52.HT giảng: Ngài chỉ thật là xác đáng. Ngài bảo: Tất cả trí Bát-nhã đều từ nơi Tự tánh của mình, không phải từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý. Như có nhiều người tu cứ mong thành Phật, hoặc mong Phật đến ấn chứng, như vậy là trông ra ngoài, nhưng cái đó đâu phải từ ngoài đến, nó sẵn nơi mình, có ở đâu xa mà tìm mà cầu? Nếu tìm cầu ở ngoài đó là lầm dụng ý. Ngược lại là Chân tánh tự dụng, khéo như vậy thì Tánh chân thật của mình tự mình dùng thôi.Này Thiện tri thức, tất cả trí Bát-nhã đều từ Tự tánh sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dụng ý nên gọi là Chân tánh tự dụng.
52.Toát yếu: Bát nhã tự tánh tự nơi mình sanh, cũng từ nơi mình diệt. Phàm phu hay Bồ tát thì xem lại hạnh Bồ đề tâm mình tới đâu.
53.HT giảng: Có người trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng không, tỉ dụ như đã xuất gia rồi nhưng ai làm buồn lòng một chút liền mắng chửi người, khi ấy nếu có người khác quở tại sao tu mà ác khẩu, tạo nghiệp, thì nói ác khẩu có thật không? nghiệp có thật không? Như vậy là nói không mà tâm chẳng không.Một chân thì tất cả chân, tâm lượng rộng lớn không đi theo con đường nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói Không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như người phàm tự xưng là Quốc vương, trọn không thể được, không phải là đệ tử của ta.
Nếu không thì đâu có giận, mắng chửi người, nếu giận mắng chửi người thì tâm chưa không. Tâm chẳng không mà miệng nói không, thì không xứng đáng là đệ tử của Tổ, huống chi là của Phật. Ai lỡ có bệnh đó thì nhớ, Tổ không chấp nhận làm đệ tử của Ngài, còn đứng ngoài xa chớ chưa bước vào chùa, người như vậy là người nói rỗng không có thực hành.
Thế nên chúng ta phải hiểu cho thật rõ, khi lỡ có sân si nếu có ai hỏi tại sao tu mà còn sân si, thì nói tại tôi còn dở, tại tập khí lâu đời, như vậy là người tốt.
Nếu nghe hỏi tại sao sân si, liền hỏi lại sân si có thật không, thì kẻ đó đáng ăn đòn, không xứng đáng là đệ tử của Phật. Tôi giản trạch để quí vị đừng hiểu lầm, khi nghe nói như trên thì vội cho người ấy rất hay, rất hiểu đạo. Nếu còn sân si là chưa hiểu đạo và nói như thế là nói để che lỗi, kẻ đó là kẻ đáng tội. Hiểu như thế, quí vị mới thấy chỗ tu chân thật, nên Tổ ví dụ như kẻ thường dân mà xưng là Quốc vương. Có ổn không? Thế nào cũng bị ngồi khám, hoặc bị đứt đầu. Cũng như tâm thì có mà miệng nói không, có ngày phải đền tội, vì vậy Ngài bảo không phải là đệ tử của ta.
53. Toát yếu: Xem lại bài giảng, nên dè dặt khi xử dụng pháp Bát Nhã đối với mình và đối với người không hiểu tới Bát Nhã.
54.HT giảng:Ngài dạy Bát-nhã là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Tất cả chỗ như ở chùa, ra xóm, đến chợ..., tất cả thời là sáng trưa chiều... lúc nào cũng vậy, mỗi niệm đều không ngu. Thế nào là mỗi niệm ngu, thế nào là mỗi niệm không ngu? Tỉ dụ chúng ta đang đi trên đường, bất chợt nghe trong nhà có hai người đang cãi nhau, chúng ta dừng lại nghe xem ai phải ai quấy. Niệm dừng lại nghe ai phải ai quấy là niệm gì? Là niệm ngu, tức là chạy theo cảnh thì niệm đó gọi là niệm ngu.Này Thiện tri thức, sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Tất cả chỗ, tất cả thời, mỗi niệm không ngu, thường hành trí tuệ tức là Bát-nhã hạnh.
Trái lại nếu hằng sống với trí tuệ, không theo, không dính với bất cứ điều gì, đó là không ngu. Thường hành trí tuệ là hành cái trí không bị kẹt, bị dính nơi mọi cảnh. Đó là chỗ tôi hay nhắc quí vị. Hoặc nghe tiếng nói, hoặc thấy hình sắc liền phân biệt hay dở, tốt xấu v.v... đó là người ngu, mải đuổi theo ngoại cảnh nên làm mờ mắt Trí tuệ Bát-nhã. Niệm niệm không ngu là hằng không dấy niệm đuổi theo ngoại cảnh, lúc nào cũng hằng tỉnh, hằng giác, người được như vậy tức là đã hành Bát-nhã.
54.Toát yếu: Người hành Bát Nhã là người đã có trí tuệ, Vì Trí tuệ là Bát Nhã.
55..HT giảng: Như vừa rồi tôi nói, nếu chúng ta thấy vật gì liền cho là đẹp, đó là niệm ngu. Ngu thì khi ấy có Bát-nhã không? Bát-nhã là thấy các pháp như huyễn, nếu thấy vật đẹp thì vật là thật nên ngu, tức mất Bát-nhã.Một niệm ngu tức Bát-nhã bặt, một niệm trí tức Bát-nhã sanh.
Trái lại, vừa thấy một vật gì liền biết đó là tướng duyên hợp không thật, vì biết không thật nên tâm không dính mắc thì Bát-nhã sanh. Thế nên niệm ngu thì Bát-nhã tuyệt, niệm trí là Bát-nhã sanh. Tôi giảng cho quí vị thấy cái ngu, cái trí. Thấy người, thấy vật, duyên theo để phân biệt đẹp xấu hoặc khen chê, đó là niệm ngu; thấy người thấy vật mà khởi quán các pháp, người vật đều duyên hợp không thật, đó là niệm trí.
Niệm ngu thì bị tham sân si dẫn, niệm trí thì tâm an, biết là huyễn tức nhiên tâm lặng, tức là sống với Trí tuệ Bát-nhã. Hai niệm đó, có niệm này là mất niệm kia.
Niệm trí là chúng ta thắp đèn, đốt đuốc, niệm ngu là chúng ta đi trong đêm không đèn, không đuốc để rồi phải đau khổ. Quí vị thử nghiệm xem! Thấy người, thấy vật nhưng luôn luôn sống với niệm trí thì có đau khổ không? Hẳn là không. Như vậy rõ ràng khổ hay hết khổ là do mình sống với trí hay với ngu.
Ngu là vô minh, nó dẫn chúng ta đi trong chốn khổ đau, trầm luân sanh tử. Còn niệm trí là trí tuệ để giác ngộ thành Phật. Như vậy sự tu hành thật là cụ thể. Nếu đối duyên, đối cảnh chúng ta luôn luôn sống với niệm trí thì chúng ta giải thoát sanh tử; trái lại đối duyên đối cảnh chúng ta sống với niệm ngu thì chúng ta luân hồi không cùng.
Quí vị thử tập xem, kể từ nay ráng sống với niệm trí, làm sao trong mười hai giờ ít ra cũng được sáu giờ trí, nếu không có lời, ít ra cũng đừng lỗ. Nhưng hiện nay quí vị đã sống được mấy giờ trí? Thử kiểm lại xem! Được bao nhiêu? Trong mười hai giờ chỉ sống được một giờ rưỡi, chưa đủ cái lẻ nữa thì biết rằng đó là ánh sáng đom đóm. Đêm ba mươi có ánh sáng đom đóm nên khó tránh khỏi hầm hố. Vì thế chúng ta tu là hiểu cho rõ lời Phật Tổ dạy và hiểu cho rõ điều mình đang hành, biết mình như thế nào, không cần phải tìm hỏi mình có căn tu hay không.
Tóm lại Tổ dạy rất rõ ràng: một niệm ngu thì Bát-nhã bặt, một niệm trí thì Bát-nhã sanh, một giờ chúng ta ngu thì giờ đó không có Bát-nhã, giờ đó là vô minh; còn một giờ chúng ta trí thì đó là giờ Bát-nhã, giờ sáng suốt. Như vậy người nào sống trong tỉnh nhiều hơn mê thì bảo đảm ngày ra đi sẽ đi vào con đường của Thánh Hiền, còn người nào sống với mê nhiều hơn trí, chắc chắn người đó sẽ đi vào lục đạo, hoặc ba đường trên thiên, nhân, a-tu-la, hoặc ba đường dưới địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Quí vị hãy tự xét là biết, mình tu mình phải tự giác, tự tri, không cần phải hỏi ai cả. Lại ngu có nghĩa là theo cảnh, trí có nghĩa là lìa cảnh. Một niệm tâm theo cảnh là ngu, một niệm tâm lìa cảnh là trí. Trong bốn oai nghi hằng lìa cảnh đó là hằng sống với Trí tuệ Bát-nhã.
55.Toát yếu: Lục Tổ giảng, "Một niệm ngu tức Bát-nhã bặt, một niệm trí tức Bát-nhã sanh."
56.HT giảng: Miệng nói vật này không thật, vật kia không thật, nhưng gặp vật gì cũng duyên theo, đó là nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu. Có người khi lý luận nói cái gì cũng không thật, nói nghe thật hay, nhưng gặp cảnh gặp duyên thì đuổi theo, đó là người ngu, miệng nói Bát-nhã mà tâm thường ngu.Người đời ngu mê không thấy Bát-nhã, miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu.
57.HT giảng: Miệng luôn luôn nói không nhưng thật không biết được Chân không. Chân không là không có một niệm, một pháp nào chứa chấp ở trong, chỉ có cái hằng tri hằng giác. Như vậy quí vị từ nay vừa bước đến cổng “Chân Không” phải nhớ chỗ đó, biết mình phải sống với Chân không.Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói không nhưng không biết được chân không.
58.HT giảng: Trí tuệ Bát-nhã không có tướng mạo, nó là tâm trí tuệ tức là cái tâm hằng sáng hằng giác chớ không có gì lạ, nên nói Bát-nhã chỉ là tâm trí tuệ hằng giác của chúng ta.Bát-nhã không có hình tướng, tâm trí tuệ ấy vậy.
Nếu khởi hiểu như thế tức gọi là Bát-nhã trí.
Thường chữ trí tuệ là dịch hai chữ Bát-nhã. Tại sao lại còn nói Bát-nhã trí? Nếu nói trí tuệ e có sự lầm lẫn vì người đời nếu khôn ngoan một chút thì nói là người có trí tuệ, thành ra trí tuệ của người đời là trí tuệ sắp đặt công ăn việc làm hoặc là trí tuệ tính toán lấn hiếp người... Trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ thấy rõ cái chân thật của Tự tâm, biết rõ Tự tâm mình cái nào là hư giả, cái nào là chân thật, biết rõ Tự tánh của các pháp, biết các pháp do duyên hợp không thật, tánh là không. Vì thế để tránh sự hiểu lầm, chữ Bát-nhã phải dịch đủ là Trí tuệ Bát-nhã.(Hết bài giảng 1).