Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

VÔ TƯỚNG TAM QUI Y GIỚI
Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,

Qui y Giác Lưỡng túc tôn,

Qui y Chánh Ly dục tôn,

Qui y Tịnh Chúng trung tôn.
141.HT giảng: Kế đến Tổ trao Vô tướng Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: qui y Phật Lưỡng túc tôn, qui y Pháp Ly dục tôn, qui y Tăng Chúng trung tôn, nhưng Lục Tổ lại dạy khác: qui y Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy Giác là giác của Tự tâm, Chánh là chánh của Tự tâm, và Tịnh là tịnh của Tự tâm, đây là Phật Pháp Tăng của Tự tâm; còn chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài, cho nên khác nhau ở chỗ đó.
Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng qui y tà ma ngoại đạo, dùng Tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện tri thức qui y Tự tánh Tam Bảo: Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh vậy.
Như vậy qui y Giác là qui y Phật, đó là Phật của chính mình, không phải Phật nào khác. Giác, Chánh, Tịnh là sẵn nơi Tự tâm của mình, chớ không ở đâu xa.
Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lìa tài sắc, gọi là Lưỡng túc tôn.
Chữ túc là chân, cũng có nghĩa là đủ. Lưỡng túc tôn là hai cái đầy đủ tức là tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc hay lìa tài và sắc, lìa tài lìa sắc đó là lưỡng túc, hai cái đủ, lìa tà mê là hai cái đủ. Hai cái đó đều lìa được gọi là Lưỡng túc tôn.
Tự tâm qui y Chánh, niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến tức là không nhân ngã cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn.
Chánh tức là chánh kiến; bởi chánh kiến nên không có tà kiến; bởi không tà kiến nên mình không có chấp nhân, chấp ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, lìa những tham dục, đó gọi là Ly dục tôn.
Tự tâm qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, Tự tánh đều không nhiễm trước gọi là Chúng trung tôn.
Qui y Tịnh tức là trở về tâm thanh tịnh của mình, thì tất cả các trần lao, ái nhiễm v.v... ngay Tự tánh mình đều không nhiễm trước, gọi đó là Chúng trung tôn. Như vậy Tổ đều qui hướng Phật, Pháp, Tăng trở về Tự tâm mình.
Nếu tu hạnh này, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ sáng đến tối, thọ Tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng.
142.HT giảng: Tổ giải thích, như chúng ta phát nguyện trước Tam Bảo:

Qui y Phật, thử hỏi Phật ở đâu? Nếu nói Phật trên bàn thờ thì Phật có nói câu nào mà nương với Ngài được? Còn nếu nói Phật ở Ấn Độ thì Ngài đã tịch hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Như nói qui y là nương về, nương về với hình tượng không biết nói năng, hay nương về với Phật xa xưa đã mất từ lâu rồi, đó là nương về cái rỗng. Cho nên Tổ bảo nương về Tánh giác của mình, đó là qui y Phật. Tánh giác nơi mình mới là thật, mới là chỗ để trở về. Nếu chúng ta không đạt được lý này, thành ra nói rỗng, không có lẽ thật.

Qui y Pháp, Pháp tức là Chánh, đây là chánh kiến, hằng thấy được điều tà ngoại không theo, đó là qui y Pháp.

Qui y Tăng, Tăng tức là Tịnh, đó là Tâm thanh tịnh của mình. Như vậy Tổ muốn dạy chúng ta xoay trở về Tự tâm thanh tịnh của mình, có đầy đủ Tam Bảo, đó mới là qui y chân thật, đó mới là chỗ qui hướng đạt đạo; còn nếu chúng ta cứ hướng về bên ngoài khơi khơi như vậy, thì biết đến bao giờ đạt đạo! Đó là điều căn bản cần phải hiểu. Cho nên trong mỗi thời khóa tụng kinh đều có hai đợt lạy Tam Bảo: Phần đầu sau khi tán dương Phật rồi, chúng ta lạy ba lạy là lạy Tam Bảo ở ngoài, tức là Tam Bảo mười phương đã có công giáo hóa chúng ta. Đến phần cuối khi chấm dứt thời kinh, chúng ta lạy ba lạy: Tự qui y Phật, tự qui y Pháp, tự qui y Tăng, là lạy Phật, Pháp, Tăng của mình. Đức Phật xa xưa là bậc trưởng thượng chúng ta lạy là phải, nhưng vì sao mình lạy mình? Tự qui y là:

Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.” Chúng tôi giải thích ý nghĩa của buổi lễ. Tự qui y Phật là trở về nương tựa ông Phật của mình, tức là Tánh giác. Đương nguyện chúng sanh là nguyện cho tất cả chúng sanh. Thể giải đại đạo là thể nhập và hiểu thấu đạo lớn. Phát vô thượng tâm là phát tâm vô thượng. Phần trước chúng ta lạy Tam Bảo ở ngoài là vì lòng thành kính và ngưỡng mộ, còn ở đây mình lạy với tánh cách thệ nguyện, mình biết trở về Phật của mình, rồi nguyện cho tất cả chúng sanh đều hiểu được đạo lớn và phát tâm vô thượng. Vì biết trở về ông Phật của mình, mà chúng sanh chưa biết, nên mình lạy nguyện với Tam Bảo cho tất cả chúng sanh sẽ được như con, tức là trở về Phật của mình, hiểu được đại đạo và phát tâm vô thượng như con vậy.

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.” Tức là mình biết trở về với Pháp của nội tâm mình là chánh kiến, nhưng nhớ đến chúng sanh chưa biết điều đó, nên mình nguyện tất cả chúng sanh đều thâm nhập được kinh tạng, vào trí tuệ rộng như biển cả.

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.” Khi biết trở về với vị Tăng của mình, tức là tâm thanh tịnh của mình, chúng ta nguyện tất cả chúng sanh thống lý đại chúng tức là quản lý tất cả chúng, mà không có chướng ngại. Thường trong nhà Phật nói rằng chúng ta tu làm lợi ích cho mình cho người thì dễ, nhưng nhiếp chúng là cả một vấn đề. Nhiếp chúng tức là coi chúng để dạy họ sống hòa thuận an vui không bị phiền não rắc rối, đó là một chuyện hết sức khó. Cho nên nguyện tất cả chúng sanh quản lý hết chúng mà không có chướng ngại.

Như vậy mỗi khi lễ Phật rồi, chúng ta đều trở về Tam Bảo của Tự tâm, và không quên nghĩ đến chúng sanh nên nguyện cho tất cả đều được ba điều lớn lao đó. Mỗi một lần tự qui y rồi, chúng ta lạy Phật một lạy để thệ nguyện của mình được thực hiện. Biết được ý nghĩa tự qui y là trở về qui hướng với Tam Bảo nơi mình, đó mới là nghĩa chân thật vậy.
Này Thiện tri thức, mỗi người tự quan sát, chớ lầm dụng tâm, kinh văn rõ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác, tự Phật mà chẳng qui thì không có chỗ nào mà y được.
Tức là ông Phật của mình mà mình không chịu trở về, thì không còn chỗ nào để mình nương được.
Nay đã tự ngộ, mỗi người phải qui y Tự tâm Tam Bảo, trong thì điều hòa tâm tánh, ngoài thì cung kính mọi người, ấy là tự qui y vậy.

Này Thiện tri thức, đã qui y tự Tam Bảo xong, mỗi người phải chí tâm, tôi vì nói một thể ba thân tự tánh Phật, khiến các ông thấy được ba thân rõ ràng tự ngộ Tự tánh.
Sau phần tự qui y Tam Bảo, Tổ nói về một thể ba thân Tự tánh Phật. Ba thân là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, ba thân này là Tự tánh Phật của chính mình, đều là Tự tánh mình có sẵn, chớ không đâu khác.
Phải nói theo tôi: Nơi tự Sắc thân qui y Thanh tịnh Pháp thân Phật, nơi tự Sắc thân qui y Viên mãn Báo thân Phật, nơi tự Sắc thân qui y Thiên bá ức Hóa thân Phật.
Này Thiện tri thức, Sắc thân là nhà cửa không thể nói qui hướng.

Nghĩa là Sắc thân mình mang đây là nhà cửa để mình tạm trú, chớ không phải là chỗ để mình qui y, nay mai nó tan rã, làm sao nương tựa nó được.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Ba thân Phật
Ba thân Phật ở trong Tự tánh người đời thảy đều có, vì Tự tâm mê không thấy tánh ở trong nên chạy ra ngoài tìm ba thân Như Lai, chẳng thấy ở trong thân có ba thân Phật. Các ông lắng nghe tôi nói khiến các ông ở trong tự thân thấy được Tự tánh có ba thân Phật. Ba thân Phật này từ nơi Tự tánh sanh, chẳng phải từ ngoài mà được.

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời Bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc ác tức sanh hạnh ác, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các pháp ở trong Tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì mây che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên trời kia.

Này Thiện tri thức, trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm che phủ Tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi Tự tánh muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật.
143.HT giảng: Trong đoạn văn trên Tổ giải thích mỗi người chúng ta ai cũng có đủ ba thân Phật: Thanh tịnh Pháp thân Phật, Viên mãn Báo thân Phật, Thiên bá ức Hóa thân Phật.

Thanh tịnh Pháp thân Phật là gì? Là chỉ cho mỗi người chúng ta đều có sẵn Bản tánh thanh tịnh, từ Bản tánh đó dấy niệm nghĩ lành thì làm lành, dấy niệm nghĩ dữ thì làm dữ. Tỉ dụ như có mấy đứa bé chừng năm, ba tuổi xuống biển tắm, thấy sóng nó hỏi: Sóng tại sao mà có, hay sóng từ đâu có? Người lớn liền trả lời: Sóng từ nước mà có. Rõ ràng sóng từ dưới nước dấy lên, nếu không có nước làm gì có sóng được. Nhưng khi nước dấy lên thành sóng rồi, thì thể lặng của nước không còn. Cũng như vậy, niệm thiện niệm ác từ đâu dấy lên? Rõ ràng là từ Tự tánh thanh tịnh dấy lên, nếu không có Tánh thanh tịnh sẵn thì niệm thiện niệm ác đâu dấy được.

Nhưng mình chỉ nhớ niệm thiện niệm ác mà quên đi Tự tánh thanh tịnh, đó là điều quan trọng của sự tu hành. Bởi có Tánh thanh tịnh nên mới dấy niệm thiện niệm ác, dấy niệm thiện rồi làm thiện, dấy niệm ác rồi làm ác. Cho nên người biết nghĩ thiện, biết nghĩ ác, biết nghĩ điều này, việc kia v.v... gốc là từ Tự tánh sẵn có.

Tổ bảo rằng nếu không có tánh thì người đó chết mất rồi. Khi niệm dấy lên, chúng ta mải chạy theo niệm mà quên mất Tự tánh, nên Tổ dùng ví dụ sau đây hết sức rõ ràng: Như mặt trời mặt trăng trong bầu trời trong chiếu sáng, ánh sáng bủa cùng khắp, chợt có mây kéo đến che phủ mịt mù, nên ở trên sáng ở dưới tối. Khi gió thổi mây tan thì trên dưới đều sáng tỏ. Bầu trời xanh trong là tỉ dụ cho Tự tánh, do Tự tánh trong sạch nên trí tuệ mới hiện, mặt trời là trí, mặt trăng là tuệ. Khi bị mây che phủ thì bầu trời tối lại, khi mây tan thì ánh sáng mặt trời mặt trăng bủa cùng khắp. Cũng như vậy, Tự tâm chúng ta thanh tịnh, khi vọng niệm vừa dấy khởi thì trí tuệ bị mờ tối, nếu niệm lặng xuống thì trí tuệ sáng ngời. Như vậy muốn cho trí tuệ sáng thì đám mây vọng niệm phải tan. Nếu không hiểu điều này, tu hành mà lo luyện phép v.v... làm sao trí tuệ phát hiện được. Khi tất cả mây mù vọng tưởng tan rồi thì Tự tánh Thanh tịnh Pháp thân hiện.
Này Thiện tri thức, Tự tâm qui y Tự tánh là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ bỏ trong Tự tánh tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm lấn người, tâm tà kiến, tâm cống cao và hạnh bất thiện trong tất cả thời, thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói tốt xấu của người khác, ấy là tự qui y. Thường tự hạ tâm, khắp hành cung kính tức là thấy tánh thông đạt lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y.
144.HT giảng: Tự qui y là Tự tâm mình trở về với Tự tánh mình, đó gọi là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ hết trong tâm mình những điều bất thiện như là tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm mạn người, tâm tà kiến, tâm cống cao, những tâm ác trong tất cả thời mình phải trừ sạch hết.
Tổ lại dạy: Thường tự thấy lỗi mình, không nói lỗi xấu của người khác, đó gọi là tự qui y. Rồi phải tập thường hạ tâm mình và cung kính người khác, để thấy được Bản tánh, lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y. Ở chỗ này nên hiểu, người thấy tánh khác hơn người không thấy tánh, người không thấy tánh mà tu, càng tu càng tự cao tự đại tự mãn; còn người thấy tánh càng tu lại càng thấp mình, càng khiêm hạ, vì sao? Bởi vì càng tu càng thấy vô ngã, mà vô ngã thì cái gì cao? Người không thấy tánh tu một lúc thấy mình được nhiều công đức, mình có những phép lạ, mình có thần thông, thấy những điềm tốt, các người khác chưa được, do đó nên sanh tâm khinh người mà tự cao. Ngược lại người thấy tánh mà tu thì biết thân này, tâm này là hư giả, bởi biết hư giả nên càng tu càng hạ thấp nó xuống, càng mất nó chớ không cao nó được, cao nó tức là ngã mạn, là tướng của si mê, mà si mê thì bao giờ giác được. Hiểu đúng như vậy, mới thấy lời Tổ nói là chân lý. Người tu thường phải thấp tâm xuống, cung kính người khác, thấy tánh thông suốt, không có ngăn trệ, ấy là tự qui y.
Sao gọi là Viên mãn Báo thân Phật? Thí như một ngọn đèn hay trừ ngàn năm tối, một trí tuệ hay diệt muôn năm ngu.
145.HT giảng: Điều này có tin được không? Tỉ dụ như cái nhà tối mịt một ngàn năm, bây giờ muốn nó sáng lại thì phải bao lâu? Chỉ cần thắp ngọn đèn đem vào nhà thì sáng ngay, cái tối ngàn năm phút chốc liền mất.

Hiện nay chúng ta tu cũng vậy, một phen trí tuệ sáng rồi thì cái ngu của muôn năm cũng mất. Như khi tất cả chúng ta chưa được duyên học đạo thì đối với thân này, đối với vọng tưởng này thấy là thật mình. Nhưng khi học đạo rồi, có thể nghe Phật, Tổ nói một câu hai câu, chúng ta thấy rõ thân này và vọng tưởng không phải là thật mình. Khi thấy rõ như vậy tức nhiên cái ngu ngàn đời tự nó mất. Còn nếu không mất luôn thì lâu lâu cái ngu tái lại, mình lại nhận thấy sự thật nữa, mãi rồi cái ngu cũng phải tan. Như vậy chúng ta thấy rằng ngọn đèn trí tuệ một phen thắp lên thì cái ngu không bao giờ còn được. Cho nên nói khi trí tuệ phát ra hay diệt được muôn năm ngu là như vậy.
Chớ suy nghĩ về trước, đã qua không thể được. Thường phải nghĩ về sau, mỗi niệm mỗi niệm tròn sáng, tự thấy Bản tánh.
146.HT giảng: Ở đây Tổ dạy chúng ta đừng suy nghĩ những lỗi về trước. Giả sử khi trước chúng ta có làm những điều gì sai lầm, nay đã biết lỗi sám hối rồi thôi, không nên nhớ mãi các lỗi đã qua rồi buồn tủi tu hành không được. Những lỗi gì qua rồi thì thành tâm sám hối, nguyện từ nay về sau chừa bỏ, không tái phạm, sám hối xong là thôi, nếu còn hối hận mãi đó là chướng đạo. Cho nên Tổ bảo chúng ta thường phải nghĩ về sau, trong mỗi niệm tròn sáng, tự thấy Bản tánh.
Thiện ác tuy là khác mà Bản tánh không có hai, tánh không hai đó gọi là Tánh thật.
147.HT giảng: Niệm thiện niệm ác tuy là hai niệm khác nhau, nhưng trên Bản tánh nó không có hai, tánh không hai đó gọi là Tánh thật.
Tỉ dụ như khi ngồi tu, niệm niệm dấy khởi, hoặc là niệm lành, hoặc là niệm dữ. Nhưng khi niệm lành hoặc dữ lặng xuống rồi, thì cái hằng biết đó là lành hay dữ? Cái hằng biết trong tâm mình nghĩa là hằng biết lúc có niệm, lúc không niệm, cái hằng biết ấy thuộc về lành hay dữ? - Nó không có lành dữ. Cho nên khi dấy niệm, thì niệm niệm khác nhau, có lành có dữ, khi niệm lặng xuống, chỉ có cái liễu tri thường hằng không có lành dữ, nên nói tánh không hai mới là Tánh thật, còn niệm lành hay dữ không phải là cái thật.

Tổ chỉ dạy rõ như ban ngày không có gì phải nghi ngờ nữa. Dấy niệm lên thì có thiện ác là thuộc về hai, mà hai thì không thật; niệm thiện hoặc ác lặng xuống trở về Bản tánh, thì Bản tánh là không hai, mà không hai mới là Tánh chân thật, thật quá rõ ràng. Thế nên chúng ta muốn sống với Tánh chân thật là phải dừng niệm thiện và ác, nếu không hiểu lý này chúng ta sẽ thắc mắc, bỏ niệm ác thì được, vì sao lại bỏ niệm thiện? Bởi vì thiện là đối với ác, những niệm đó còn dấy lên là sanh diệt, lặng những cái sanh diệt ấy mới là chân thật, cái chân thật ở ngay nơi đó, không đâu xa. Vì thế nói Bản tánh thì không hai, tánh không hai đó gọi là Thật tánh.
Ở trong Thật tánh không nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên mãn Báo thân Phật.
148.HT giảng: Nghĩa là trong Tánh thật không có nhiễm thiện ác, đó là Viên mãn Báo thân Phật. Như vậy tìm đâu thấy Phật? Chỉ có lặng hai niệm thiện ác thì Viên mãn Báo thân Phật hiện tròn đầy, cho nên nói viên là tròn, mãn là đầy, Báo thân Phật là tròn đầy. Niệm dấy lên là tướng sanh diệt, thiên lệch, hoặc là thiện hoặc là ác, hai cái thiên lệch đó lặng xuống chỉ còn một Tánh giác tròn đầy, đó là Viên mãn Báo thân Phật. Vì vậy ngay nơi mỗi người đều có Báo thân Phật, vì chúng ta không lặng được niệm thiện ác cho nên không nhận được, nếu lặng được niệm thiện ác thì ngay nơi tâm mình đã đầy đủ Báo thân Phật.
Tự tánh khởi một niệm ác thì diệt muôn kiếp nhân lành, Tự tánh khởi một niệm thiện thì được hằng sa ác hết, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy chẳng mất bản niệm gọi là Báo thân.
149.HT giảng: Tự tánh khởi một niệm ác thì diệt muôn kiếp nhân lành, Tự tánh khởi một niệm thiện thì cái ác dù nhiều như số cát sông Hằng cũng đều hết sạch. Những niệm dấy lên nhưng mình không mất bản niệm, tức là không mất Bản tánh hằng tri, đó gọi là Báo thân. Nói tóm lại, Báo thân Phật là gì? Là do hai niệm thiện ác lặng xuống, chỉ còn một Tánh giác thanh tịnh tròn đầy, đó là Báo thân Phật.
Sao gọi là Thiên bá ức Hóa thân Phật? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như không, một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác là hóa làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện thì hóa làm thiên đường, độc hại thì hóa làm rồng rắn, từ bi thì hóa làm Bồ-tát, trí tuệ thì hóa làm thượng giới, ngu si thì hóa làm hạ giới. Tự tánh biến hóa rất là nhiều, người mê không hay tỉnh giác, mỗi niệm khởi ác thường đi trong con đường ác, xoay về một niệm thiện, trí tuệ liền sanh, đây gọi là Tự tánh Hóa thân Phật.
150.HT giảng: Nếu mình không khởi duyên với muôn pháp thì tánh mình lặng lẽ như hư không, không có tướng mạo, dấy niệm suy nghĩ liền biến hóa. Trăm ngàn muôn ức niệm ác mình biết xoay trở về thiện tức là trở về với Tự tánh mình, đó là Hóa thân Phật. Dấy niệm ác bị dẫn đi trong lục đạo, niệm lành thì dẫn đi đến các cõi lành. Nếu xoay ngàn muôn ức niệm trở về Tự tánh, tức là chuyển cái biến hóa trở về cái thật, gọi đó là Hóa thân Phật.

Như vậy Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ ba thân Phật:

- Pháp thân là Tánh thanh tịnh của mình.

- Báo thân là do lặng được hai niệm thiện ác, chỉ còn cái liễu tri thường hằng.

- Hóa thân tức là xoay tất cả niệm ác trở về Tự tánh.
Này Thiện tri thức, từ Pháp thân suy nghĩ tức là Hóa thân Phật, niệm niệm Tự tánh tự kiến tức là Báo thân Phật, tự ngộ tự tu, Tự tánh công đức, ấy là chân thật qui y. Da thịt là Sắc thân, Sắc thân đó là nhà cửa, không nói là qui y vậy. Chỉ ngộ Tự tánh ba thân tức là biết được Tự tánh Phật.
151.HT giảng: Nếu căn cứ trên Pháp thân dấy niệm đó là Hóa thân Phật, mỗi niệm mình đều thấy rõ Tự tánh của mình, đó là Báo thân Phật. Chúng ta nói tự qui y nghĩa là trở về với Pháp thân, Báo thân, Hóa thân Phật của Tự tâm, chớ không phải trở về với thân xác thịt hôi thúi này, thân xác thịt này chỉ là nhà cửa che đậy bên ngoài không phải là thật. Nếu chúng ta ngộ được Tự tánh mình có đủ ba thân Phật tức là biết được Tự tánh Phật.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Bài tụng Vô tướng
Tôi có một bài tụng Vô tướng, nếu người hay trì tụng, ngay nơi lời nói liền khiến cho ông, tội mê từ nhiều kiếp, một lúc liền tiêu diệt. Tụng rằng:

Mê nhân tu phúc bất tu đạo,
Chỉ ngôn tu phúc tiện thị đạo,
Bố thí cúng dường phúc vô biên,
Tâm trung tam ác nguyên lai tạo.
152.HT giảng: Tổ nhắc các cư sĩ tu hành: Người mê chỉ biết tu phước mà chẳng tu đạo, nghĩa là người mê chỉ biết làm phước bên ngoài, mà không biết buông xả các điên đảo vọng tưởng để trở về Tâm thể chân thật. Chỉ nói tu phước liền là đạo, chỉ nói chúng tôi làm phước, đó là hợp với đạo rồi, đó là tu rồi.
Tổ mới giải thích tiếp: Nếu phát tâm bố thí cho kẻ nghèo, người đói, biết phát tâm cúng dường chư Tăng, chư Ni, đó là có phước nhiều lắm chớ không phải là không, nhưng trong tâm ba ác xưa nay cứ tạo, tức là ba ác tham sân si trong tâm chúng ta còn hoài. Biết bố thí, biết cúng dường thì có phước thật, nhưng chưa hết ba độc.

Trong hàng Phật tử chúng ta có nhiều người biết bố thí, biết cúng dường mà ba độc vẫn còn nguyên. Muốn hết ba độc tức phải hướng về tâm buông xả mới hết, không phải tu phước cúng dường là hết ba độc. Nếu ba độc không hết thì làm sao thoát ly sanh tử, vì vậy nên nói tu phước không phải là đạo. Ai muốn hưởng phước thì tu hạnh bố thí cúng dường, đó là phước vô biên, đâu phải không có phước. Nhiều người không hiểu, khi nghe Tổ dạy phải quay về Tự tánh thì nói: Như vậy tôi tu phước cúng dường không có phước sao? Phước thì vẫn có, nhưng tham sân si thì không hết.
Nghĩ tương tu phúc dục diệt tội,
Hậu thế đắc phúc tội hoàn tại,
Đãn hướng tâm trung trừ tội duyên,
Các Tự tánh trung chân sám hối.
153.HT giảng: Các người tu cứ nghĩ rằng mình tu phước bố thí cúng dường là để hết tội, nhưng thật có hết tội chăng? Cho nên Tổ dạy tiếp: Tu phước thì đời sau được phước, nhưng nếu làm tội thì tội vẫn còn, tại sao vậy? Vì mình làm phước là tạo nhân phước, thì thọ quả phước, nhưng ba độc vẫn còn nguyên. Vì vậy có khi làm phước mà vẫn sân, có khi làm phước mà vẫn có niệm bất bình v.v... cho nên tội vẫn còn.

Nhà Phật thường gọi thân chúng ta hiện tại là thân tổng báo, tổng báo tức là cái quả báo chung trong đó có lành có dữ, có thiện có ác v.v... người làm lành nhiều thì hiện ra nhiều tướng tốt gặp nhiều phước duyên, người làm lành ít thì thiếu tướng tốt, và cũng ít gặp phước duyên, nhưng cũng có một chút phước nên được sanh làm người. Vì vậy nhiều người có phước thật nhiều, được sanh trong những gia đình đầy đủ sung sướng, nhưng trái lại họ mang thân tật nguyền, vì sao? Vì trong khi làm phước họ vẫn có làm tội, cho nên làm phước thì hưởng phước, tạo tội thì đền tội, thân tổng báo của chúng ta là như vậy. Chúng ta có thể trong nhiều đời, làm phước nhiều nên gặp được những điều tốt, điều thiện phù hợp với sở nguyện của mình, nhưng lâu lâu cũng vẫn có xảy ra tai nạn hay có những điều bất như ý, đó là vì từ đời trước đã tích lũy nhiều tội, nên bây giờ gặp duyên thì phải trả quả, chớ không có gì lạ. Hiểu như vậy chúng ta không còn hoang mang trước những sự việc xảy ra trong cuộc đời mình.

Chỉ hướng trong tâm trừ tội duyên, đó mới là chân sám hối. Chúng ta phải nhìn thẳng trong tâm mình trừ những tội duyên như là tâm tật đố, tâm bất thiện, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm hư dối, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm mạn người, tâm tà kiến v.v... cứ ngay trong tâm mình dẹp sạch những tâm niệm đó, vì đó là duyên để tạo tội, nếu chúng ta không nhằm vào đó để dẹp nó, thì làm sao hết tội được? Chúng ta chỉ biết tu phước làm lành bên ngoài, thì không bao giờ đời mình được trọn vẹn an lành. Muốn được an lành, chúng ta phải nhắm thẳng trong tâm mình, dẹp sạch các duyên tạo tội thì đời sau mới được hết tội. Lục Tổ đã chỉ cho người tu chúng ta rõ ràng như vậy.
Hốt ngộ Đại thừa chân sám hối,
Trừ tà hành chánh tức vô tội,
Học đạo thường ư Tự tánh quán,
Tức dữ chư Phật đồng nhất loại.
154.HT giảng: Chợt gặp pháp sám hối chân thật của Đại thừa, biết trừ những tâm tà, hành những tâm chánh, đó mới là không tội. Người học đạo thường ở trong Tự tánh mình mà quán sát, tức cùng với chư Phật đồng một loại không khác. Nhìn lại mình để quán sát Tự tánh mình, bỏ những lỗi lầm, dứt các tội duyên để trở về sống với Tự tánh, thì mình với Phật không hai không khác. Nếu nhắm ra ngoài làm việc thì sẽ cùng với chư Phật khác xa. Đó là Tổ đã chỉ thẳng pháp sám hối của Đại thừa, và đúng với hạnh của chư Phật.
Ngô Tổ duy truyền thử đốn pháp,
Phổ nguyện kiến tánh đồng nhất thể,
Nhược dục đương lai mích Pháp thân,
Ly chư pháp tướng tâm trung tẩy.
155.HT giảng: Tổ của tôi chỉ truyền pháp đốn giáo này, khắp nguyện người thấy tánh đồng một thể. Nếu muốn đời sau tìm thấy được Pháp thân, tức phải lìa các tướng ở trong tâm, rửa sạch bóng dáng của sáu trần ngay trong tâm mình. Cho nên người tu diệt vọng là rửa sạch trong tâm mình những niệm tưởng nhớ đến người đến cảnh, đó là bóng dáng của pháp trần rơi vào tâm thức cần phải tẩy trừ, mới thấy được Pháp thân.
Nỗ lực tự kiến mạc du du,
Hậu niệm hốt tuyệt nhất thế hưu,
Nhược ngộ Đại thừa đắc kiến tánh,
Kiền cung hiệp chưởng chí tâm cầu.
156.HT giảng: Trong các câu kệ chót của bài tụng, Tổ khuyên chúng ta phải nỗ lực tự thấy chớ có lơ là, du du là lơ là; nỗ lực để tự thấy Bản tánh mình, tự biết những niệm mà buông bỏ. Một niệm dứt là chỉ cho hơi thở cuối cùng vừa thở khì ra mà không hít lại, thì một đời buông tay. Vì vậy Tổ bảo chúng ta phải nỗ lực tiến tu, chớ có lơ là, chớ có chần chờ, nếu một phen thở ra mà không hít vào thì một đời buông xuôi. Nếu gặp những hàng Đại thừa được thấy tánh, phải thành tâm cung kính, hay là cung kính chấp tay, chí tâm cầu pháp Đại thừa, chớ có lôi thôi khinh thường, bởi vì người học đạo mà không được Thiện tri thức chỉ dẫn thì một đời tu học cũng khó mà đến đâu.
Tổ nói:

Này Thiện tri thức, phải tụng lấy, y đây tu hành, ngay nơi lời nói mà thấy tánh, tuy cách tôi ngàn dặm như thường ở bên cạnh tôi; nơi lời nói này mà chẳng ngộ tức là đối diện với tôi mà cách xa ngàn dặm, đâu cần từ xa đến đây. Trân trọng đi được an vui.

Cả chúng nghe pháp rồi không ai mà chẳng khai ngộ, đều hoan hỉ phụng hành.
157.HT giảng: Tóm tắt lại, phẩm Sám Hối này gồm phần văn xuôi trong đó Tổ dạy Ngũ phần Pháp thân hương v.v... và phần kết thúc là bài tụng Vô tướng văn vần, dễ hiểu, dễ nhớ, y đó mà tu mới là cái tu chân thật. Tổ dạy rõ ràng tu là phải hướng về mình, không nên chạy ra ngoài, vì tu bên ngoài không bao giờ hết nghiệp được. Cho nên mỗi buổi tụng kinh chúng ta đều có tự qui y, tự qui y là trở về với mình, tức là trở về ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân nơi mình sẵn có. Tự qui y Phật là trở về với Phật của mình, tự qui y Pháp là trở về với Pháp của mình, tự qui y Tăng là trở về với Tăng của mình.

Nơi mình có đủ ba thân Phật, nơi mình có đủ Tam Bảo, mình phải hướng về đó, nghĩa là phải bỏ hết những niệm xấu như ngã mạn, cống cao, lừa dối, ác độc v.v... bỏ cho hết sạch những niệm đó, là biết tự qui y. Bản tánh thanh tịnh sẵn có gọi là Pháp thân Phật. Buông cả hai niệm thiện ác để thấy Báo thân Phật, rồi xoay các niệm trở về Tự tánh đó là Hóa thân Phật, tức là chuyển hóa thân trở về thành Phật. Nói tóm lại tự qui y không phải là tự qui y với thân xác thịt này, mai mốt nó rã rồi còn đâu! Tự qui y là trở về Tự tánh thanh tịnh là Pháp thân, trở về nơi Tự tánh tròn đầy không có hai niệm là Báo thân, trở về Tự tánh mình bằng xoay mọi niệm về nơi Tự tánh đó là Hóa thân Phật.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phẩm VII. Cơ Duyên
1. Vô tận tạng
Đó là giai đoạn Ngài còn đang lánh nạn, người ta theo đuổi kiếm để tiêu diệt Ngài, cũng là lúc Ngài nói kinh Đại Niết-bàn cho Ni cô Vô Tận Tạng nghe.
==================
2. Thiền sư Pháp Hải:
Tăng Pháp Hải, người quê ở Khúc Giang, Thiều Châu, ban đầu đến tham vấn Tổ, hỏi rằng:

Tức tâm tức Phật, cúi xin Ngài chỉ dạy.

Tổ bảo:

Niệm trước chẳng sanh tức tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật, thành tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả tướng tức Phật, nếu tôi nói cho đủ, cùng kiếp cũng không hết.
=================
3. Thiền sư Pháp Đạt:

Tăng tên là Pháp Đạt, người ở Hồng Châu, xuất gia lúc bảy tuổi, thường tụng kinh Pháp Hoa, đến lễ Tổ mà đầu không sát đất. Tổ mới quở:

Lễ mà đầu không sát đất, chi bằng đừng lễ, trong tâm ông ắt có một vật, vậy ông chứa chất sự nghiệp gì?

Pháp Đạt thưa:

Tôi tụng kinh Pháp Hoa đã đến ba ngàn bộ.

Nếu chúng ta tụng kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ chắc lạy đầu không sát đất! Tại sao lạy đầu không sát đất, vì là lễ gượng chớ không tin người mình lạy có phước hơn mình, cho nên lễ mà chưa thật kính.

Tổ bảo:

Nếu ông tụng đến muôn bộ, được ý kinh mà chẳng cho là hơn, ắt cùng với ta sánh vai, nay ông mang sự nghiệp này, trọn không biết lỗi, nghe ta nói kệ:

Lễ bản chiết mạn tràng,
Đầu hề bất chí địa,
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phúc vô tỉ.
=============
4. Thiền sư Trí Thông:
Tăng Trí Thông, người quê ở An Phong thuộc Thọ Châu, ban đầu xem kinh Lăng-già đến hơn một ngàn lần nhưng không hiểu được Tam thân Tứ trí, đến lễ Tổ cầu giải nghĩa này. Tổ bảo:

Ba thân là Thanh tịnh Pháp thân, đó là tánh của ông, Viên mãn Báo thân là trí của ông, Thiên bá ức Hóa thân là hạnh của ông vậy.
===================
5. Thiền sư Trí Thường:

158.HT giảng: Trong đoạn ngài Trí Thường hỏi đạo với Lục Tổ, chúng ta thấy có hai phần. Phần trước là sau khi hỏi đạo với Hòa thượng Đại Thông, Ngài còn nghi ngờ, nên xin Lục Tổ giải nghi cho. Nhờ Tổ chỉ dạy thấu đáo nên Ngài ngộ. Phần sau là Ngài hỏi thêm về nghĩa Tứ thừa để hiểu cho rành rẽ, khỏi bị lầm lẫn.
============
6. Thiền sư Chí Đạo:
Tăng Chí Đạo, người quê ở Nam Hải, Quảng Châu đến thưa hỏi, thưa rằng:

Học nhân từ xuất gia, xem kinh Niết-bàn hơn mười năm chưa rõ được đại ý, cúi mong Hòa thượng thương xót chỉ dạy.

159.HT giảng: Chúng tôi giải thích phần trên để quí vị hiểu rõ. Ngài Chí Đạo có chỗ nghi: Theo như Ngài hiểu thì con người chúng ta có hai thân, Sắc thân và Pháp thân. Sắc thân là tướng sanh diệt, còn Pháp thân là không sanh diệt, cho nên Sắc thân là vô thường mà Pháp thân là thường, Sắc thân có tri giác mà Pháp thân là vô tri giác. Vì ngài Chí Đạo hiểu như vậy nên khi nghe nói “tịch diệt là vui”, Ngài liền nghi: Nếu nói “tịch diệt là vui” là Sắc thân này đến khi lặng mất là vui, lặng mất tức là hoại rồi, làm sao gọi là vui được! Còn nếu tịch diệt là vui là nói về Pháp thân, thì Pháp thân là vô tri thì làm sao biết vui? Như vậy trong kinh nói “tịch diệt” là “vui” là cái nào vui? Đó là cái nghi thứ nhất.

Đến cái nghi thứ hai: Ngài Chí Đạo nghĩ thân của mình đây là thân năm uẩn, nó là cái dụng, Pháp tánh là thể. Từ Pháp tánh khởi ra ngũ uẩn, tức là từ thể dấy dụng, rồi ngũ uẩn diệt trở về Pháp tánh. Trở về Pháp tánh là chỗ lặng yên, nếu cho sanh nữa tức nhiên diệt rồi sanh, sanh rồi diệt không cùng. Nếu đến chỗ lặng yên đó ngăn không cho sanh nữa gọi là Niết-bàn, tức là từ chỗ diệt rồi yên lặng, bị cấm chỉ không cho sanh nữa, làm sao vui được? Cho nên ngài Chí Đạo nói diệt rồi sanh mới vui, nếu diệt rồi diệt luôn, kềm giữ cái diệt đó mãi thì khổ, đâu có gì là vui, vì sao trong kinh lại nói “tịch diệt là vui”, nghĩa đó không thể được.
=======
7. Thiền sư Hành Tư:
Dòng thiền được truyền bá đến ngày nay chưa dứt là do ngài Hành Tư và ngài Hoài Nhượng. Phái thiền của ngài Hành Tư được truyền đến nay là tông Tào Động, của ngài Hoài Nhượng là tông Lâm Tế. Hai vị là đệ tử cự phách của Lục Tổ, và hai dòng thiền này được truyền dài lâu nhất, còn mãi cho đến ngày nay.

Thiền sư Hành Tư sanh tại An Thành, Kiết Châu, họ Lưu, nghe pháp tịch Tào Khê giáo hóa thạnh hành, Ngài thẳng đến tham lễ, bèn hỏi:

Phải làm việc gì mà không rơi vào giai cấp?
===========
8. Thiền sư Hoài Nhượng:
Thiền sư Hoài Nhượng quê ở Kim Châu, con nhà họ Đỗ, ban đầu đến yết kiến Quốc sư An ở Tung Sơn. Quốc sư An mới khuyến khích Sư đến Tào Khê tham vấn. Khi Ngài đến lễ bái Tổ, Tổ hỏi:

Ở đâu lại?

Ngài thưa: Ở Tung Sơn.

Tổ bảo: Đem được vật gì lại?

Ngài thưa: Nói giống một vật tức chẳng trúng.
=============================
9. Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác:
Thiền sư Huyền Giác ở Vĩnh Gia, họ Đới, quê ở Ôn Châu, thuở nhỏ tập kinh luận, chuyên về pháp môn chỉ quán của tông Thiên Thai, nhân xem kinh Duy-ma-cật phát minh được tâm địa; chợt gặp đệ tử của Tổ là Huyền Sách thăm hỏi, cùng bàn chuyện sôi nổi, mà mỗi lời nói ra đều thầm hợp với chư Tổ. Huyền Sách hỏi:

Nhân giả được pháp nơi Thầy nào?

Huyền Giác đáp:

Tôi nghe kinh luận Phương đẳng mỗi vị đều có Thầy truyền thừa, sau nơi kinh Duy-ma-cật ngộ được Phật tâm tông mà chưa có người chứng minh.

Huyền Sách bảo:

Từ đức Phật Oai Âm Vương về trước tức được, từ Phật Oai Âm Vương về sau, không Thầy mà tự ngộ trọn là thiên nhiên ngoại đạo.

Huyền Giác nói:

Xin nhân giả vì tôi chứng minh.

Huyền Sách bảo:

Lời tôi nhẹ, ở Tào Khê có Lục Tổ đại sư bốn phương nhóm họp về đều là những người thọ pháp. Nếu ông chịu đi thì cùng tôi đồng đi.

Huyền Giác bèn đồng với Huyền Sách đến tham vấn.
=================
10.Thiền sư Trí Hoàng:
Thiền giả Trí Hoàng, ban đầu tham học nơi Ngũ Tổ, tự cho đã được chánh thọ (tức là chánh định), mới cất am ngồi thiền mãi, trải qua hai mươi năm. Đệ tử của Tổ là Huyền Sách du phương đến Hà Sóc nghe danh ngài Trí Hoàng, liền đến am hỏi:

Ông ở đây làm gì?

Trí Hoàng nói: Nhập định.

Huyền Sách hỏi:

Ông nói nhập định là có tâm nhập hay không tâm nhập? Nếu không tâm nhập thì tất cả vô tình cỏ cây ngói đá nên được định; nếu có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình hàm thức cũng nên được định.
=========
11.PHƯƠNG BIỆN
Có vị Tăng hỏi Tổ:

Ý chỉ Huỳnh Mai người nào được?

Tổ đáp: Người hiểu Phật pháp được!

Tăng thưa: Hòa thượng lại được chăng?

Tổ bảo: Ta chẳng hiểu Phật pháp.
159.HT giảng: Vì sao Tổ lại phủ nhận như vậy? Ý chỉ Huỳnh Mai tức là ý chỉ Ngũ Tổ, người nào được? Lục Tổ là người được truyền y mà Ngài không nói vậy, chỉ trả lời: Người nào hiểu Phật pháp thì được. Tăng lại hỏi: Hòa thượng hiểu hay không? Được hay không? Tổ đáp: Ta chẳng hiểu Phật pháp. Tại sao Tổ lại đáp như vậy, có phải là Ngài chối bỏ chỗ truyền y của Ngũ Tổ hay không? Chúng ta nên nhớ trong kinh Kim Cang đức Phật nói: “Nếu ta thấy có pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho ta thành Phật.” Vừa thấy có pháp để được, đó là không được. Còn ở đây vừa khởi hiểu thì không phải là người được truyền y, vừa dấy niệm hiểu là đã sai rồi, bởi vì chỗ đó cho mình nhận mà không cho mình hiểu. Cho nên Tổ nói Ta không hiểu Phật pháp.
Một hôm Tổ muốn giặt lá y đã được truyền trao nhưng không có suối tốt để giặt, nhân Ngài đến sau chùa khoảng năm dặm, thấy trên núi cây cối um tùm, khí tốt xoay quanh, Ngài liền cắm cây tích trượng sâu xuống đất, nước liền phún lên theo tay Ngài, chứa lại thành cái ao, Ngài liền quì gối giặt y trên đá. Chợt có một vị Tăng đến lễ bái thưa rằng:

Phương Biện là người Tây Thục, vừa rồi ở nước Nam Thiên Trúc, thấy ngài Đạt-ma đại sư dạy Phương Biện phải chóng đến nước Đường là nơi tôi truyền Chánh pháp nhãn tạng và y tăng-già-lê của Tổ Ca-diếp, thấy truyền đến đời thứ sáu nơi Thiều Châu ở Tào Khê, ông nên đến đó chiêm lễ. Phương Biện từ xa đến, cúi mong được thấy y bát đã được truyền.

Tổ bèn đưa ra cho ông xem, liền hỏi:

Thượng nhân làm nghề gì?

Phương Biện đáp: Chuyên nghề đắp tượng.

Tổ nghiêm sắc mặt lại bảo: Ông thử đắp xem.

Phương Biện mờ mịt không biết. Qua mấy ngày, ông đắp được tượng của Tổ, cao bảy tấc, rất đẹp đẽ.

Tổ cười, bảo:

Ông chỉ giỏi tánh đắp mà chẳng giỏi tánh Phật.

Tổ đưa tay xoa đầu Phương Biện nói:

Ông hằng vì người, trời làm phước điền.
Như vậy khi Tổ nghiêm sắc mặt bảo: “ông thử đắp xem”, lý đáng Phương Biện phải thấy được cái gì Tổ muốn chỉ, đó là đúng ông nhận được Phật tánh; nhưng ông không biết, về nhà chỉ nhớ hình Tổ, ông đắp thành tượng, cho nên Tổ bảo: “ông chỉ giỏi tánh đắp, mà chẳng giỏi tánh Phật”.
Tổ liền lấy y đền công, Phương Biện lấy y chia làm ba phần: một phần đắp vào tượng, một phần thì ông lưu lại, còn một phần thì gói chôn xuống đất, thề rằng: “Sau này, người nào đào được y này là tôi tái sanh để trụ trì nơi đây dựng lập lại chùa chiền.”

(Đến đời Tống, niên hiệu Gia Hựu năm thứ tám, có vị Tăng tên là Duy Tiên, khi sửa chùa, đào đất được y như mới, còn tượng của Phương Biện đắp thì để ở chùa Cao Tuyền, cúng kính cầu nguyện đều được như ý.)

Có vị Tăng đọc bài kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:

Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ-đề nhật nhật trưởng.

Tổ nghe qua liền nói:

Bài kệ này chưa rõ được tâm địa, nếu y đây mà tu, ấy là thêm trói buộc.

Nhân đó Tổ nói một bài kệ:

Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm sổ khởi,
Bồ-đề tác ma trưởng.
160.HT giảng: Đối chiếu hai bài kệ trên, chúng ta thấy chỗ thâm sâu khác nhau, nếu không khéo thì không làm sao thấy được. Bài kệ trước của ngài Ngọa Luân thật ra không phải dở, đối với chúng ta Ngài rất giỏi, Ngài có khả năng dẹp hết tư tưởng. Nhưng “hay đoạn trăm tư tưởng”, đó là bệnh, tại sao? Vì còn thấy tư tưởng là thật để đoạn; như vậy năng sở rõ ràng; tư tưởng là cái bị đoạn, Ngài là hay đoạn, có năng có sở là có hai rồi, đó là cái bệnh thứ nhất. Đến cái bệnh thứ hai là “Bồ-đề càng ngày càng lớn”. Nói lớn nhỏ là còn hình tướng, đó là bệnh rồi, vì còn kẹt trên hình thức. Cho nên Tổ nói nếu tu mà kẹt trên hình thức là bị trói buộc. Đây thật là tế nhị, mới nghe qua bài kệ thấy dường như thật hay, nhưng xét kỹ một chút thì thấy bệnh, cho nên khi đọc bài kệ bài thơ, mình biết trình độ người làm thơ đang đến đâu.

Đến bài kệ của Tổ: Huệ Năng không có tài nghệ gì hết, cũng chẳng đoạn trăm tư tưởng, vì tư tưởng có thật đâu mà đoạn! Tư tưởng là hư giả như khói như mây, biết nó hư giả là nó hết, có gì mà đoạn. Đó là không còn năng sở, tức đâu còn hai thứ đối đãi. “Đối cảnh tâm thường khởi”, tại sao? Nếu thấy cảnh thật thì tâm mới thật, nếu biết cảnh giả tâm giả, cả hai đều giả dối thì không thành vấn đề, cho nên không thành bệnh. “Bồ-đề làm gì lớn”: Bồ-đề là thể không sanh không diệt, không tướng mạo, nói gì có lớn nhỏ! Khi thấy đến tột cùng thì chỗ nói mới tột cùng. Khi chưa thấy tột cùng, thì bài kệ của ngài Ngọa Luân dường như hay mà sự thật Ngài đang chết chìm trong chỗ đè cho nó lặng, chớ chưa thấy được Thật thể. Nếu nói “Bồ-đề càng ngày càng lớn” là còn hình tướng, tức chưa phải thật sự đạt đạo vậy.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phẩm 8: Đốn Tiệm: CHÍ THÀNH
Khi ấy Tổ ở chùa Bảo Lâm tại Tào Khê, còn Thần Tú đại sư ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ hai tông thạnh hóa, người đều gọi là Nam Năng Bắc Tú nên có hai tông Nam Bắc, chia ra đốn tiệm, mà người học không biết tông thú. Tổ bảo chúng rằng:

Pháp vốn một tông, người có Nam Bắc, pháp tức là một thứ, thấy có mau và chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp không có đốn tiệm, người có lợi căn, độn căn, nên gọi là đốn tiệm.
161.HT giảng: Đến phẩm thứ tám nói về đốn và tiệm.

Về tông thú tức về sự tu hành không có chia ra Nam Bắc, đốn tiệm. Đốn là nhanh, tiệm là chậm, là thứ lớp. Sở dĩ có thứ lớp là tại sao? Vì căn cơ của người, người thông minh nghe ít hiểu nhiều, còn người tối tăm nghe nhiều hiểu ít; nghe nhiều hiểu ít phải tu từ từ, phải từ thấp đi lên lần lần. Còn người thông minh nghe liền hiểu, hiểu liền ứng dụng được thì đâu có từ từ, vì thế nói căn cơ lợi và độn; lợi căn tu nhanh, tiến nhanh nên gọi là đốn, còn độn căn thì chậm nên gọi là tiệm, đốn tiệm chia ra là tại căn cơ người, chớ không phải tại pháp chia ra như thế.
Nhưng đồ đệ của ngài Thần Tú thường chê Tổ sư Nam tông là không biết một chữ, có cái gì hay.
Dưới ngài Thần Tú có người đệ tử lớn là Phổ Tịch, kiêu ngạo, muốn làm Tổ thứ bảy, thành ra muốn đưa thầy ông lên làm Tổ thứ sáu, nhưng thầy ông không được truyền y bát nên ông bực tức nói Tổ Huệ Năng dốt không biết chữ, không có gì hay, chỉ thầy ông mới là giỏi là hay v.v.. xứng đáng làm Tổ, do đó mới sanh ra sự tranh chấp. Không phải người lớn tranh chấp, đó là đồ đệ ở dưới tranh chấp.
Thần Tú nói rằng:

Kia (Tổ Huệ Năng) được Trí vô sư, thâm ngộ được pháp thượng thừa, tôi không bằng vậy. Vả lại Thầy tôi là Ngũ Tổ, chính Ngài truyền y pháp, há lại suông ư?
Ngài Thần Tú thật rất tốt, chính Ngài nhận rằng Tổ Huệ Năng được Trí vô sư, còn Ngài học nhiều nhưng là Trí hữu sư, Tổ Huệ Năng đã thâm ngộ được pháp thượng thừa còn Ngài không bằng; và chính Ngũ Tổ truyền y bát cho Tổ Huệ Năng thì đâu phải là chuyện nói suông! Như vậy ông thầy thì hiểu, nhưng học trò vì ngô ngã nên sanh việc chia rẽ khinh chê.
Tôi hận không thể đi xa để thân cận, luống thọ ân Quốc vương, vậy những người các ông không nên kẹt ở đây, - tức là không nên ngưng trệ ở đây - nên đến Tào Khê tham hỏi.
Như vậy thì quá tốt, sánh với hiện nay có ai bì nổi ngài Thần Tú không? Có ai dám bảo học trò đi nơi khác học không? Hay là bảo: “Thôi ở đây tôi dạy cho đủ rồi đi đâu làm chi, bỏ thầy đi là bất hiếu v.v...”
Một hôm Ngài sai đệ tử là Chí Thành rằng:

Ông thông minh nhiều trí, nên vì tôi mà đến Tào Khê nghe pháp, nếu nghe được điều gì, hết lòng ghi lấy, trở về nói cho tôi nghe.

Chí Thành vâng mệnh đến Tào Khê, theo chúng tham thỉnh, không nói từ đâu đến.

(Chí Thành đến Tào Khê nhưng không có trình, không xin chi cả, cứ theo chúng vào học.)

Khi ấy Lục Tổ bảo chúng rằng:

Ngày nay có người trộm pháp đang ẩn trong hội này.

Chí Thành liền ra lễ bái và thưa đầy đủ việc của ông. Tổ bảo:

Ông từ Ngọc Tuyền lại nên là kẻ do thám.

Chí Thành đáp: Không phải.

Tổ hỏi: Sao được không phải?

Chí Thành thưa:

Chưa nói là phải, đã thưa rồi là không phải.

Tức là Ngài nói rõ đến mà làm thinh là ăn trộm, còn đã thưa trình rồi thì không còn là ăn trộm nữa.

Tổ bảo: Thầy ông dùng cái gì chỉ dạy chúng?

Chí Thành thưa:

Thường chỉ dạy đại chúng trụ tâm quán tịnh, thường ngồi chẳng nằm.

Trụ tâm quán tịnh là trụ tâm lại và nhìn thấy chỗ lặng lẽ đó và thường ngồi thiền chớ không có nằm.

Tổ bảo:

Trụ tâm quán tịnh là bệnh chớ không phải thiền, thường ngồi là câu chấp nơi thân, đối với lý có lợi ích gì.

Hãy lắng nghe bài kệ của tôi đây:

Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.
162.HT giảng: Khi sống ngồi thiền mãi không nằm, khi chết nằm luôn không ngồi, có ai chết rồi mà ngồi dậy không? Như vậy vốn là một khúc xương thúi, vì sao mà lập công khóa? Nằm và ngồi chẳng qua là xương sống dựng đứng lên hay nằm ngã xuống, dựng lên gọi là ngồi, ngã xuống gọi là nằm. Như vậy nằm ngồi vốn là một khúc xương thúi, là cái hình thức, đâu có gì quan trọng mà lấy đó làm công phu tu hành. Tu hành là điểm nào nữa kia, chớ không phải hình thức đó, nhưng hiện nay thấy ai ngồi được nhiều thì thiên hạ phục lắm. Thế nên ở đây tuy dạy tu thiền nhưng ngồi tối đa là hai giờ rồi xả, chớ không ngồi hoài vì chúng ta tu cũng phải có chút ít công khóa chừng mực, nhưng thật ra chủ tâm là làm sao ngộ được đạo, chớ không phải lấy việc ngồi làm sở trường.
Chí Thành lại lễ bái thưa rằng:

Đệ tử ở chỗ Đại sư Thần Tú, học đạo chín năm mà không được khế ngộ. Ngày nay nghe Hòa thượng nói một bài kệ liền khế ngộ được Bản tâm. Sanh tử là việc lớn, đệ tử xin Hòa thượng vì lòng đại bi chỉ dạy thêm.

Tổ bảo:

Tôi nghe Thầy ông dạy học nhân pháp giới định tuệ, chưa biết Thầy ông nói giới định tuệ, hành tướng như thế nào, ông vì tôi nói xem.

Chí Thành thưa:

Đại sư Thần Tú nói: “Các điều ác chớ làm gọi là giới, các điều thiện vâng làm gọi là tuệ, tự tịnh ý mình gọi là định.” Ngài Thần Tú nói như thế, chưa biết Hòa thượng lấy pháp gì dạy người?
163.HT giảng: Hiện nay thường trên lá phái bằng chữ nho, chúng ta thấy có mấy câu: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.” Đây là bốn câu kệ của Phật Ca-diếp, đó là lời dạy chung của chư Phật. Ngài Thần Tú cũng dạy chư ác mạc tác là giới, chúng thiện phụng hành là tuệ, vì có trí tuệ mới biết điều thiện mà làm, tự tịnh kỳ ý là định.
Tổ bảo:

Nếu tôi nói có pháp cho người tức là nói dối ông, chỉ tùy phương mở trói, giả danh là tam-muội. Như Thầy ông nói giới định tuệ thật là không thể nghĩ bàn, nhưng chỗ thấy giới định tuệ của tôi lại khác.

Chí Thành thưa:

Giới định tuệ chỉ là một thứ vì sao lại có khác?

Tổ bảo:

Thầy ông nói giới định tuệ là tiếp người Đại thừa, còn tôi nói giới định tuệ là tiếp người Tối thượng thừa, ngộ hiểu chẳng đồng, thấy có mau và chậm; ông nghe tôi nói cùng với kia đồng hay chăng? Tôi nói pháp chẳng lìa Tự tánh, lìa thể nói pháp thì gọi là nói tướng, Tự tánh thường mê, phải biết tất cả muôn pháp đều từ nơi Tự tánh khởi dụng, ấy là pháp Chân giới, Chân định, Chân tuệ, hãy lắng nghe tôi nói kệ đây:

Tâm địa vô phi Tự tánh giới,
Tâm địa vô si Tự tánh tuệ,
Tâm địa vô loạn Tự tánh định,
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bản tam-muội.
164.HT giảng: Ngay nơi đất tâm mình mà không có lỗi gọi là Tự tánh giới; đất tâm không si tức là ngay nơi Bản tâm mình mà hằng giác hằng liễu gọi là Tự tánh tuệ, chớ không phải vâng làm những điều lành mới là tuệ; ngay nơi tâm mình không loạn gọi là Tự tánh định.

Ba điểm này để tâm nghiệm xét thì thấy hai bên dạy khác nhau. Không làm các điều ác gọi là giới; làm các điều ác là thân làm, khẩu làm, thân và khẩu là tướng bên ngoài, ngoài thân hành động, miệng nói năng mới gọi là phạm, thân khẩu ngừa tránh làm những điều ác gọi là giới.

Còn Tổ bảo: Ngay nơi tâm mình không dấy niệm ác đó là giới, vừa dấy niệm ác thì đã phạm giới; thành ra một bên ở ngoài ngọn, một bên đi tận gốc. Thế nên nói kia là tướng, đây là tánh, rõ ràng như vậy. Vâng làm các điều lành là tuệ, nói và làm những điều lành tức là hành động, cũng là tướng bên ngoài; lựa điều lành mà làm thì tuệ đó là tuệ của suy tư, của phán xét, tuệ của cái động bên ngoài; còn ngay trong tâm mình hằng liễu liễu thường tri thì tuệ đó là sẵn ở trong tâm, đó mới thật là tuệ.

Chúng ta thấy rõ một bên thuộc về tướng, một bên thuộc về tánh. Tướng là ở ngoài hành động, tánh là đi thẳng vào cội nguồn của tâm. Định của ngài Thần Tú dạy là trụ tâm quán tịnh để định, như vậy lấy cái lặng lẽ làm cảnh để quán, định đó có cảnh bị quán và người hay quán; còn ngay nơi tâm mình không dấy loạn đó là định thì định đó không còn năng sở nữa.

Như vậy chúng ta thấy Lục Tổ chỉ thẳng chỗ tột cùng, nên nói kia tiếp người Đại thừa, đây là tiếp người Tối thượng thừa. Tóm lại, người Đại thừa làm những điều lành, nói những điều lành, cứu giúp người, ví như nói bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v... nhưng vẫn còn là ở hình tướng, còn Tối thượng thừa là bất cứ điều gì cũng không lìa tâm tánh, ngay nơi tâm tánh mà ứng dụng tu, ngay nơi tâm tánh mà sống. Hiểu như thế mới không lầm lẫn, mới hiểu tại sao Ngài nói Ngài là Tối thượng thừa, bên kia là Đại thừa, tức là thấp hơn Ngài một bậc. Thấp tại chỗ nào? Vì bên kia ở ngoài tướng, còn đây là ngay trong tâm tánh, pháp Tối thượng thừa là pháp chỉ thẳng tâm tánh.

Chẳng tăng chẳng giảm tự kim cang”, Tự thể kim cang của mình là không thêm không bớt, vừa thêm vừa bớt tức là có sai biệt, có biến động, còn thể đó như như, không tăng không giảm, gọi là kim cang. “Thân đến thân đi vốn tam-muội”, nếu nơi tâm mình hằng không thêm, không bớt, không động, không tịnh thì dù thân này tới lui qua lại nhưng vẫn ở trong chánh định, chánh định đó không xuất không nhập. Trái lại nếu ngồi kềm mới được định, buông ra thì loạn, đó là có xuất có nhập, mà có xuất có nhập tức không phải là đại định.
Chí Thành nghe kệ rồi hối tạ, mới trình một bài kệ:

Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu kính,
Hồi thú Chân như,
Pháp hoàn bất tịnh.
165.HT giảng: Như vậy nghe Tổ nói, Chí Thành liền tỉnh ngộ. Nơi ngài Thần Tú, Chí Thành thấy Ngài dạy về hình thức, bắt ngồi nhiều, bắt làm lành và giữ không làm ác, tức là căn cứ trên thân ngũ uẩn, nhưng thân ngũ uẩn là thân huyễn hóa, nếu y cứ vào thân huyễn hóa tu thì làm sao được cứu kính? Nếu xoay lại để tìm Chân như thì pháp trở thành bất tịnh, quán để cầu tịnh thì tịnh đó mất rồi! Tóm lại, hai câu trên là căn cứ vào thân tướng mà tu nên chưa phải là cứu kính; hai câu sau là tìm Chân như, mà quán tịnh thì trở thành bất tịnh. Như vậy là Chí Thành hiểu được ý của Lục Tổ, nên Lục Tổ liền ấn khả.
Tổ liền ấn khả đó, lại bảo Chí Thành rằng:

Giới định tuệ của Thầy ông là khuyên dạy người tiểu căn tiểu trí, còn giới định tuệ của tôi là dạy người đại căn đại trí. Nếu ngộ được Tự tánh cũng chẳng lập Bồ-đề, Niết-bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, không một pháp có thể được mới hay dựng lập muôn pháp. Nếu hiểu được ý này cũng gọi là thân Phật, cũng gọi là Bồ-đề Niết-bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người thấy tánh lập cũng được, không lập cũng được, đi lại tự do, không bị trệ ngại, ứng dụng tùy việc làm, nói năng tùy đáp, khắp hiện Hóa thân, chẳng lìa Tự tánh, liền được tự tại thần thông, du hí tam-muội, ấy gọi là kiến tánh.

Chí Thành lại thưa: Thế nào là nghĩa chẳng lập?

Tổ bảo:

Tự tánh không lỗi, không si, không loạn, niệm niệm Bát-nhã quán chiếu, thường lìa pháp tướng, tự do tự tại, dọc ngang trọn được, có gì nên lập? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ, đốn tu cũng không thứ lớp, cho nên chẳng lập tất cả pháp. Các pháp là lặng lẽ, có thứ lớp gì?
166.HT giảng: Chúng ta thấy Tổ dạy thật là thấu đáo. Tôi nhắc lại để thấy điểm Tổ nói. Tổ bảo: Nếu ngộ Tự tánh mà tu thì không lập Bồ-đề, không lập Niết-bàn, không lập Chân như, giải thoát gì cả. Tại sao không lập? Vì ngay thể đó là như vậy, nó không có tên, bởi không tên nên không lập, nhưng vì tùy duyên muốn cho người ta hiểu nên lập Bồ-đề, Chân như, Niết-bàn, vì thế lập cũng được, không lập cũng được.

Còn người học đạo không hiểu cứ chấp theo danh từ Bồ-đề, Chân như, Niết-bàn, nghe Tổ nói cái đó không tên thì giật mình. Hiểu thì lập cũng được, không lập cũng được, còn không hiểu, quen lập rồi nay nghe nói chỗ đó không có Chân như, Niết-bàn, liền hoảng hốt sợ tu đến đó không có gì cả. Nhưng không ngờ khi thấy được cái thật thì cái thật đó nguyên là không tên, sở dĩ có tên là tùy duyên lập để cho người ta hiểu thôi, chớ đâu phải tên đó là thật! Cũng như mỗi người mang một cái tên, tên đó là do bản chất của mình mà thành hay là cái tên giả đặt bên ngoài? Tên là cái giả đặt bên ngoài, còn bản chất là cái của mình. Khi nói đến ai nếu không nói tên, người ta thấy như khó hiểu, nên tên chỉ là giả danh để giản trạch người A khác với người B, người C... Nghĩa là mỗi người khác nhau trên danh tự, chớ sự thật bản chất của mỗi người tự là như thế, không có tên.

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy chủ yếu của Tổ dạy là đi thẳng vào tâm tánh, người ngộ được tâm tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, còn không ngộ tâm tánh nghe nói tu không cần Bồ-đề thì hoảng sợ, vì không cần Bồ-đề thì tu làm chi, chớ không ngờ đến được chỗ đó rồi thì tên không còn quan trọng nữa. Người đến được chỗ đó thì đi lại tự do không bị trệ ngại, ứng dụng thì tùy tác, nếu ai hỏi gì liền đối đáp không cần phải suy nghĩ; nếu nhận được rồi thì không nói sai, còn chúng ta hiện nay vì không thấy, vì chưa nhận được, dù suy nghĩ để nói cho đúng nhưng rồi cũng sai. Tỉ dụ người ta hỏi “Tự tánh như thế nào”, chúng ta suy nghĩ một lúc rồi nói “chắc Tự tánh như thế này, như thế kia v.v...” nhưng càng nói thì càng sai vì chúng ta chưa thấy, còn người thấy rồi nói cách nào cũng được, có khi nạt, có khi hét, có khi đánh, làm thế nào cũng đúng cả. Hiểu như thế chúng ta mới thấy sự tự tại của chư Tổ.

Trở về Tự tánh rồi thì Tự tánh là Bát-nhã, là không si, không loạn, không có lỗi, không kẹt với các tướng nên nói thường lìa pháp tướng, đạt đến đó thì tung hoành tự do. Như vậy là chỗ tu, không có gì là thứ lớp, ngay nơi đó là thể, không có dấy niệm xấu đó là giới, hằng sáng suốt đó là tuệ, hằng yên lặng đó là định, chớ không có thêm cái gì bên ngoài cả.

Người tu thường nói tu phải đủ giới định tuệ, nếu chúng ta hướng về Tự tánh thì Tự tánh đầy đủ giới định tuệ có thiếu sót gì đâu. Nhưng đa số người cứ lập giới tướng, cho đó là tối thượng mà quên ngay Bản tánh! Nếu người nào giữ suốt ngày không dấy niệm ác thì người đó có giữ giới chưa?

Những giới tướng Phật chế ra đối với người đó là dư rồi! Nếu người đó hằng ngày, hằng giờ hằng sáng suốt thì đó là tuệ; còn tâm họ hằng lặng lẽ, đi, đứng, nằm, ngồi vẫn lặng lẽ thì đó là định, đâu cần phải ngồi mới là định.

Hiểu như thế chúng ta mới thấy giới định tuệ sẵn nơi Bản tâm, người biết tu hướng về đó sống thì lúc nào cũng có đủ giới định tuệ. Trái lại người không biết cứ chạy theo giới tướng, mà chạy theo giới tướng nếu có giới nào giữ không được thì sầu khổ.

Tỉ dụ như giới gần nhất là Tỳ-kheo không rời ba y, giả sử có người cần đi đâu gấp, không kịp mang theo đủ ba lá y thì sầu khổ vì phạm giới mất y. Nếu hướng về giới tánh mà sống, chúng ta thấy nhẹ nhàng thảnh thơi, nghĩa là luôn luôn giữ tâm không dấy niệm ác, đó là giữ giới, như vậy ai tu cũng được, xuất gia tại gia đều tu được cả, vì thế Tổ bảo rằng tại gia, xuất gia đều tu được không phải đợi xuất gia mới tu.
Chí Thành liền lễ bái, nguyện làm người hầu hạ, sớm chiều không lười mỏi. Chí Thành là người Thái Hòa Cát Châu.
Nghe được những lời dạy này, ngài Chí Thành ngộ, nên đảnh lễ Tổ một lần nữa và nguyện làm người hầu hạ sớm chiều không lười mỏi. Lúc này Ngài quên về trình lại thầy tức ngài Thần Tú.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Thiền sư Chí Triệt:
Tăng Chí Triệt, quê ở Giang Tây, họ Trương tên Hành Xương, thuở nhỏ là một hiệp khách. Từ khi chia ra hai tông Nam Bắc, hai vị Tông chủ tuy quên bỉ ngã, nhưng đồ chúng tranh nhau khởi yêu ghét. Khi ấy đệ tử của Bắc tông tự lập ngài Thần Tú làm Tổ thứ sáu mà kỵ (vì) Lục Tổ được truyền y, mọi người đều nghe nên mới dạy Hành Xương đến ám sát Lục Tổ.
167.HT giảng: Người tu mà cũng còn có những việc làm như vậy, giữ giới mà đi giết Tổ thì thế nào? Thế nên nhiều khi ái pháp quá cũng thành bệnh nặng, tức là mình quí thầy của mình, muốn đưa thầy mình lên, nhưng có ông thầy khác hơn thầy mình thì không bằng lòng, muốn giết đi nên trở thành người ác, đó là tâm bệnh của người tu.
Tổ tâm thông dự biết việc ấy nên liền để mười lượng vàng ở dưới tòa. Khi ấy ban đêm Hành Xương vào trong thất toan muốn hại Tổ, Tổ đưa cổ cho chém, Hành Xương liền vung kiếm chặt ba lần đều không thương tổn. Tổ bảo:

Kiếm chánh chẳng tà, kiếm tà chẳng chánh, chỉ nợ vàng của ông, không nợ mạng của ông.

Hành Xương hoảng hốt té xỉu, giây lâu mới tỉnh, cầu xin sám hối, liền nguyện xuất gia. Tổ liền cho vàng bảo:

Ông hãy đi, e đồ chúng trở lại hại ông, một ngày khác ông có thể đổi hình dáng mà trở lại, tôi sẽ nhận ông.
Thật lòng đại từ đại bi không thể kể xiết! Nếu có ai hại chúng ta như vậy, mình không đánh đuổi đi là may rồi. Đây Tổ còn đem cho vàng, bảo đi đi, khi nào đổi hình dáng trở lại Tổ độ cho. Sở dĩ Tổ từ bi như thế là do Ngài thấy được nguyên nhân, quả báo từ đời trước nợ nần với nhau thế nào, Ngài thấy rõ không lầm nên dặn khi khác trở lại.
Hành Xương vâng lời dạy, giữa đêm trốn đi, sau theo Tăng xuất gia, thọ giới Cụ túc, tinh cần tu hành. Một hôm ông nhớ lại lời Tổ, từ xa đến lễ ra mắt Tổ. Tổ bảo:

Tôi nhớ ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy?
Lời này nếu không phải là Thánh thì không nói được! Người hại mình khi trở lại cho mình độ thì lễ năm lần mười lượt mình mới tiếp, chớ đâu có nói: Tôi trông ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy? Thật là lòng đại bi không có giới hạn, dù người hại mình nhưng vẫn nhớ độ họ không quên, đó mới thật là đại bi.
Hành Xương thưa:

Trước nhờ ơn Hòa thượng xá tội, ngày nay tuy xuất gia khổ hạnh, trọn khó đền đáp ân đức, đâu mong được truyền pháp độ sanh ư? Đệ tử thường xem kinh Niết-bàn, chưa hiểu được nghĩa thường và vô thường, cúi xin Hòa thượng từ bi lược vì giải nói.

Tổ bảo:

Vô thường tức là Phật tánh, hữu thường tức là tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy.
Tổ nói như thế, ai mà không nghi? Kinh Niết-bàn nói: Niết-bàn là thường, các pháp là vô thường, nhưng nay hỏi thì Tổ bảo Phật tánh là vô thường, còn tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác là thường.
Hành Xương thưa rằng:

Hòa thượng nói pháp rất trái với văn kinh.

Tổ bảo:

Ta được truyền tâm ấn của Phật, đâu dám trái với kinh Phật.

Hành Xương thưa:

Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng lại nói là vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ-đề đều là vô thường mà Hòa thượng lại nói là thường, đây tức trái nhau, khiến cho học nhân càng thêm nghi ngờ.

Tổ bảo:

Kinh Niết-bàn thuở xưa tôi có nghe Ni Vô Tận Tạng đọc một lần liền vì bà giảng nói, không có một chữ, một nghĩa nào không hiệp với văn kinh, cho đến vì ông nói cũng trọn không có hai thuyết.

Hành Xương thưa:

Học nhân thức lượng cạn tối, cúi mong Hòa thượng lượng theo mà từ bi khai thị.

Tổ bảo:

Ông biết chăng, Phật tánh nếu thường lại nói gì là các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một người phát tâm Bồ-đề, nên tôi nói là vô thường, mà chính là đạo Chân thường của Phật nói.
168.HT giảng: Nếu Phật tánh thường thì làm sao nói các pháp từ Tự tánh sanh, Tự tánh tức là Phật tánh, nếu thường thì đâu sanh các pháp. Nhưng nó sanh các pháp tức là vô thường, cho đến cùng kiếp không có ai phát Bồ-đề tâm, có phát Bồ-đề tâm tức là vô thường, nghĩa là có ác rồi mới phát tâm lành, nếu luôn lành thì có phát tâm lành chi nữa.

Chúng ta thường nói: tôi phát Bồ-đề tâm để học đạo, là vì trước không có nay mới có, như thế là vô thường chớ không phải thường. Nhưng Tổ lại bảo tiếp: “Tôi nói vô thường mà chính là đạo Chân thường của Phật nói!”

Chúng ta nên hiểu rằng Phật nói Phật tánh là thường là y cứ trên thể mà nói, còn Tổ nói vô thường là y cứ trên dụng mà nói. Hành Xương nghe trong kinh Niết-bàn nói thì quen chấp theo thể, nay ngược lại Tổ nói cái dụng cho ông thấy. Nói thể nói dụng là phương tiện, đâu có thật, đây là cái khéo của Tổ.
Lại tất cả pháp nếu là vô thường, tức mỗi vật đều có Tự tánh, dung thọ sanh tử mà tánh Chân thường có chỗ bất biến, nên tôi nói thường chính là Phật nói nghĩa chân vô thường.
169.HT giảng: Ngài nói tất cả pháp nếu vô thường thì mỗi vật đều có Tự tánh, tuy là thọ nhận sanh tử, có biến hoại nhưng trong đó vẫn có một cái thường, vì có tánh thường mới hiện ra được. Chúng ta có thể tạm ví dụ như làm thành bình, nồi, lò, lu v.v... là từ đất, như vậy bình, lò, nồi, lu v.v... có hình, có tướng, có hình có tướng thì phải hoại, những hình tướng đó hoại rồi, đất có mất hay không? Tất cả hình tướng đó là vô thường nhưng đất là thường, dù khi chưa làm thành bình, đất vẫn là đất, khi tan rã cũng trở về đất, có đổi thay chi đâu, đổi thay chỉ là đổi hình tướng của nồi lu v.v... Cũng vậy, tất cả pháp sanh ra, tuy hình tướng là vô thường nhưng thể của pháp có cái chân thường ở trong, vì vậy nên Ngài nói thẳng vào thể nó là thường.

Trong đoạn trước bàn về Phật tánh, kinh nói Phật tánh là thường là đứng về thể, ngược lại đứng về dụng Ngài nói Phật tánh là vô thường, vì nếu là thường tại sao có sanh thiện ác, có phát Bồ-đề tâm v.v...? Nếu có sanh thiện ác, có phát Bồ-đề tâm tức là vô thường. Như vậy người ta chỉ nhận được cái thể trong kinh nói mà không nhận được cái dụng, nên Ngài lấy dụng để cho người ta hiểu thể, thể dụng đối lập để phương tiện giáo hóa. Đến đoạn này người ta chấp trên tướng trên dụng là vô thường thì Ngài nói có tánh thường, đó là lối nói khéo của Ngài.
Phật xưa vì phàm phu ngoại đạo chấp tà thường, còn các hàng Nhị thừa thường mà chấp là vô thường, cọng thành tám thứ điên đảo, nên trong giáo lý liễu nghĩa kinh Niết-bàn phá thiên kiến kia mà hiển bày Chân thường, Chân lạc, Chân ngã, Chân tịnh. Nay ông y theo lời nói mà trái với nghĩa, dùng đoạn diệt vô thường và xác định cái tử thường mà lầm hiểu lời nói mầu nhiệm viên diệu tối hậu của Phật, dù có xem một ngàn biến kinh thì có lợi ích gì?

170.HT giảng: Tôi giải thích rõ đoạn này. Tổ bảo xưa đức Phật vì phàm phu và Nhị thừa chấp tám thứ điên đảo.

Phàm phu có bốn điên đảo, đó là gì? Thân ngũ uẩn vô thường mà chấp là thường. Chúng ta có chấp nó là thường không? Nếu ai cũng biết thân này là vô thường thì đâu có chấp thường. Nếu ai cũng thấy nó vô thường thì lúc nào cũng phải có niệm mạng sống chỉ trong hơi thở, nhưng chúng ta có thấy như vậy không? Chúng ta còn tính kế trăm năm. Vì tính kế trăm năm nên chúng ta thấy nó là thường, nếu biết nó vô thường thì tính kế trăm năm làm gì.
Trên lý, nghe Phật nói vô thường chúng ta cũng hiểu vậy, nhưng trong cuộc sống, chúng ta vẫn tính kế lâu dài, tính năm nay làm việc gì, năm tới, năm tới nữa làm việc gì v.v... như thế là chúng ta đâu thấy nó vô thường. Thế nên thấy dường như chúng ta không chấp, nhưng sự thật chúng ta luôn luôn chấp thân là thường. Thân vô thường mà chấp là thường, đó là cái điên đảo thứ nhất.

Điên đảo thứ hai: Đã là vô thường tức là đổi thay, là bại hoại nên gọi là khổ, nhưng chúng ta lại thấy lúc nào cũng vui, nên mở miệng ra là nói hạnh phúc v.v... Hãy kiểm lại xem một ngày chúng ta vui được bao nhiêu giờ? Độ vài tiếng đồng hồ! Vì là vô thường nên gốc là khổ, không phải vui mà chúng ta lại tưởng là vui, khổ mà tưởng là lạc, đó là cái điên đảo thứ hai.

Điên đảo thứ ba: Thân này nhơ nhớp nhưng chúng ta có nghĩ nó nhơ nhớp đâu. Có ai lúc nào cũng nhớ thân mình nhơ nhớp không? Tắm rửa, chải đầu v.v... thấy mình cũng đẹp cũng sạch sẽ, nếu ai chê mình dơ, hôi hám... là nổi giận liền. Nếu biết mình dơ thì người chê mình dơ, mình đâu có giận.
Trong nhà Phật thường nói thất khiếu cửu huyệt tức là bảy lỗ hoặc chín lỗ thường rịn ra những chất, những chất đó sạch không? Rịn ra mũi, nước mũi sạch không? Rịn ra tai sạch không? Đến khối ghèn ở mắt có sạch không? Đó là nói phần trên mặt mà chúng ta còn không ưa nổi, huống nữa là những cặn bã đi xuống, nếu thân sạch thì đâu có những chuyện đó. Rõ ràng như thế mà lúc nào cũng thấy thân là sạch, thấy trái với lẽ thật không phải điên đảo là gì? Bất tịnh mà tưởng là tịnh, đó là cái điên đảo thứ ba.

Điên đảo thứ tư: Lại chấp tứ đại, thân xác thịt là ta, nhưng khi hỏi trong tứ đại cái gì là ta thì không ai đáp được. Đến phần tinh thần, hỏi thọ tưởng hành thức, cái nào là ta cũng không nói được. Như vậy chỉ là một hợp thể gồm nhiều thứ, tùy duyên hợp lại thành một khối tạm gọi là ta mà chúng ta lại chấp thật mình có chủ tể, lúc nào cũng nói tôi, tôi làm chủ. Vô ngã tưởng là ngã, không có chủ tể tưởng là có chủ tể là cái điên đảo thứ tư.

Tóm lại trong nhà Phật gọi bốn cái chấp điên đảo của phàm phu là vô thường chấp thường, khổ chấp lạc, bất tịnh chấp tịnh, vô ngã chấp là ngã.

Trái lại hàng Nhị thừa thấy thân này là 1.vô thường, thân này là 2.khổ, thân này là 3.bất tịnh, thân này là 4.vô ngã nên các vị chán sợ mà nhập Niết-bàn, vì thế Phật nói đó cũng là bốn cái điên đảo. Tại sao?

Tuy thân này vô thường, nhưng trong cái vô thường đó có cái Chân tánh thường; thân này là khổ, nhưng nếu ngộ được Chân tánh thì là lạc; thân này tuy bất tịnh, nhưng ngộ được Chân tánh thì là tịnh; thân này là vô ngã, nhưng Chân tánh là chủ thể, là ngã.

Như khi chúng ta nhận được cái hằng liễu tri của mình, thử hỏi cái đó tịnh hay bất tịnh? Nó là thanh tịnh nên nói Pháp thân thanh tịnh, Pháp thân là ngã chớ gì, làm sao mất được.

Như vậy đối với phàm phu, các hàng Nhị thừa thấy đúng lẽ thật, nhưng thấy đúng lẽ thật trên tướng mà không nhận ra tánh nên đó cũng là điên đảo.

Bốn điên đảo của Nhị thừa cọng với bốn điên đảo của phàm phu thành ra bát đảo. Phật nói pháp là vì phá cái chấp của phàm phu, rồi đến phá chấp của Nhị thừa, để đưa đến Niết-bàn đầy đủ bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Đó là yếu chỉ của kinh Niết-bàn.
170.Toát yếu: Học pháp, khi hành giả biết được lời hay câu nói là "Thể" hay câu đó là "dụng".
Hoặc "Tướng" hay "Tánh" để phân biệt lời người đối thoại là mục đích của thuận luận. Ví dụ về Hàng hữu học thấy được các Pháp
1.vô thường = Tánh là Thường.
2.khổ = Tánh là Lạc.
4.vô ngã = Tánh là Ngã
3.bất tịnh = Tánh là Tịnh.
Hành Xương bỗng nhiên đại ngộ, liền nói kệ rằng:

Nhân thủ vô thường tâm,
Phật thuyết hữu thường tánh,
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền,
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
171.HT giảng: Vì giữ tâm vô thường nên Phật nói có tánh thường, tức là vì hàng Nhị thừa thấy các pháp là vô thường nên đức Phật chỉ có tánh thường ở trong; không biết được phương tiện của Phật nói, ví như mùa Xuân nhảy xuống ao để mò gạch. Đây là thí dụ trong kinh Niết-bàn để phân biệt hàng Nhị thừa với Bồ-tát.

Vào một mùa Xuân có một nhóm người bơi thuyền dạo chơi trên hồ nước trong, có người cầm viên ngọc bất chợt sẩy tay ngọc rớt xuống nước, ông ta hối bảo những người trên thuyền nhảy xuống hồ mò tìm. Những người ấy nhảy ùm xuống quơ mò được hòn gạch liền nắm lấy đưa lên nói được ngọc rồi, nhưng khi mở tay ra chỉ là hòn gạch. Khi ấy có một người trí chờ nước lóng trong, thấy rõ viên ngọc nằm chỗ nào, mới từ từ lặn xuống, nhẹ nhẹ đưa tay đến chỗ viên ngọc, nắm lấy đem lên. Hàng Nhị thừa giống như những người nhảy xuống ao lượm gạch đưa lên nói là ngọc, vì cứ nghĩ dưới ao có ngọc nên vội nhảy xuống, lượm được cái gì thì tin cái đó là ngọc, thật sự không phải ngọc mà lầm tưởng là ngọc. Hàng Bồ-tát như người khôn ngoan kia, đợi thấy rõ viên ngọc ở đâu mới từ từ lượm nó đem lên, đó mới là ngọc thật. Hàng Bồ-tát nhận được Phật tánh rồi mới tiến tu đến chỗ giác ngộ không lầm, còn hàng Nhị thừa chấp vào phương tiện Phật dạy để được định rồi hài lòng nơi đó, nhưng không ngờ là chưa đến cứu kính. Thế nên người không hiểu phương tiện của Phật cũng chấp như người nhảy xuống ao lượm gạch vậy.
Nay tôi chẳng cần thực hiện công phu mà Phật tánh được hiện tiền, không phải thầy trao cho, tôi cũng không sở đắc.
Tổ bảo:

Nay ông mới triệt vậy, nên đặt tên ông là Chí Triệt.

Chí Triệt lễ tạ mà lui.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Thiền sư Thần Hội:
Có một chú bé tên là Thần Hội ở Tương Dương, con nhà họ Cao, mười ba tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.

Tổ hỏi:

Tri thức từ xa nhọc nhằn đến lại đem được cái gốc đến chăng? Nếu có gốc thì nên biết được Ông chủ, thử nói xem?

Thần Hội thưa:

Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.

Ông Sa-di này có vẻ cứng cỏi rồi!

Tổ bảo: Ông Sa-di này đâu nên nói như thế.

Thần Hội liền hỏi:

Hòa thượng tọa thiền lại thấy hay chẳng thấy?

Tức là Hòa thượng tọa thiền lại thấy tánh hay không thấy tánh, rõ ràng là trẻ con, nếu không thấy tánh sao được truyền y làm Tổ.

Tổ cầm gậy đánh ba gậy hỏi:

Tôi đánh ông đau hay chẳng đau?

Thần Hội cũng thật là gan.
Thần Hội đáp: Cũng đau cũng không đau.

Giả sử hiện nay mấy chú Sa-di bị đánh ba gậy thì cứ khóc thôi, chớ còn nói gì nữa!
Tổ bảo: Tôi cũng thấy cũng chẳng thấy.

Thần Hội hỏi: Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?

Tổ bảo:

Chỗ thấy của tôi thường thấy những lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy phải quấy tốt xấu của người khác, ấy do cũng thấy mà cũng chẳng thấy.

Vì là Sa-di nên Tổ phải dạy như thế.
Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu ông chẳng đau thì đồng như cây đá, nếu ông đau thì đồng với phàm phu, tức khởi sân hận, ông về trước thấy và chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt, ông Tự tánh lại chẳng thấy mà dám đùa với người.

Tổ quở nặng.

Thần Hội liền lễ bái sám hối. Tổ lại nói:

Tâm ông nếu mê chẳng thấy thì hỏi Thiện tri thức để tìm đường, còn tâm ông nếu ngộ tức tự thấy tánh, y pháp tu hành, ông tự mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì tự biết há thay cái mê cho ông, nếu ông tự thấy cũng chẳng thay được cái mê cho ta, sao chẳng tự biết tự thấy mà hỏi ta thấy cùng chẳng thấy.
172.HT giảng: Tổ quở thêm một lần nữa. Ngài Thần Hội mới mười ba tuổi nhưng thông minh, có lẽ cũng hơi hiểu nên tới lễ Tổ, khi Tổ hỏi thì đáp có vẻ cứng cỏi, nhưng đến khi hỏi Tổ ngồi thiền có thấy tánh hay không, liền hiện ra tướng con nít nên bị Tổ ra oai đập ba gậy. Người xưa đi học đạo là xem thường sự sống chết nên dù bị đánh cũng vẫn đối đáp như thường, còn chúng ta hiện nay nếu bị đánh như vậy thì khóc mướt rồi, đó là điểm đặc biệt.
Thần Hội lại lễ hơn một trăm lạy, xin sám hối tội lỗi rồi siêng năng hầu hạ bên cạnh không rời.

Một hôm Tổ bảo chúng:

Tôi có một vật không đầu, không đuôi, không danh, không tự, không lưng, không mặt, các người lại biết chăng?

Thần Hội bước ra nói rằng:

Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.

Vì Ngài còn trẻ, khi hiểu lời nói thì không thể làm thinh, nên đứng ra nói liền: Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.

Tổ bảo:

Tôi đã nói với ông không danh không tự, ông liền gọi là bản nguyên, là Phật tánh, ông nhằm đi lấy cỏ tranh che đầu, cũng chỉ thành cái hạng tông đồ của tri giải.

Danh tự cũng như là một mớ cỏ che ngoài đầu chớ không phải là cái thật, phải thấy cái thật đó chớ đừng dùng danh tự.

Sau khi Tổ diệt độ, Ngài Thần Hội vào Kinh Lạc(1), hoằng truyền pháp đốn giáo Tào Khê, viết quyển Hiển Tông Ký thạnh hành ở đời, gọi là Thiền sư Hà Trạch.

Tổ thấy các tông nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, phần nhiều nhóm ở dưới tòa của Tổ, Ngài thương xót mới bảo rằng:

Người học đạo, tất cả niệm thiện, niệm ác nên phải dẹp sạch, không tên có thể gọi, ấy gọi là Tự tánh, tánh không hai ấy gọi là Thật tánh, trên Thật tánh dựng lập tất cả giáo môn, ngay lời nói liền phải tự thấy.
173.HT giảng: Tổ thấy các tông phái khác nhau như về Thiền thì có Nam Bắc, hoặc là Tịnh hoặc là Mật tông v.v... phần nhiều nhóm họp dưới tòa của Tổ, vì họ thường nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, nên Tổ thương xót bảo cho tất cả biết rằng còn có một niệm thiện hay một niệm ác cũng phải dẹp sạch, cái không tên có thể gọi mới gọi là Tự tánh; nếu còn nói đây là đốn, kia là tiệm, đây là Không tông, kia là Hữu tông v.v... còn chấp vào danh tự thì chưa phải là cái thật.

Tánh không hai ấy gọi là Thật tánh, trên Thật tánh đó dựng lập các giáo môn, ngay đó mình phải thấy được Tự tánh chớ đừng chấp.

Các người nghe nói, thảy đều làm lễ, xin thờ Ngài làm Thầy.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phẩm 9: Tuyên chiếuTuyên chiếu tức là đọc chiếu nhà vua.
Niên hiệu Thần Long năm đầu (705 TL) vào ngày rằm tháng giêng vua Trung Tông và Tắc Thiên ban chiếu rằng:

Trẫm thỉnh hai sư An và Tú vào trong cung cúng dường, mỗi khi rảnh việc thì nghiên cứu về Nhất thừa, hai Sư đều nhường rằng: Phương Nam có Huệ Năng thiền sư được mật trao pháp y của Đại sư Hoằng Nhẫn, được truyền Phật tâm ấn, nên thỉnh người đến thưa hỏi. Nay sai Nội thị Tiết Giản mang chiếu nghinh thỉnh, mong Thầy từ niệm, chóng đến Kinh đô.

Tổ dâng biểu từ bệnh, nguyện trọn đời ở nơi rừng núi. Tiết Giản thưa:

Ở kinh thành, các Thiền đức đều nói rằng: Muốn được hội đạo ắt phải tọa thiền tập định, nếu chẳng nhân nơi Thiền định mà được giải thoát là chưa từng có vậy, chưa biết Thầy nói pháp như thế nào?

Tổ bảo:

Đạo do tâm mà ngộ, há tại ngồi sao? Kinh nói: Nếu nói Như Lai hoặc ngồi hoặc nằm, ấy là người hành đạo tà. Vì cớ sao? Không từ đâu lại cũng không có chỗ đi, không sanh không diệt, ấy là Như Lai thanh tịnh thiền.
174.HT giảng:Chúng ta nên hiểu rõ Như Lai thanh tịnh thiền Tổ giảng ở đây.
Kinh Kim Cang nói: “Như Lai giả vô sở tùng lai diệc vô sở khứ cố danh Như Lai.” Tại sao? Vì Như Lai trong kinh nói là chỉ Pháp thân thanh tịnh, Pháp thân thanh tịnh là thể, không dao động, không đến đi, nếu thấy có đến đi là thấy sự dao động của hình tướng, tướng dao động là tướng sanh diệt, còn Thể thanh tịnh không đến, không đi, vì thế nói không từ đâu đến cũng không đi đâu. Như Lai thanh tịnh thiền là thiền sống với Tự tánh thanh tịnh của mình. Tánh thanh tịnh của mình gọi là Như Lai, là Phật, nên cũng gọi là Phật tánh. Tánh thanh tịnh không đến, không đi, không qua, không lại, người nhận được tánh, buông xả những vọng niệm, hằng sống với nó, không nói ngồi hay đi đứng gì cả, giờ phút nào cũng đều là thanh tịnh, đó mới thật là Như Lai thanh tịnh thiền.
Các pháp rỗng lặng ấy là Như Lai thanh tịnh tọa, cứu kính không chứng, há lại có ngồi ư?
Tức là chúng ta thấy các pháp rỗng lặng, không bị nó lôi cuốn, đó gọi là Như Lai thanh tịnh tọa, cứu kính còn không chứng huống nữa là có ngồi.
Tiết Giản thưa:

Đệ tử trở về kinh, Chúa thượng ắt hỏi, cúi mong Thầy từ bi chỉ bày tâm yếu, để tâu lại hai cung và những người học đạo ở kinh thành, ví như một ngọn đèn mồi trăm ngàn ngọn đèn, chỗ tối đều được sáng, sáng mãi không cùng.

Tổ bảo:

Đạo không có sáng tối, sáng tối ấy là nghĩa thay nhau.
Chúng ta cứ nghĩ theo lệ thường là đốt được một ngọn đèn rồi mồi ngọn khác làm cho sáng mãi không tối. Tổ quở: Đạo không phải là tối sáng vì tối sáng là đối đãi mà Đạo không phải đối đãi.
Sáng mãi không cùng cũng là có ngày hết, vì đối đãi mà lập tên. Kinh Tịnh Danh nói: Pháp không có so sánh vì không có đối đãi.

Tiết Giản thưa:

Sáng dụ cho trí tuệ, tối dụ cho phiền não, người tu đạo như chẳng dùng trí tuệ chiếu phá phiền não thì cái sanh tử từ vô thủy nương vào đâu mà ra khỏi.

Tổ bảo:

Phiền não tức là Bồ-đề, không hai, không khác, nếu dùng trí tuệ chiếu phá phiền não, đây là kiến giải của hàng Nhị thừa, căn cơ xe nai xe dê, còn những bậc thượng trí đại căn, ắt không như thế.

175.HT giảng:Luôn luôn chúng ta tu theo sự đối đãi, chúng ta nghĩ rằng phiền não là xấu là tối, phải dùng trí tuệ để phá nó; nhưng thử hỏi phiền não có thật không? Thường người tu hay nói khổ nhất là sân, đang bình tĩnh, có ai nói tức liền nổi giận lên, quên hết đạo lý, như vậy sân làm chướng đạo.

Nhưng nay ta vừa nổi sân liền cố gắng nhìn xem sân ở đâu, nó như thế nào, nếu nó là thật, tìm chắc thấy nó có một hình tướng nào đó, nhưng tìm lại thì nó mất tiêu. Nếu mất thì sân đâu có thật, đã không thật thì phá cái gì? Thế nên sân đã không thật mà khởi trí để phá nó thì trí cũng không thật, cả hai đều không thật, trong đối đãi không thật mà thấy là thật, đó là kiến giải Nhị thừa.
Trái lại thấy cả hai không thật, khởi lên là tướng huyễn hóa không thật, khi lặng xuống đó mới là chân thật, đến chỗ chân thật không còn đối đãi nữa, mới là đạo thật và chỉ những người thượng trí đại căn mới có thể hiểu được. Khi Tổ bảo chiếu phá như vậy là kiến giải Nhị thừa thì:
Tiết Giản thưa:

Thế nào là kiến giải Đại thừa?

Tổ đáp:

Minh cùng với vô minh, phàm phu thấy hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai.
Sáng và tối đều là giả tướng, người trí thấy rõ tánh nó là không hai, vì trên tướng biết là hư giả, lặng xuống là Tự tánh thanh tịnh.
Tánh không hai tức là Thật tánh; Thật tánh ở phàm ngu mà chẳng giảm, ở Hiền Thánh mà chẳng tăng, trụ trong phiền não mà không loạn, ở trong Thiền định mà chẳng lặng lẽ, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở khoảng giữa và trong ngoài, không sanh không diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng đổi gọi đó là đạo.
Cái thể không sanh không diệt, không tăng không giảm, không phải không quấy v.v... gọi là đạo, cũng gọi là Phật tánh, cũng gọi là Chân như. Chúng ta căn cứ trên đối đãi thì được cũng chỉ là được trên đối đãi, được thiện cũng là thiện đối đãi, được thanh tịnh cũng là thanh tịnh đối đãi chớ không phải là thật. Khi nào lặng hết những đối đãi đó mới là thật.
Tiết Giản thưa:

Thầy nói chẳng sanh chẳng diệt đâu khác với ngoại đạo?
Tức là ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, Tổ cũng nói chẳng sanh chẳng diệt thì hai bên giống nhau rồi.
Tổ bảo:

Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt là đem cái diệt để dừng cái sanh, lấy cái sanh để bày cái diệt, diệt vẫn chẳng diệt, sanh nói không sanh. Ta nói chẳng sanh chẳng diệt là vốn tự không sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên không đồng với ngoại đạo.
Ngoại đạo nói không sanh không diệt là đối đãi trên sanh diệt mà nói, chớ không phải nói đến chỗ không hai, thể vốn không sanh, nay làm gì có diệt?
Nếu ông muốn biết tâm yếu, chỉ tất cả thiện ác trọn chớ suy nghĩ, tự nhiên được vào Tâm thể thanh tịnh, lặng lẽ thường tịch, diệu dụng hằng sa.
176.HT giảng: Tâm yếu Tổ chỉ ở đây đâu có khác với tâm yếu chỉ cho Thượng tọa Minh. Thế nên chúng ta học tuy là nhiều, nhưng lâu lâu cũng thấy Ngài nhắc lại tâm yếu đó: trong ngoài buông cả thiện ác và khi thiện ác lặng hết, đó là Tâm thể thanh tịnh, lặng lẽ thường tịch, nhưng diệu dụng hằng sa, chớ không phải lặng lẽ thanh tịnh rồi không biết đi lại, không biết nói năng, đầy đủ diệu dụng nhưng không rời Tâm thể.
Tiết Giản nhờ chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, lễ từ trở về cung dâng biểu tâu lên những lời của Tổ. Ngày mùng ba tháng chín năm ấy có chiếu tưởng dụ Sư rằng:

Thầy từ vì già bệnh, vì trẫm mà tu hành, làm phước điền cho đất nước. Thầy cũng như ngài Tịnh Danh giả bệnh nơi thành Tì-da để xiển dương Đại thừa, truyền tâm chư Phật, nói pháp bất nhị. Tiết Giản truyền lại lời Thầy chỉ dạy tri kiến Như Lai, trẫm chứa được nhiều công đức lành, gieo được hạt giống lành đời trước, mới gặp Thầy ra đời, đốn ngộ pháp thượng thừa, cảm ân đức Thầy, đầu đội không thôi, cùng dâng chiếc ma-nạp ca-sa và bát thủy tinh, sắc cho Thứ sử Thiều Châu sửa sang lại chùa và ban hiệu chùa cũ Thầy ở là chùa Quốc Ân.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phẩm 10: Phó chúc
Phẩm này là phần dặn dò sau cùng của Lục Tổ.
Một hôm Tổ gọi đệ tử là Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như v.v... bảo rằng:

Các ông không đồng với những người khác, sau khi tôi diệt độ, mỗi người làm Thầy một phương, nay tôi dạy các ông nói pháp không mất bản tông, trước phải dùng ba khoa pháp môn, động dụng thành ba mươi sáu đối, ra vào tức lìa hai bên, nói tất cả pháp chớ lìa Tự tánh; chợt có người hỏi pháp, ông xuất lời nói trọn trong đối đãi, đều lấy pháp đối đi lại làm nhân cho nhau, cứu kính hai pháp thảy đều trừ, lại không có chỗ đi.
177.HT giảng:Một hôm Tổ gọi đệ tử là Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như v.v... bảo rằng:

Nếu là người học đạo, nhất là người xuất gia, hiểu được Thiền tông, có ai hỏi đạo lý chúng ta phải ứng dụng đối đáp làm sao để không mất bản tông, tức là tông chỉ chánh yếu của Phật, Tổ dạy. Muốn không mất bản tông, Tổ dạy phải dùng ba khoa pháp môn, trong đó do sự động dụng thành ba mươi sáu pháp đối, ra vào lìa hai bên chớ không kẹt ở hai bên, như vậy nói tất cả pháp mà không rời Tự tánh. Giả sử có ai chợt hỏi thì chúng ta trả lời luôn luôn dùng hai cái đối đãi làm nhân cho nhau, cứu kính cả hai đều dẹp, khi dẹp rồi không còn chỗ để dẹp nữa mới hợp đạo lý. Tổ giải thích:
Ba khoa pháp môn là ấm, giới, nhập vậy.
Ấm là ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức;
Nhập là thập nhị nhập, ngoài có sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trong có sáu cửa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; giới là thập bát giới: sáu trần, sáu cửa và sáu thức. Tự tánh hay gồm muôn pháp gọi là hàm tàng thức, nếu khởi suy nghĩ tức là chuyển thức sanh sáu thức ra sáu cửa, thấy sáu trần, như thế thành mười tám giới, đều từ nơi Tự tánh khởi dụng.
Tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, Tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, gồm ác dụng tức là dụng chúng sanh, thiện dụng tức là dụng Phật, dụng do những gì? Do Tự tánh mà có.

Đối pháp, ngoại cảnh vô tình có năm đối: Trời cùng đất đối, mặt trời cùng mặt trăng đối, sáng cùng tối đối, âm cùng dương đối, nước cùng lửa đối, đây là năm đối.

Pháp tướng ngữ ngôn có mười hai đối: Ngữ cùng pháp đối, có cùng không đối, có sắc cùng không sắc đối, có tướng cùng không tướng đối, hữu lậu cùng vô lậu đối, sắc cùng không đối, động cùng tịnh đối, trong cùng đục đối, phàm cùng Thánh đối, tăng cùng tục đối, già cùng trẻ đối, lớn cùng nhỏ đối, đây là mười hai đối vậy.

Tự tánh khởi dụng có mười chín đối: Dài cùng ngắn đối, tà cùng chánh đối, si cùng tuệ đối, ngu cùng trí đối, loạn cùng định đối, từ cùng độc đối, giới cùng lỗi đối, thẳng cùng cong đối, thật cùng hư đối, hiểm cùng bình đối, phiền não cùng Bồ-đề đối, thường cùng vô thường đối, bi cùng hại đối, hỉ cùng sân đối, xả cùng bỏn sẻn đối, tiến cùng thối đối, sanh cùng diệt đối, pháp thân cùng sắc thân đối, hóa thân cùng báo thân đối, đây là mười chín pháp đối vậy.
Tổ dạy chúng ta thật là kỹ. Phần nhiều đọc qua đoạn này ít ai chú tâm đến, thấy như là dùng danh từ thôi, không có gì quan trọng nhưng thật ra đây là điểm then chốt trong lối đối đáp của nhà Thiền. Nếu chúng ta không hiểu được điểm này thì đọc sách Thiền không thể nào hiểu nổi.
Tổ bảo:

Ba mươi sáu pháp đối này nếu hiểu mà dùng tức là đạo, quán xuyến tất cả kinh pháp, ra vào tức lìa hai bên, Tự tánh động dụng, cùng người nói năng, ngoài đối với tướng mà lìa tướng, trong đối với không mà lìa không, nếu toàn chấp tướng tức là tăng trưởng tà kiến, nếu toàn chấp không tức tăng trưởng vô minh, người chấp không là có chê bai kinh. Nói thẳng chẳng dùng văn tự, đã nói chẳng dùng văn tự thì người cũng chẳng nên nói năng, chỉ lời nói năng này liền là tướng văn tự. Lại bảo: nói thẳng chẳng lập văn tự tức hai chữ chẳng lập này cũng là văn tự, thấy người nói liền chê bai người ta nói là chấp văn tự. Các ông nên biết tự mình mê thì còn khả dĩ, lại chê bai kinh Phật, không nên chê bai kinh vì đó là tội chướng vô số.
Thấy người ta xem kinh liền nói là chấp văn tự, đó là nguy hiểm, là mang tội.
Nếu chấp tướng bên ngoài mà tác pháp cầu chân, hoặc rộng lập đạo tràng, nói lỗi lầm có không, những người như thế nhiều kiếp không thể thấy tánh; chỉ nghe y pháp tu hành, lại chớ có trăm vật chẳng nghĩ, mà đối với đạo tánh sanh chướng ngại; nếu nghe nói chẳng tu khiến người biến sanh tà niệm, chỉ y pháp tu hành, bố thí pháp mà không trụ tướng. Các ông nếu ngộ, y đây mà nói, y đây mà dùng, y đây mà hành, y đây mà tạo tác, tức không mất bản tông.

Nếu có người hỏi nghĩa ông, hỏi có thì đem không đáp, hỏi không thì đem có đáp, hỏi phàm thì đem Thánh đáp, hỏi Thánh lấy phàm đáp, hai bên làm nhân cho nhau sanh ra nghĩa trung đạo, như một hỏi một đáp, bao nhiêu câu hỏi khác đều y đây mà khởi tác dụng, tức không mất chân lý.

Giả sử có người hỏi sao gọi là tối thì đáp rằng: sáng là nhân, tối là duyên, sáng mất tức là tối. Dùng sáng để hiển tối, dùng tối để hiển sáng, qua lại làm nhân cho nhau thành nghĩa trung đạo, ngoài ra hỏi những câu khác thảy đều như đây mà đáp. Các ông về sau truyền pháp y đây mà chỉ dạy cho nhau, chớ làm mất tông chỉ.
178.HT giảng: Đây là lời dặn dò của Tổ, Tổ sợ đệ tử sau này ra truyền pháp nói trái với đạo lý, lời dặn này chắc là có. Giả sử hiện nay có người hỏi thế nào là tối, chúng ta giải nghĩa tối là không thấy, mờ mịt không thấy gọi là tối, luôn luôn chúng ta giải nghĩa như thế. Nhưng Tổ không cho giải thích như vậy, hỏi thế nào là tối thì đáp rằng nhân sáng mà có tối, sáng mất là tối, cũng như tối mất là sáng.

Nói như thế khó hiểu hay dễ hiểu? Mới nghe thấy lạ quá! Tại sao giải nghĩa như vậy? Tỉ dụ hỏi thế nào là dài thì đáp nhân nơi ngắn mà có dài, hỏi thế nào là ngắn, đáp nhân dài mà có ngắn, nghĩa là mỗi cái đều là nhân của nhau, đáp như thế người nghe sẽ không kẹt hai bên, không kẹt hai bên tức là đạt được lý trung đạo, là thấy đạo.

Trái lại chúng ta giải nghĩa đâu là kẹt đó, nên người nghe không thấy đạo chi cả. Ví dụ như nói về dài ngắn, tôi hỏi quí vị hai cây thước này, so với cây thước ngắn thì cây thước dài là dài, phải không? Nếu có cây thước khác dài hơn cây thước dài thì cây thước dài thành ngắn. Như vậy nhân cây thước ngắn mà gọi cây thước dài là dài, và nhân cây thước khác dài hơn nữa nên cây thước dài thành ngắn, vậy dài ngắn không cố định.

Danh từ dài ngắn là đối đãi, do đối đãi mà thành chớ không có thật, nhưng chúng ta giải nghĩa điều gì cũng quyết định là thật, đó là làm cho người ta mắc kẹt. Khi hỏi thế nào là dài, nếu đáp nhân ngắn mà có dài thì người ta biết rằng “dài” không thật, nhân đối đãi với ngắn mà có; khi hỏi thế nào là ngắn thì đáp nhân dài mà có ngắn, như vậy dài ngắn là không thật mà không thật tức là không kẹt hai bên.

Trái lại nói dài nhất định là dài, ngắn nhất định là ngắn, là hoặc kẹt bên này hoặc kẹt bên kia. Tối và sáng cũng thế. Đến lớn nhỏ cũng vậy. Một vật so với vật nhỏ hơn nó thì nó lớn, nhưng nếu so với vật lớn hơn nó thì nó trở thành nhỏ. Như vậy trên thế gian này lớn nhỏ dài ngắn tối sáng v.v... đều là danh từ đối đãi, “tương đãi” là cái này đối với cái kia mà lập, chớ nó không tự có, đã là tương đãi thì danh từ không thật. Nhưng thế gian luôn luôn phải định nghĩa cho thật xác đáng, mà định nghĩa xác đáng là kẹt ngay!

Thế nên Tổ dạy chúng ta đã biết là tương đối thì dùng cái này đáp lại cái kia; như hỏi thế nào là có thì đáp nhân không mà có, hỏi thế nào là không thì đáp đối với có mà nói không, vậy “có, không” cũng là đối đãi không thật.

Trái lại chúng ta khi hỏi thế nào là có thì đáp có hình tướng, sờ mó được là có, hỏi thế nào là không thì đáp trống rỗng đó là không. Như vậy chúng ta chấp không là thật không, có là thật có, còn Tổ dạy có là đối với không mà lập, không là đối với có mà thành, nên không và có là hai danh từ đối đãi không thật, không nên chấp bên nào cả, tức là không chấp pháp, mà không chấp pháp tức là thấy được nghĩa trung đạo, đệ nhất nghĩa đế. Trả lời như thế là để đi đến chỗ chân thật.

Nếu hỏi thế nào là thánh thì phải đáp nhân phàm mà có thánh, hỏi thế nào là phàm thì đáp nhân thánh mà có phàm. Như thế người hỏi có hài lòng không? Luôn luôn họ thắc mắc: Tại sao không giải nghĩa rõ thánh là thế nào? Nhưng nếu chúng ta giải nghĩa thánh là sáng suốt, hiểu thấu mọi việc v.v..., phàm là tối tăm u mê v.v..., giải nghĩa như vậy là định chắc thánh là thánh, phàm là phàm, danh từ phàm thánh là thật, mà chấp chặt là thật, tức kẹt hai bên, đáp để cho người ta chấp tức làm tăng thêm si mê cho người.

Còn Tổ bảo cho chúng ta biết thánh và phàm do đối đãi mà lập, nếu không có phàm thì đâu có thánh, không có thánh thì làm gì có phàm! Như vậy thánh phàm chẳng qua là danh từ đối đãi, nhân cái này mà có cái kia, đó là giả danh không thật, biết giả danh không thật thì không còn chấp, nên không kẹt bên nào cả. Đối đáp như vậy tức là chúng ta không kẹt hai bên, tức nhiên dứt chấp, người hết chấp, không muốn thấy đạo cũng vẫn thấy, còn người chấp chặt dù muốn thấy đạo cũng không thấy được.

Tổ thật khéo, Ngài biết rõ tất cả pháp thế gian là không thật, nên Ngài chỉ cho chúng ta đối đáp trong đối đãi, chớ không nói cố định, thế nên chúng ta thấy lời đối đáp của Tổ và các Thiền sư khác hẳn thế gian. Thế gian định nghĩa cái gì là khẳng định cái đó, bởi khẳng định nên trăm thứ đều chấp đủ trăm, nói điều gì là khẳng định điều đó, nói quả quyết cố định nên càng làm cho người ta chấp sâu, càng chấp sâu càng không thấy đạo, vì thế người học đạo là đừng kẹt hai bên. Do đó Tổ mới bảo “đối với tướng mà lìa tướng, đối với không mà lìa không”. Đối tướng lìa tướng nên không chấp tướng, đối không mà lìa không nên chẳng chấp không, chấp không là si, chấp tướng là mê, cả si mê đều dẹp sạch.

Như vậy chủ yếu của đạo Phật là làm sao cho chúng ta giác ngộ. Ngôn ngữ lập ra chỉ là tạm dùng trong đối đãi, tất cả ngôn ngữ chúng ta nói ra có lời nào không đối đãi hay không? Giả sử chúng ta lập ra một điều gì và cho là tuyệt đối, nói tuyệt đối cũng là đối với tương đối mà nói, đối với tương đối mà lập tuyệt đối.

Vì thế tất cả ngôn ngữ đều nằm trong đối đãi, không lời nào thoát ngoài đối đãi, thế mà chúng ta cứ nghĩ điều gì cũng là cố định nên mới lầm. Hiểu được ý này khi đọc sách Thiền mới không thấy lạ, các Tổ trả lời cho chúng ta luôn luôn là dùng đối đãi chớ không trả lời thẳng.

II.

Nhưng hiện nay chúng ta trả lời như thế được không? Tỉ dụ hỏi thế nào là Bồ-đề, chúng ta giải nghĩa Bồ-đề là đối với phiền não mà có hay nhân phiền não mà có, hỏi thế nào là phiền não thì đáp nhân Bồ-đề mà có phiền não, cũng như nhân phiền não mà có Bồ-đề. Nói như thế không ai hiểu, họ không chấp nhận được. Chúng ta phải giải nghĩa Bồ-đề là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Giác v.v... như vậy người ta mới chịu hiểu.

Thế nên chúng ta thấy rõ thế gian quen định nghĩa, bất cứ điều gì cũng phải định nghĩa, nói câu nào chấp chặt câu nấy, lập danh từ nào chấp chặt danh từ đó. Vì thế Tổ muốn cho chúng ta thức tỉnh, biết tất cả ngôn ngữ lập ra đều là đối đãi không thật. Thế gian này từ vật như cái bàn đến người như ông A... đều là giả danh trên một hình tướng nào đó, nhưng chúng ta quen trên giả danh nên luôn luôn chấp ngôn ngữ, sự vật, chấp lời khen lời chê, điều hay điều dở v.v... rồi điên đảo cả ngày, do đó khổ sở không có ngày dứt.

III. Kết luận:

Tóm lại, chúng ta phải hiểu cho thấu đáo, tất cả pháp thế gian đều nằm trong đối đãi. Tổ dạy căn cứ trên ba khoa pháp môn là Ngũ ấm, Thập nhị nhập, Thập bát giới, tức là trùm cả người và ngoại cảnh. Tất cả đều lập trên sự tương đối không có gì là thật, cái này làm nhân cho cái kia, hai cái đối đãi nhau mà thành lập, cũng như nói tối là đối với sáng mà có, nếu sáng mãi thì đâu có nói tối, cũng như tối mãi thì đâu có nói sáng, vì hết tối nên nói đó là sáng, hết sáng nên gọi đó là tối, tối sáng đối đãi nhau mà lập, không thật có.

Tỉ dụ một vật chúng ta cho là đẹp vì so với vật xấu hơn nó, nhưng nếu so với một vật đẹp hơn thì nó trở thành xấu, vậy trên thế gian này đâu có gì cố định là tốt là xấu. Như có người uống rượu mỗi lần uống khoảng một phần tư lít, gặp người khác mỗi lần uống nửa lít thì người uống một phần tư lít khen người uống nửa lít là hay là giỏi, lời khen đó là chân lý chưa? Lời khen đó lợi hay hại? Người uống được một lít rượu lại được người uống nửa lít khen, như vậy có phải là cuồng với nhau hay không? Lời khen đó chỉ là khen trong sự cuồng dại với nhau, thế mà chúng ta cứ lẩn quẩn kẹt trong sự khen chê.

Tất cả pháp khác cũng như thế, tất cả đều là danh ngôn không thật, do đối đãi mà lập ra, tại sao chúng ta lại chấp? Do chấp nên sanh ra phiền não. Nếu hiểu tất cả pháp là đối đãi không thật thì không chấp, do đó phiền não cũng dứt, tự nhiên tâm an ổn, tự tại, nghĩa là ngay trong đời này được giải thoát. Nói “đối tướng mà ly tướng” là thế, đối tướng mà không thấy tướng nào thật thì còn gì mà chấp? Hiểu thế rồi chúng ta đừng kẹt ở hai bên, không kẹt hai bên tức nhiên đạt được nghĩa trung đạo đệ nhất.

Chúng ta chỉ cần nhớ lối đối đáp này, hằng ứng dụng cho mình thì chắc chắn chúng ta hết chấp, trái lại nếu thấy cái gì cũng định nghĩa thật cố định thì chấp không biết đến bao giờ mới dứt!

Các vị đồ đệ của Lục Tổ về sau đều dùng cách này để đối đáp. Nhưng hiện nay nếu dùng như thế, người ta sẽ nói mình nói khó hiểu. Sự thật xét kỹ, thà họ không hiểu còn hơn để họ chấp.

Thà không hiểu, còn hiểu thì phải hiểu cho đúng, nếu để họ chấp thì càng thêm bệnh chớ có lợi gì. Thế nên thuở xưa khi các Tổ đối đáp, người nào không hiểu thì đi, chớ các ngài không giải thích thêm.

Trái lại chúng ta hiện nay luôn luôn giải nghĩa dài dòng, rốt cuộc người hỏi tưởng ngôn từ là thật; lại thêm việc chiết tự theo chữ Hán nữa, thành ra càng đi vào chi li, càng làm cho người ta rối thêm trong chữ nghĩa chớ không hiểu đúng.

Sở dĩ chúng ta học đạo mà không ngộ là tại học trong cái chi li, định nghĩa đủ thứ rồi kẹt trên chữ nghĩa.

Thuở xưa đối với người hỏi đạo, các Tổ trả lời đơn giản, cốt sao cho người hỏi tỉnh, thấy được cái chân thật, đó là điểm đặc biệt của các Tổ. Hiểu được lý này chúng ta mới thấy chủ yếu của nhà Thiền là chỉ làm thế nào lợi cho người hỏi đạo,

Còn chúng ta hiện nay luôn luôn tỏ mình là người thông minh, không cần có lợi cho người hỏi, ai hỏi điều gì liền nói thao thao dẫn đủ trăm ngàn khía cạnh, khiến người hỏi cũng điên đầu không biết thầy dạy điều gì, đó là bệnh của thời đại.

Chúng ta học đạo chân chánh phải hiểu rõ lẽ Phật, Tổ dạy, ứng dụng cho mình tu và cũng dạy lại cho người khác tu, đừng lầm lẫn làm mất tông chỉ của nhà Thiền.

Tôi nhắc lại một lần nữa, điểm này Tổ lặp lại không biết bao nhiêu lần, Ngài dạy đối với các tướng mà không chấp đó là lợi ích, nếu chúng ta cố chấp rồi tạo ra những hình thức để cầu đạo lý thì không bao giờ thấy tánh được, chỉ nên y theo pháp đó tu hành chân chánh thì lợi ích.

Ngài cũng răn: Đừng theo lối tu “trăm vật không nghĩ”, vì Ngài e chúng ta ngồi tu cứ cố đè cho bao nhiêu vọng tưởng chìm xuống, tan mất. Nay tôi khuyên người tu có thể ngồi chơi, nhưng nhớ tất cả pháp đều đối đãi không thật; nếu tất cả đều đối đãi không thật thì nghĩ điều gì?

Thí dụ nghĩ về người, nếu là người nam thì đối với nữ mà lập, nam nữ là đối đãi không thật thì nghĩ cái gì? Những điều chúng ta suy nghĩ đều thấy không thật thì còn suy nghĩ điều gì? Chính khi ấy là chúng ta đã lặng tâm mà không kềm chi cả.

Nếu ngồi mà cứ đè xuống cho không biết gì nữa thì càng đè càng bệnh chớ không thành được trí tuệ.

Trí tuệ là phải thấy rõ, thí dụ chúng ta ngồi, chúng ta thấy rõ thân mình là hư giả không thật. Biết nó không thật thì ngôn ngữ cũng hư giả không thật, đến cảnh ngoài cũng duyên hợp không thật, biết rõ như vậy là có dấy tâm, có dấy niệm, nhưng dấy niệm biết như vậy có lỗi gì không? Chính trong khi biết như vậy, tự nhiên tâm mình càng yên, yên này không do đè, nếu ngồi cố tình đè, đó gọi là trăm vật không nghĩ, trở thành si định, không đi đến giải thoát.

Thế nên Tổ bảo rằng phải dùng “tương nhân” tức là nhân hai cái đối đãi nhau mà nói thì thấy được nghĩa trung đạo, thấy được nghĩa trung đạo đó là đạt đạo, tức nhiên hết mê. Trái lại cứ tìm giác thì càng tìm càng không thấy; chỉ giác là khi nào không còn kẹt hai bên, vì không kẹt hai bên mới hết mê, hết mê là giác! Người học đạo cũng như dạy đạo phải đúng như thế mới được. Đấy là đoạn phó chúc về sự giáo hóa của Lục Tổ.
179.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phó chúc: II
Vào niên hiệu Thái Cực năm Nhâm Tý, Diên Hòa tháng bảy (712 DL), Tổ sai đệ tử đến Tân Châu, chùa Quốc Ân dựng tháp và khiến thợ khởi công gấp, năm kế cuối mùa Hạ lạc thành, ngày mùng một tháng bảy Tổ họp đồ chúng bảo rằng:

Tôi đến tháng tám muốn lìa thế gian, các ông có nghi phải hỏi nhau sớm, tôi vì các ông phá nghi khiến các ông dứt mê, nếu tôi đi rồi, sau không có người dạy các ông.

Ngài Pháp Hải v.v... nghe Tổ nói thảy đều rơi lệ.
Nghe Tổ từ biệt bảo rằng Tổ sắp đi, trong chúng có điều gì nghi nên đưa ra hỏi, Tổ giải nghi cho để khi Tổ đi rồi không có ai chỉ dạy, các đệ tử lớn như ngài Pháp Hải v.v... đều khóc.
Chỉ có Thần Hội thần tình bất động, cũng không có khóc.

Tổ bảo:

Thần Hội tiểu sư lại được thiện bất thiện cùng là đồng, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài ra đều không được, ở trong núi mấy năm, cứu kính tu đạo gì? Nay các ông buồn khóc là vì lo cho ai? Nếu lo ta chẳng biết chỗ đi thì ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì trọn không báo trước cho các ông, các ông buồn khóc bởi vì chẳng biết chỗ đi của ta, nếu biết chỗ đi của ta tức không nên buồn khóc. Pháp tánh vốn không sanh diệt đi lại, các ông ngồi đây ta sẽ vì các ông nói một bài kệ gọi là “Chân giả động tịnh kệ”. Các ông tụng bài này cùng với ta ý đồng, y đây mà tu hành thì không mất tông chỉ.
179.HT giảng: Đây là đoạn Tổ từ giã đệ tử, những vị trưởng thượng trong chúng đều khóc, duy có ngài Thần Hội, mới mười mấy tuổi nhưng không khóc nên Tổ khen Thần Hội là tiểu sư mà thần tình bất động, còn các vị khác ở núi bao nhiêu năm, rốt ráo tu đạo gì mà vừa nghe Tổ từ giã liền khóc.
Tổ đặt câu hỏi: “Các ông khóc là lo cho ai mà khóc, lo cho ta không biết chỗ đi phải không? Nếu không biết chỗ đi sao lại báo trước cho các ông.” Báo trước là biết sẵn chỗ đi rồi. “Hoặc các ông khóc vì không biết chỗ ta đi, nếu biết chỗ ta đi thì các ông không khóc nữa.” Tại sao? Đâu phải Tổ đi đến chỗ buồn thảm khổ đau mà khóc, biết được chỗ đó, tức chỗ đi của Tổ là chỗ an nhàn thảnh thơi thì khóc làm chi.

Như vậy là khóc cho ai? Khóc cho người ở lại phải không? Nói đi nói lại quanh quẩn cũng là vì bản ngã. Nếu khi Tổ đi, nghi không biết Tổ đi đâu, e lang thang tội nghiệp thì nên khóc! Nhưng Tổ biết chỗ đi nên mới báo trước ngày đi, biết chắc thì đâu có lang thang mà sợ, như vậy khóc đó không phải vì Tổ.

Tổ muốn chỉ cho chúng ta biết sở dĩ chúng ta buồn khổ khi sắp chết vì đường trước mờ mờ không biết đi đâu, nên người gần chết cũng khóc mà người nhìn thấy người sắp chết cũng khóc theo, cả hai đều khóc. Tại sao? Người gần chết khóc là vì không biết thân phận mình ra sao nên hoang mang sợ sệt, khóc nhìn người ở lại vì đi một mình buồn quá; người ở lại cũng khóc là vì người thân đi rồi không còn ai lo cho mình, rốt cuộc người nào cũng khổ, khổ vì bản ngã thôi chớ không vì cái gì khác. Vì thế Tổ mới bảo nếu biết được chỗ mình đến thì có gì sợ mà phải khóc, nếu người khác biết rõ chỗ đến của mình, người đó cũng không khóc. Thế nên chúng ta tu làm sao mà đến khi sắp ra đi, mình biết rõ chỗ mình đến, khi đó mình an nhiên, không buồn lo chi cả, chớ đến khi sắp đi mà không biết đi đâu thì sợ sệt, khổ sở đủ điều.

Như thế mới thấy người tu không phải chỉ mỗi tháng đi cúng chùa ngày rằm, ngày ba mươi hay ăn chay mấy ngày là xong bổn phận. Người tu phải làm sao làm chủ được khi sắp ra đi, biết được ngày ra đi rõ ràng, khi đi an ổn vui tươi, được như vậy mới thoát khổ.
Chúng tăng đều làm lễ, Tổ nói kệ rằng:

Nhất thiết vô hữu chân,
Bất dĩ kiến ư chân,
Nhược kiến ư chân giả,
Thị kiến tận phi chân.
180.HT giảng: Tổ dạy rằng: Tất cả không có chân thật, chẳng do thấy nơi chân mà gọi là chân, nếu thấy được chân thì cái thấy đó trọn không phải là chân. Chúng ta nghe như khó hiểu, nhưng lẽ thật là như thế.
Chân là tự nó chân, nếu thấy chân thì cái chân đó không thành chân. Tại sao? Cái chân thật là của chính mình, mình thấy nó thì nó là cảnh rồi. Cái chân của chính mình hiện ra khi nào cái giả hết, nên thường nói vọng hết thì chân hiện, chớ khi đang vọng mà tìm chân thì chân cũng là vọng, chỉ giả hết thì chân hiện, cũng như tối hết thì sáng hiện; khi đang tối muốn tìm sáng thì làm sao tìm, vì nơi nào cũng tối cả, chỉ khi tối hết, tự nhiên sáng hiện không cần tìm. Cũng thế chúng ta không thể tìm ra chân, nếu tìm chân, thấy được chân thì chân đó không phải là chân, nên nói:
Nhược năng tự hữu chân,
Ly giả tức tâm chân,
Tự tâm bất ly giả,
Vô chân hà xứ chân.
181.HT giảng: Tổ chỉ thật là rõ ràng, nếu người hay tự có chân, chân đó ở đâu? Lìa giả tức tâm chân, Tự tâm không chịu lìa giả, không chân chỗ nào tìm ra chân? Như vậy chân có là khi nào lìa được giả, có sáng là khi nào mất tối, còn tối mà muốn tìm sáng là không có, còn theo giả mà muốn tìm chân cũng không có. Thế nên lối tu của chúng ta là lặng vọng mà không cầu chân, vọng hết là chân hiện chớ không cần tìm chân. Khi tìm chân, chúng ta dùng vọng mà tìm thì cái mình thấy chân cũng là vọng.

Nhiều người không biết nói rằng: Muốn nghiên cứu đạo Phật, thấy được chân lý cứu kính thì phải đọc sách nhiều, nghiên cứu kỹ, nhưng thật ra không bao giờ thấy.

Dùng suy nghĩ là cái giả để tìm chân thì khi nào thấy? Chỉ dứt giả thì chân hiện chớ không cần tìm, vì thế theo đạo Phật muốn đạt được chân lý, phải buông xả tất cả điên đảo vọng tưởng.

Đạo Phật không phải là đạo để mình suy nghĩ, buổi đầu do suy nghĩ mà hiểu, nhưng thật ra muốn đạt đến chỗ cứu kính là phải buông xả hết mọi nghĩ suy, mọi cái giả mới được chân. Điểm này Tổ chỉ rõ cho chúng ta: Nếu muốn tự có chân thì phải lìa giả, tức tâm thanh tịnh. Vì thế tôi bảo buông vọng, nghĩa là không bảo tìm Chân tâm mà chỉ buông vọng, khi vọng hết tức nhiên tâm chân. Nếu Tự tâm không chịu lìa giả, lìa vọng thì hỏi chân ở chỗ nào? Vì đâu cũng là giả làm sao có chân, càng tìm chân thì càng không thấy. Đó là điều quan trọng của sự tu.

Bài kệ của Tú tài Trương Chuyết có câu “thú hướng chân như tổng thị tà” là như thế, nghĩa là tìm kiếm Chân như thảy đều là tà. Chân như không phải tìm mà được, chỉ buông hết giả là Chân hiện; nắm được nguyên tắc này thì sự tu hành mới không lầm, nếu không nắm được nguyên tắc này thì dễ lầm lắm. Tiếp theo Tổ nói đến động và tịnh:
Hữu tình tức giải động,
Vô tình tức bất động,
Nhược tu bất động hạnh,
Đồng vô tình bất động.
182.HT giảng: Hữu tình thì biết động, vô tình tức là không biết động, nếu người tu hạnh bất động thì đồng với vô tình bất động. Đây là chỗ chúng ta phải khéo léo, có nhiều người nói tu hạnh bất động rồi muốn đè tâm mình xuống, đóng khung mình trong một chỗ nào, ngồi một chỗ như là ở tù vậy để cho nó bất động. Như thế có bất động được không? Vì nguyên là hữu tình tức là động mà muốn cho bất động làm sao được, thành ra vô tình mất rồi.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phó chúc III.
Nhược mích chân bất động,
Động thượng hữu bất động,
Bất động thị bất động,
Vô tình vô Phật chủng.
183.HT giảng: Tổ dạy: Nếu muốn tìm cái chân thật bất động, phải ngay trên động có bất động. Tổ chỉ cho chúng ta thấy ngay trên động có cái bất động, ví dụ như chúng ta muốn bất động, nên cho rằng mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi là có động, nay cho mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi được không? Nếu mắt không thấy, tai không nghe thì bịt mắt, bịt tai được, còn mũi không ngửi được không? Bịt mũi thì chết còn gì? Như thế muốn tu bất động cách đó là không được.

Chỉ mắt thấy sắc mà không chạy theo sắc, thì trên động là bất động, tai nghe tiếng là động nhưng không chạy theo tiếng là bất động, tức là trên động mà bất động thì bất động đó mới là chân thật. Còn chúng ta tránh tất cả để có cái bất động riêng thì cái bất động đó không bao giờ có, vì thành vô tình mất rồi. Trên động mà bất động mới là bất động chân thật.

Hiểu được lý này mới thấy được chủ yếu của sự tu. Nếu chúng ta đi tìm cái bất động ở nơi nào đó, thì tìm suốt kiếp không bao giờ có, vì thế gian là động, con người là động, hoàn cảnh là động, trừ chúng vô tình là không động thôi, còn hữu tình là động, đã là động mà muốn bỏ động tìm bất động sao được? Thế nên ngay trên động có cái bất động, còn nói bất động là bất động thì đó là vô tình không có Phật tánh.

Chúng ta có Phật tánh tức là có giác, có giác tức là có động, nhưng ngay trên động làm sao cho không động đó mới là cứu kính, nên thường nói thấy nghe mà như mù, như điếc, thấy vẫn thấy, nghe vẫn nghe, như mù như điếc là trên động mà không động, đó mới là chỗ chân thật. Đoạn này hiểu cho rõ mới thấy giá trị, còn không hiểu rõ thì tưởng như xa xôi lắm vậy.
Năng thiện phân biệt tướng,
Đệ nhất nghĩa bất động,
Đãn tác như thử kiến,
Tức thị chân như dụng.
184.HT giảng: Hay khéo phân biệt được tướng, đệ nhất nghĩa bất động tức là ngay trên các tướng, chúng ta khéo phân biệt được nhưng vẫn ở trong đệ nhất nghĩa không động. Thấy bình bông biết bình bông, thấy ly nước biết ly nước, thấy vật gì biết vật ấy nhưng không động, đó là đệ nhất nghĩa không động. Không phải chúng ta mù tối, ngu si, vô giác, nghĩa là vẫn tri vẫn giác, tri giác tức là động nhưng tri giác mà vẫn trong cái tỉnh chớ không phải vọng, đó là bất động ngay trên động. Chỉ khởi cái thấy này tức là dụng của Chân như. Người khéo thấy như vậy là người được diệu dụng của Chân như, trái lại nếu cứ tìm bất động ở chỗ nào khác, đó là si mê không thấy đạo lý.
Báo chư học đạo nhân,
Nỗ lực tu dụng ý,
Mạc ư Đại thừa môn,
Khước chấp sanh tử trí.
185.HT giảng: Bảo với những người học đạo, gắng sức phải dụng tâm, chớ nên đối với pháp môn Đại thừa lại chấp thành trí sanh tử. Nghĩa là Tổ dặn đối với pháp Đại thừa phải khéo dụng tâm cho đúng, đừng sai lầm rồi chấp thành trí sanh tử.
Nhược ngôn hạ tương ưng,
Tức cộng luận Phật nghĩa,
Nhược thật bất tương ưng,
Hiệp chưởng linh hoan hỉ.
186.HT giảng: Bốn câu kệ này chúng ta phải sử dụng cho khéo. Tổ dạy nếu người đối diện cùng mình nói chuyện thích hợp nghe hiểu, cảm thông được, liền cùng họ bàn nghĩa Phật, nếu thật không có hợp thì nên chấp tay khiến hoan hỉ, đừng giận, đừng buồn.

Tỉ dụ nói tu Thiền điên v.v... thì nên chấp tay cười thôi, chớ đừng cãi lại, hoặc giận lên. Như vậy khi nói về đạo với nhau, nếu hiểu cảm thông được thì cùng bàn đạo lý, còn nếu cãi nhau thì chấp tay hoan hỉ rồi lui. Nhưng hiện nay có ai chịu làm như thế không, cứ nổi sân lên cãi đỏ mặt rồi nói tôi vì đạo, mà đạo thì đâu có sân! Chúng ta bị bệnh chấp, cái gì cũng chấp, cả đến đạo cũng chấp thành ra phiền não mãi.

Tu mà rốt cuộc rồi cũng thành phiền não, chớ không phải hết phiền não, vì gặp cái gì dính cái ấy, chấp cái ấy nên ai chạm tới là nổi sân si. Ở nhà chấp gia đình, chấp cha mẹ, anh em, nên ai phạm tới thì binh rồi phiền não, vào chùa chấp chùa mình, chấp huynh đệ, chấp bổn đạo mình, nên cũng binh rồi cũng phiền não, rốt cuộc ở đâu cũng phiền não. Chấp là gốc của phiền não, hiểu như thế thì có ai cần hỏi đạo lý, chúng ta đem hết lòng thành nói cho họ nghe, nếu họ hiểu được thì cùng bàn, nếu họ chấp thì nên chấp tay hoan hỉ rút lui, như thế mới hợp đạo lý, còn tranh cãi là không hợp với đạo.
Thử tông bổn vô tránh,
Tránh tức thất đạo ý,
Chấp nghịch tránh pháp môn,
Tự tánh nhập sanh tử.
187.HT giảng: Tông này vốn không tranh, tranh tức mất ý đạo. Chấp nghịch tránh pháp môn, tỉ dụ chấp mình cao, người thấp, chê Nam tông là kém v.v... như vậy là chấp pháp môn nghịch rồi sanh tranh cãi thì Tự tánh vào sanh tử. Tự tánh đi trong sanh tử chớ không vào Niết-bàn! Tổ dạy thật quá kỹ, Ngài dạy chúng ta tu, dạy chúng ta xử sự sao cho hợp với đạo, đừng để cái chấp đưa chúng ta đến chỗ mê lầm, đến trong sanh tử.
Khi ấy đồ chúng nghe Tổ nói kệ rồi thảy đều làm lễ, biết rõ ý Tổ, mỗi người nhiếp tâm, y theo pháp tu hành, lại không dám tranh cãi. Biết Tổ không còn ở đời bao lâu, Thượng tọa Pháp Hải lại đảnh lễ hỏi rằng:

Sau khi Hòa thượng nhập diệt, y pháp sẽ trao cho người nào?

Tổ bảo:

Tôi ở chùa Đại Phạm nói pháp cho đến ngày nay, sao chép để lưu hành, gọi là Pháp Bảo Đàn Kinh, các ông gìn giữ, truyền trao cho nhau, độ các quần sanh, chỉ y nơi lời nói này, ấy gọi là chánh pháp, nay vì các ông nói pháp chớ chẳng trao y, bởi vì các ông tín căn đã thuần thục, quyết định không còn nghi ngờ, kham nhận được đại sự.
Khi hỏi sau khi Tổ tịch rồi y bát trao cho ai thì Tổ bảo sau khi Tổ tịch, tất cả những thời pháp Tổ giảng từ khi khởi sự ở chùa Đại Phạm về sau, ghi chép lại để tên là Pháp Bảo Đàn Kinh rồi truyền bá cho nhau, chớ không truyền y nữa. Nay chúng ta được học quyển Pháp Bảo Đàn này là được truyền pháp của Tổ. Tại sao không truyền y? Vì các đệ tử của Ngài lòng tin đã thuần, không còn nghi nữa.
Nhưng cứ theo ý bài kệ “Phó thọ” của Sơ tổ Đạt-ma, y không nên truyền. Kệ rằng:

Ngô bản lai tư độ,
Truyền pháp cứu mê tình,
Nhất hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.
Tổ Đạt-ma bảo: Ngài sang Trung Hoa truyền pháp để cứu mê tình, một hoa là Tổ Đạt-ma, sanh ra năm cánh tức là đến Tổ thứ sáu là năm vị, đến đây thì kết quả tự nhiên thành, vì thế dưới Lục Tổ không truyền y bát nữa.
Tổ lại bảo:

Các Thiện tri thức, các ông mỗi người nên tịnh tâm lắng nghe tôi nói pháp, nếu muốn thành tựu chủng trí phải đạt được Nhất tướng tam-muội và Nhất hạnh tam-muội. Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng kia, không sanh yêu ghét, cũng không thủ xả, chẳng nghĩ các việc lợi ích thành hoại v.v... an nhàn điềm tịnh, hư dung đạm bạc, đây gọi là Nhất tướng tam-muội.
188.HT giảng: Tôi nói lại cho dễ hiểu, Nhất tướng tam-muội là đối tất cả chỗ mà không trụ tướng, trên tất cả tướng đó không sanh yêu ghét, thủ xả, lợi ích v.v... Nghĩa là đối tất cả tướng mà không chấp không trụ, không sanh yêu ghét thủ xả v.v..., như vậy bao nhiêu tướng chúng ta đều không dính mắc nên gọi là Nhất tướng tam-muội.

Bao nhiêu tướng mà không dính tướng nào cả thì xem như là một tướng, chánh định chỉ có một tướng.
Người không chấp tất cả pháp thì dáng vẻ an nhàn điềm đạm. Tỉ dụ trước sân chúng ta có một chậu kiểng đang nở hoa đẹp, chợt một đứa bé đi ngang ngắt một cái hoa lúc đó mình có an nhàn điềm đạm không? Chúng ta chấp rằng hoa mình trồng cực khổ, hoa của mình là quí, nay bị ngắt liền nổi giận, la đứa bé, tức nhiên chúng ta mất đi sự an nhàn điềm đạm. Vì chấp tướng nên một việc gì xúc phạm đến chúng ta, chúng ta đều nổi giận la lối, hoặc trong trường hợp chúng ta hay thân nhân chúng ta bệnh hoạn, chúng ta hốt hoảng v.v... Như vậy để thấy rõ do chấp tướng nên chúng ta trở thành thô bạo, bất thường, nếu không chấp tướng thì mọi hành động đều an nhàn, điềm tĩnh, hư dung đạm bạc.
Tóm lại trên tất cả tướng mà không dính, không mắc, không sanh yêu ghét, thủ xả, đó là Nhất tướng tam-muội. Tam-muội là chánh định, chánh định chỉ có một tướng là không dính tất cả tướng.
Nếu ở tất cả chỗ đi đứng nằm ngồi thuần một trực tâm, không động đạo tràng, chân thành Tịnh độ, đây gọi là Nhất hạnh tam-muội.
Nhất hạnh tam-muội không phải là một hạnh ngồi yên một chỗ. Nhất hạnh tam-muội là làm sao trong bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm chỉ thuần một trực tâm, chỉ một tâm ngay thẳng thuần nhất, không có cong vẹo, thì ngay cõi này chính là Tịnh độ, vì không có tâm đổi thay cong vẹo thì đâu có buồn giận thương ghét, như vậy ngay đây là Tịnh độ.
Nếu người đủ hai tam-muội này như đất đã có chứa hạt giống, nuôi dưỡng lớn lên, thành thục được hạt kia, Nhất tướng Nhất hạnh cũng lại như thế.
Đất có chứa hạt giống lúa, hạt lúa được nuôi lần lần lớn lên thành cây có bông và kết quả thành hạt lúa. Người có đủ hai tam-muội chắc chắn kết quả cũng thành Phật không nghi. Như vậy muốn thành Phật phải có đủ Nhất tướng tam-muội và Nhất hạnh tam-muội. Tôi nói lại “Nhất hạnh tam-muội” là trong bốn oai nghi đều một trực tâm, còn “Nhất tướng tam-muội” là đối tất cả tướng không dính mắc tướng nào cả, không yêu ghét thủ xả..., đủ cả hai tam-muội thì như đất đã có hạt giống sẵn, nuôi dưỡng lần lần lớn lên có bông, có hạt.
Nay tôi nói pháp ví như khi trời mưa ướt khắp cả quả đất, Phật tánh của các ông ví như là hạt giống gặp được sự thấm ướt này thảy đều phát sanh, nương lời chỉ dạy của tôi, quyết định được Bồ-đề, y theo hạnh của tôi, quyết định chứng được diệu quả, hãy nghe tôi nói kệ:

Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai manh,
Đốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ-đề quả tự thành.
Đất tâm chứa các hạt giống, tức hạt giống Bồ-đề, khi mưa rưới thì tất cả đều nảy mầm, đốn ngộ hoa tình rồi, quả Bồ-đề tự nhiên thành tựu không nghi.
Tổ nói kệ rồi bảo:

Pháp kia không hai, tâm kia cũng vậy.
Pháp không hai là đối với tất cả tướng mà chỉ là một tướng, Nhất tướng tam-muội; tâm kia không hai là trong tất cả oai nghi đi đứng nằm ngồi đều chỉ một trực tâm.
Đạo kia thanh tịnh, cũng không các tướng, các ông dè dặt chớ quán tịnh và để tâm kia không, tâm này vốn tịnh, không nên thủ xả, mỗi người tự nỗ lực tùy duyên đi vui vẻ.

Khi ấy cả thảy chúng đều làm lễ thối lui.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phó chúc IV
Đến ngày mùng tám tháng bảy, Tổ chợt bảo đệ tử rằng:

Tôi muốn trở về Tân Châu, các ông hãy chóng sửa sang thuyền chèo.

Đại chúng đều buồn bã, cố cầm Tổ ở lại. Tổ bảo:

Chư Phật xuất hiện còn phải thị tịch Niết-bàn, có lại tất có đi, lý vẫn thường nhiên, hình hài của tôi đây trở về ắt có chỗ.

Chúng thưa:

Thầy từ đây đi, bao giờ mới trở về?

Tổ bảo:

Lá rụng về cội, trở lại không hẹn ngày.

Lại hỏi rằng:

Chánh pháp nhãn tạng truyền trao cho người nào?

Tổ bảo:

Người có đạo thì được, người không tâm thì thông.
189.HT giảng: Đây là ngày Tổ từ giã đệ tử trở về Tân Châu. Khi Ngài sửa soạn từ giã, chúng cố gắng cầm giữ lại nhưng Ngài vẫn nhất định đi. Ngài bảo chư Phật ra đời cũng có thị tịch Niết-bàn, không ai có sanh mà không có tử, việc đến đi là lý thường nhiên không có gì lạ, hình hài của Ngài cũng phải trở về chỗ đó. Như vậy chúng ta thấy rõ ràng mọi người, dẫu phàm hay Thánh, đã có thân thì có hoại. Tu mà thân này không hoại là việc không có, nhưng có điểm khác nhau giữa phàm và Thánh, là phàm khi thân này hoại thì đau khổ, tìm thân khác; còn Thánh khi thân này hoại, biết chỗ đi, biết chỗ đến nên không hồi hộp lo âu, không tìm kiếm thân sau. Đừng nghĩ Thánh là không chết, có thân là có sanh, có sanh tức có tử, không ai tránh khỏi điều đó, nhưng các ngài thấy việc sanh tử là một lẽ thường vì các ngài đã nắm chắc được chỗ đến đi của các ngài rồi.

Chúng lại hỏi sau khi Tổ nhập Niết-bàn thì chánh pháp truyền lại cho người nào. Thông thường chúng ta cứ nghĩ là phải trao cho người đệ tử nào thân tín, nhưng Tổ bảo người nào đạt đạo thì được, người nào vô tâm thì thông. Như vậy Phật pháp không phải là cái đem truyền, chỉ đạt đạo nghĩa là hiểu và sống được tức là được truyền.

Thí dụ tôi nói người nghe hiểu, tu đúng như vậy, tức là tôi đã truyền rồi, không cần phải làm lễ quan trọng để truyền cho người nào đó, nếu truyền cho người nào đó là có cái để truyền hay sao? Phật pháp là cái sẵn có của mọi người, mình khai cho người ta sáng được, thấy được cái thật của người ta, đó gọi là truyền chớ đâu có cái thứ hai đem vô cho người. Thế nên đừng hiểu lầm là phải thầy truyền cho trò mới được. Sở dĩ lúc đầu phải truyền y là vì thuở ấy dân chúng Trung Hoa chưa tin được đường lối tu Thiền của chư Tổ.

Họ nghĩ rằng Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang thì chỉ Ngài hiểu Thiền, còn người thừa kế Ngài không biết là người nào, nên buộc lòng chư Tổ phải truyền y truyền bát, người nào mang y bát Ngài là người đó đã được Ngài ấn chứng, tức là đã hiểu đúng như Ngài. Lần lần về sau đến Lục Tổ, Ngài nói cho cả trăm, cả ngàn người nghe ai cũng hiểu cả thì truyền cho người nào? Thế nên ai thấy đạo tức là đạt đạo thì được, ai vô tâm thì thông được lẽ đó. Nếu chúng ta học đạo mà được vô tâm thì tự nhiên chúng ta thông, tức là thấy đạo không cần truyền cái gì nữa.
Lại hỏi:

Về sau có nạn hay chăng?

Tổ bảo:

Tôi diệt độ khoảng năm, sáu năm, sẽ có một người đến cắt đầu của tôi, nghe tôi huyền ký rằng:

Đầu thượng dưỡng thân,
Khẩu lý tu san,
Ngộ Mãn chi nạn,
Dương Liễu vi quan.

Đó là lời sấm ký của Tổ nói rằng, sau này gặp nạn họ Mãn cắt đầu Ngài thì người làm quan lúc ấy là họ Dương họ Liễu.

Lại nói:

Tôi đi khoảng bảy mươi năm, có hai vị Bồ-tát từ phương Đông lại, một người xuất gia, một người tại gia, đồng thời hưng hóa, dựng lập tông tôi, kiến thiết những ngôi già-lam, xương long cho chánh pháp tiếp nối.

Hỏi:

Chưa biết từ trước Phật Tổ ứng hiện đến nay, sự truyền thọ được bao nhiêu đời, mong Ngài thương xót chỉ dạy.

Tổ bảo:

Cổ Phật hiện ra đời đã vô số lượng, không thể kể hết, nay kể từ bảy đức Phật làm đầu. Thuở quá khứ kiếp Trang Nghiêm có:

Phật Tì-bà-thi,
Phật Thi-khí,
Phật Tì-xá-phù.

Hiền kiếp này có:

Phật Câu-lưu-tôn,
Phật Câu-na-hàm-mâu-ni,
Phật Ca-diếp
và Phật Thích-ca Văn.

Đó là bảy đức Phật. Nay do đức Phật Thích-ca Văn đầu tiên truyền cho:

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp,
Tổ thứ 2 là ngài A-nan,
Tổ thứ 3 là Thương-na-hòa-tu,
Tổ thứ 4 là Ưu-ba-cúc-đa,
Tổ thứ 5 là Đề-đa-ca,
Tổ thứ 6 là Di-giá-ca,
Tổ thứ 7 là Bà-tu-mật-đa,
Tổ thứ 8 là Phật-đà-nan-đề,
Tổ thứ 9 là Phục-đà-mật-đa,
Tổ thứ 10 là Hiếp tôn giả,
Tổ thứ 11 là Phú-na-dạ-xa,
Tổ thứ 12 là Mã Minh,
Tổ thứ 13 là Ca-tỳ-ma-la,
Tổ thứ 14 là Long Thọ,
Tổ thứ 15 là Ca-na-đề-bà,
Tổ thứ 16 là La-hầu-la-đa,
Tổ thứ 17 là Tăng-già-nan-đề,
Tổ thứ 18 là Già-da-xá-đa,
Tổ thứ 19 là Cưu-ma-la-đa,
Tổ thứ 20 là Xà-dạ-đa,
Tổ thứ 21 là Bà-tu-bàn-đầu,
Tổ thứ 22 là Ma-noa-la,
Tổ thứ 23 là Hạc-lặc-na,
Tổ thứ 24 là Sư Tử,
Tổ thứ 25 là Bà-xá-tư-đa,
Tổ thứ 26 là Bất-như-mật-đa,
Tổ thứ 27 là Bát-nhã-đa-la,
Tổ thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma, Ngài cũng là Sơ Tổ ở Trung Hoa,
Tổ thứ 29 là Huệ Khả,
Tổ thứ 30 là Tăng Xán,
Tổ thứ 31 là Đạo Tín,
Tổ thứ 32 là Hoằng Nhẫn,
Huệ Năng là Tổ thứ 33.

Từ trước chư Tổ mỗi vị đều có bẩm thừa, các ông về sau phải theo thứ tự truyền trao, chớ khiến sai lầm.

Năm thứ hai niên hiệu Tiên Thiên (713 DL), năm Quí Sửu, ngày mùng ba tháng tám (tháng mười hai năm ấy đổi là Khai Nguyên), Tổ ở tại chùa Quốc Ân sau buổi ngọ trai, bảo các đồ chúng rằng:

Các ông mỗi người cứ ngồi y chỗ cũ, tôi cùng các ông từ biệt.

Ngài Pháp Hải bạch rằng:

Hòa thượng để lại giáo pháp gì khiến cho những người mê đời sau được thấy Phật tánh?

Tổ bảo:

Các ông lắng nghe, những người mê đời sau nếu biết chúng sanh tức là Phật tánh, nếu chẳng biết chúng sanh muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay tôi dạy các ông biết Tự tâm chúng sanh, thấy Tự tâm Phật tánh.

Muốn cầu thấy Phật, chỉ biết chúng sanh, chỉ vì chúng sanh mê Phật, chẳng phải Phật mê chúng sanh. Tự tánh nếu ngộ chúng sanh là Phật, Tự tánh nếu mê Phật là chúng sanh, Tự tánh bình đẳng chúng sanh là Phật, Tự tánh tà hiểm Phật là chúng sanh. Tâm các ông nếu hiểm khúc tức Phật ở trong chúng sanh, một niệm bình trực tức là chúng sanh thành Phật.

Tâm tôi tự có Phật, tự Phật đó là chân Phật, nếu tự không có tâm Phật thì chỗ nào cầu được chân Phật? Các ông Tự tâm là Phật lại chớ hồ nghi, ngoài không một vật mà hay dựng lập đều là Bản tâm sanh ra muôn pháp, nên kinh nói: Tâm sanh các thứ pháp sanh, tâm diệt các thứ pháp diệt.
190.HT giảng: Qua đoạn này thấy Tổ thật là thiết tha chỉ dạy, sợ chúng ta lầm mê.
Ngài Pháp Hải hỏi: Hòa thượng đi rồi để lại pháp gì dạy cho những người mê đời sau thấy được Phật tánh? Đó là Ngài vì chúng ta, sợ Tổ đi rồi những chúng sanh mê đời sau này không có ai dạy.
Tổ bảo: Những chúng sanh mê đời sau, nếu biết chúng sanh tức là Phật tánh. Câu này phải hiểu như thế nào? Tại sao biết chúng sanh tức là Phật tánh? Như đoạn trước đã nói, muốn thấy chân trước phải biết giả, giả hết thì chân hiện; nay muốn thấy Phật tánh thì tự nhiên phải biết chúng sanh, tức là biết ngay thân hư giả này, tâm vọng tưởng dối trá này, biết rõ cả hai rồi, không bị nó dẫn nữa thì Phật tánh hiển hiện. Nếu mang thân hư giả mà lầm cho là thật, vọng tưởng lầm cho là tâm mình thì đời nào biết Phật tánh.

Nhưng chúng ta biết chúng sanh chưa? Hằng ngày xưng mình xưng ta, tôi làm việc này, tôi muốn điều kia, tôi được vật nọ v.v... nếu hỏi tôi là cái gì thì ngẩn ngơ. Như vậy tất cả cuộc đời chúng ta phục vụ cho cái tôi, rốt cuộc không biết cái tôi ra sao, có phải một đời thành con số không hay không? Không phải chỉ một vài người, muôn người đều như vậy, đó là điều đáng buồn, nên Tổ bảo chúng ta phải biết chúng sanh, biết cái tôi đó ra sao, biết được cái tôi đó rồi mới thấy Phật tánh.

Như trong kinh Bát-nhã dạy: “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, đó là biết được chúng sanh, thấy rõ chúng sanh không thật thì Phật tánh hiện, còn chúng sanh không thật mà cứ lầm tưởng là thật nên phục vụ nó mãi. Biết chúng sanh không phải là biết chúng sanh ở ngoài, mà là biết chúng sanh ngay nơi mình. Ngay thân này, cái gì là chúng sanh? Tứ đại là chúng sanh, vọng tưởng là chúng sanh, phải không? Biết những cái đó rõ rồi tự nhiên thấy Phật tánh, còn không biết rõ không bao giờ thấy Phật tánh, nên Tổ dạy phải biết Tự tâm chúng sanh rồi thấy Tự tâm Phật tánh, Phật tánh ngay nơi tâm mình, chúng sanh ngay nơi tâm mình, chớ đừng tìm bên ngoài. Muốn cầu thấy Phật chỉ biết chúng sanh, chỉ vì chúng sanh mê Phật, chớ không phải Phật mê chúng sanh. Chữ mê này nghĩa là quên, chúng sanh quên Phật chớ không phải Phật quên chúng sanh.

Chúng sanh quên Phật nghĩa là chúng ta quên Phật Thích-ca, Phật Di-đà phải không? Còn Phật Thích-ca, Phật Di-đà cứ nhớ thương chúng ta hoài phải không? Không phải vậy.

Ngay nơi sáu căn của chúng ta đã có Phật tri kiến hiển lộ, nhưng vì mắt thấy sắc chạy theo sắc mà quên Phật tri kiến hiển lộ của mình, tai nghe tiếng chạy theo tiếng mà quên Phật của mình, nhưng Phật đó có lúc nào quên chúng sanh đâu.

Phật là chỗ tựa của chúng sanh, nhưng chúng sanh lại nhân đó mà chạy theo cảnh, khi chạy theo cảnh thì quên ngay cái đó. Thí dụ mắt nhìn tất cả người đều thấy rõ, như vậy là đã có Tri kiến Phật ở con mắt, nhưng khi thấy rõ lại phân biệt người này thân, người kia sơ, lúc đó còn nhớ Phật tri kiến nữa không?

Nhớ người này thân như thế nào, người kia sơ làm sao, một lúc quên mất tiêu cái đó, thế nên nói chúng sanh mê Phật, chớ Phật không mê chúng sanh, lúc nào Phật cũng sẵn đó nhưng tại chúng ta quên Phật. Tự tánh nếu ngộ, chúng sanh là Phật, nếu ngộ được Tự tánh thì ngay chúng sanh là Phật; Tự tánh nếu mê, Tự tánh nếu quên đi thì Phật là chúng sanh. Như tôi vừa nói cái thấy, vừa thấy là có Phật rồi mà mình quên cái thấy, quên Phật của mình lại chạy theo phân biệt cảnh tốt xấu, đó là mình quên Phật nên Phật thành chúng sanh.

Trái lại thấy tất cả cảnh mà chúng ta nhớ mình có Tánh giác, tánh thấy thì chúng sanh là Phật, nhớ nó là ngộ, như vậy Tổ chỉ rõ ràng, không có xa xôi gì cả.

Tự tánh bình đẳng tức là nơi tâm tánh mình không có dấy động, không có xao xuyến thì chúng sanh là Phật; Tự tánh tà hiểm tức là cong vạy thì Phật là chúng sanh.

Nếu tâm hiểm khúc tức là cong vạy thì Phật ở trong chúng sanh, còn tâm bình đẳng, ngay thẳng, chúng sanh liền thành Phật, như vậy không phải tìm Phật ở đâu xa, kiếm Phật ở nơi nào khác. Vì thế Tổ dạy rằng tâm ta tự có Phật, Phật của mình mới là Phật thật, còn Phật Thích-ca, Phật Di-đà là Phật ở ngoài, Phật thật là Phật của mình. Nếu tự không tâm Phật, tâm mình không có Phật thì nơi nào tìm ra được Phật thật? Thế nên Tổ bảo tâm mình là Phật, đừng có nghi ngờ, chắc chắn như thế đừng có nghi.

Ngoài không có một vật mà hay dựng lập, đều là Bản tâm sanh ra muôn pháp, như vậy tất cả đều là Tự tâm, muốn tìm Phật thì ngay nơi tâm mình mà tìm.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.15 khách