn cho nhận được các làn sóng tư tưởng đó. Có hai điều cần trong việc rải tâm Từ:
- (a) Tâm phải ở trong tình trạng an định, nghĩa là lúc đó chỉ nghĩ đến lòng Từ mà thôi.
(b) Tâm phải chơn thành và khẩn thiết, thật sự mong muốn cho người mình đang hướng về được mọi sự an lành.
Rải tâm Từ đến những người thân yêu thì dễ hơn rải đến người thù nghịch. Người biết đem lòng Từ đối đãi với kẻ nghịch là người đã thắng hoàn toàn được món độc: sân (= giận hờn).
(2)
Ý nghĩa của ba bài Kệ:
So sánh giữa hai lối sống: buông lung (= phóng dật) và tỉnh giác. Sống buông lung là chẳng biết tự kềm chế, hoặc để cho tham, cho sân, lôi kéo mình đi. Chúng lôi kéo vào nẻo dữ. Còn sống tỉnh giác, biết kềm chế tâm, biết rõ mọi biến chuyển của tâm, khi tham, biết tham là xấu; khi sân, biết giận thì mất khôn. Người tỉnh giác như thế tiến theo con đường lành, sẽ chứng đắc các đạo quả, thoát vòng sanh tử Luân hồi.
Nêu lên ích lợi mà người tỉnh giác được hưởng: sống an vui trong cõi Thánh, tức là được giải thoát mọi ràng buộc, ung dung, thanh nhàn, chẳng phiền muộn; trái hẳn với người buông lung sống như người chết chưa chôn.
Nhờ Thiền định mà tâm thường tỉnh giác. Nếu biết tu tập thiền định một cách tinh cần, sẽ chứng đắc được cảnh giới an vui của Vô thượng Niết bàn.
HỌC TẬP:
(1) Học thuộc lòng ba bài Kệ.
(2) Tập rải tâm Từ đến những người thân, như cha, mẹ, anh chị em.
(3) Lâu lâu, có giận ai, hãy nghĩ tới việc rải tâm Từ đến người ấy. Khi gặp lại người ấy, lòng mình sẽ nhẹ nhàng hơn: đó là lợi lớn cho mình rồi. Cứ thấy bớt giận dai là mừng đi, vì đã thắng được cái "sân" rồi đó!