Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
- Thế Tôn ! Nếu Diệu Tâm sáng tỏ này vốn viên mãn cùng khắp, như thế cho đến đất đai, cỏ cây, sâu bọ, hàm linh, Bản Tánh Chơn Như, tức là chơn thể thành Phật của Như Lai. Vậy Phật thể chơn thật, tại sao lại có các đạo : địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, loài người và trời ?Thế Tôn, lục đạo này vốn tự có hay là do tập khí hư vọng của chúng sanh mà sanh khởi ?
- Các địa ngục, là có chỗ nhất định hay chẳng định ? Mỗi người gây nghiệp nhân, mỗi mỗi tự chịu nghiệp quả, hay tất cả là tự nhiên?

Phật bảo A Nan:
- Lành thay câu hỏi này khiến các chúng sanh chẳng mắc tà kiến, nay nguơi hãy lắng nghe, ta sẽ vì nguơi mà nói.
- A Nan ! Bản Tánh của chúng sanh vốn chơn thật trong sạch, vì vọng kiến mà vọng sanh tập khí, do đó chia thành nội phần và ngoại phần.

- A Nan ! Nội phần tức là phần trong của chúng sinh. Do lòng ái nhiễm phát khởi vọng tình, vọng tình tích chứa không thôi, sanh ra ái thủy, nên chúng sanh nghĩ đến thức ăn ngon thì chảy nước miếng. Nhớ đến người xưa hoặc thuơng, hoặc giận thì chảy nước mắt. Tham cầu của báu trong tâm ham muốn thì cả mình đều thấm nhuần nước tham. Tâm tham dâm dục thì hai căn nam nữ tự nhiên chảy dịch. A Nan, những ái dục ấy dù khác, nhưng sự chảy nước là đồng, tánh nước thấm ướt chẳng lên được, tự nhiên sa đọa, gọi là nội phần.

- A Nan ! Ngoại phần tức là phần ngoài của chúng sanh. Do lòng khao khát phát ra vọng tưởng vọng tưởng chứa mãi không thôi, sanh ra thắng khí. Nên chúng sanh hễ tâm giữ giới cấm thì cả thân nhẹ nhàng. Tâm trì chú ấn thì cử chỉ hùng dũng. Tâm muốn sanh cõi trời thì chiêm bao thấy bay lên. Tâm nhớ cõi Phật thì thắng cảnh thầm hiện. Phụng sự Thiên Tri Thức thì tự khinh thân mạng. A Nan, những vọng tưởng dù khác, nhưng sự nhẹ nhàng bay lên là đồng, bay bổng chẳng chìm tự nhiên vượt lên, gọi là ngoại phần.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Nan ! Tất cả sanh tử tuơng tục trên thế gian, sống thì tùy thuận theo tập khí, chết thì biến dổi theo dòng nghiệp, đến lúc lâm chung còn chút hơi ấm, các việc thiện ác của một đời đồng thời hiện ra.

- Thuần tưởng thì bay lên ắt sanh cõi người, nếu cái tâm bay lên ấy gồm cả phước đức trí tuệ và Tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm được mở mang, thấy tất cả Tịnh Độ với mười phương chư Phật, theo nguyện vãng sanh.

- Tình ít tưởng nhiều, nhẹ nhàng bay xa thì làm phi tiên, Đại lực quỷ vương, phi hành dạ xoa, địa hành la sát, dạo khắp cõi trời, chẳng có gì ngăn ngại. Trong đó nếu có thiện tâm thiện nguyện, hộ trì Phật pháp, hoặc hộ trì giới cấm và người trì giới. Hoặc hộ trì thần chú và người trì chú, Hoặc hộ trì thiền định, thành tựu pháp nhẫn, thì những hạng ấy được ở cạnh pháp tọa của Như Lai.

- Tình và tưởng bằng nhau, chẳng bay chẳng chìm, sanh nơi cõi người.Tưởng sáng suốt thì thông minh, tình ám muội thì ngu độn.

- Tình nhiều tưởng ít, đọa vào súc sinh, nghiệp nặng thì làm loài có lông, nghiệp nhẹ thì làm loài có cánh.

- Bẩy phần tình, ba phần tưởng thì chìm dưới thủy luân, sanh nơi hỏa luân, thân làm ngạ quỷ, thọ cái khổ của lửa hồng, thường bị đốt cháy, dầu được uống nước cũng hóa thành lửa, nên nói bị nước hại, trải qua trăm ngàn kiếp chẳng thể ăn uống.

- Chín phần tình, một phần tưởng, thì đọa dưới hỏa luân, thân vào giữa phong luân và hỏa luân, nghiệp nhẹ thì vào ngục hữu gián, nghiệp nặng thì vào ngục vô gián.

- Thuần tình thi chìm sâu vào ngục A Tỳ , nếu tâm chìm sâu ấy có phỉ báng Đại Thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng thuyết pháp, hư tiêu tín thí, lạm nhận cung kính, hoặc phạm ngũ nghịch, thập trọng cấm, thì lại phải sanh khắp ngục A Tỳ mười phương.

Chúng sanh cùng tạo ác nghiệp thì phải chịu quả báo đồng phận, nhưng trong cộng nghiệp, mỗi mỗi tự chuốc lấy quả báo khác nhau.
A Nan ! Những điều kể trên đều do nghiệp của chúng sanh tự chiêu cảm, tạo Thập Tập Nhân, thọ Lục Giao Báo.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

THẬP TẬP NHÂN
Là mười cách gây tạo ác nhân, tạo ra những hình phạt dưới địa ngục.
1) Một là DÂM TẬP sanh ra những việc giường sắt, trụ đồng. Mười phuơng Như Lai xem sự hành dâm đồng như dục hỏa, Bồ Tát xem dục như hầm lửa phải tránh.
2) Hai là THAM TẬP sanh những khổ của địa ngục Hàn Băng. Mười phuơng Như Lai xem việc tham cầu đồng như tham thủy, Bồ Tát xem tham như biển độc, phải tránh.
3) Ba là MẠN TẬP (lấn ép nhau), sinh những việc sông huyết, sông tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng nóng chảy v.v... Mười phuơng Như Lai xem ngã mạn như uống nước si, Bồ Tát xem ngã mạn như sự chìm đắm, phải tránh.
4) Bốn là SÂN TẬP (xung đột nhau), sanh những việc :Thiến, cắt, chặt, chém, dùi, đâm, đánh đập v.v... Mười phuơng Như Lai xem sự sân hận như dao guơm bén, Bồ Tát xem sân hận như chém giết, phải tránh.
5) Năm là TRÁ TẬP (dụ dỗ nhau), sanh những việc Gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, đòn v.v... Mười phuơng Như Lai xem dối trá đồng như gian tặc, Bồ Tát xem dối trá như cọp beo, phải sợ.
6) Sáu là CUỒNG TẬP (lừa gạt), sanh những việc chìm đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi lăn v.v... Mười phuơng Như Lai xem sự lường gạt đồng như cướp giết, Bồ Tát xem sự lừa gạt như dẫm rắn độc.
7) Bảy là OÁN TẬP (hiềm khích), sanh những việc quăng, ném, nắm, bắt, đánh, bắn, tóm, siết v.v...Mười phuơng Như Lai xem sự thù oán đồng như quỷ vi hại, Bồ Tát xem thù oán như uống rượu độc.
8) Tám là KIẾN TẬP (kẻ thông minh ham kiến chấp), vì kiến giải khác nhau nên chống trái lẫn nhau, vì thế nên mới có Thiện Ác đồng tử tay cầm hồ sơ văn bản, điều tra bằng chứng cụ thể, khám hỏi, tra khảo, thẩm vấn v.v... Mười phuơng Như Lai xem những ác kiến đồng như hầm độc, Bồ Tát xem những kiến chấp hư vọng như hố độc.
9) Chín là UỔNG TẬP (vu vạ), sanh những việc áp giải, đề đập, ép huyết, v.v... Mười phuơng Như Lai xem sự vu vạ đồng như cọp, Bồ Tát xem sự vu vạ như bị sấm sét.
10) Mười là TỤNG TẬP (thưa kiện, cãi vả), sanh ra những việc ác hữu, nghiệp kính, chiếu soi, hỏa châu, phơi bày nghiệp xưa, đối nghiệm v.v... Mười Phuơng Như Lai xem sự che dấu đồng như hiểm tặc, Bồ Tát xem sự che dấu như đội núi cao đi trên biển cả.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LỤC GIAO BÁO
1 - MỘT là KIẾN BÁO chiêu cảm ác quả. Khi kiến nghiệp giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy lửa hồng cháy khắp mười phuơng, thần thức người chết bay theo khói rơi vào ngục A Tỳ, phát minh hai tướng : Một là thấy sáng, khắp thấy mọi thứ hung dữ, sanh khiếp sợ vô cùng. Hai là thấy tối mịt mù chẳng thấy gì, sanh hỏang hốt vô cùng.
Như vậy, thấy lửa đốt thính giác thì thành chảo dầu sôi, nước đồng chảy. Đốt khứu giác thì thành khói đen, lửa đỏ. Đốt vị giác thì thành viên sắt cháy. Đốt xúc giác thì thành tro nóng, lò than. Đốt ý thức thì thành hoa lửa rơi khắp, rung động cả hư không.

2 - HAI là VĂN BÁO chiêu cảm ác quả. Khi văn nghiệp giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy sóng cuộn ngập chìm trời đất, thần thức người chết theo dòng nước trôi vào ngục A Tỳ, phát minh hai tướng : Một là nghe rõ các tiếng ồn ào, tinh thần rối loạn. Hai là điếc hẳn, lặng lẽ chẳng nghe gì, thần thức chìm lịm.
Như vậy, nghe sóng chảy vào thính giác, thì thành sự trách hỏi. Chảy vào thị giác thì thành sấm sét, và khí độc. Chảy vào khứu giác thì thành mưa và suơng mù, rưới sâu độc vào đầy khắp cơ thể. Chảy vào vị giác thì thành mủ, huyết và các thứ nhơ nhớp. Chảy vào xúc giác thì thành súc sinh, ma quỷ và đại tiểu tiện. Chảy vào ý thức thì thành điện chớp, mưa đá đạp nát tâm phách.

3 - BA là KHỨU BÁO chiêu cảm ác quả. Khi khứu nghiệp giáo báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy hơi độc đầy dẫy gần xa, thần thức người chết từ dưới đất trào lên, vào ngục A Tỳ, phát minh hai tướng: Một là ngửi thông, bị các hơi độc xông vào, nhiễu loạn tâm thần. Hai là nghẹt thở, hơi thở chẳng thông, làm chết giấc dưới đất.
Như vậy, ngửi khí xông vào khứu giác thì thành thông- nghẽn. Xông vào thị giác thì thành lửa, đuốc. Xông vào thính giác thì thành chìm đắm, nước sôi, xông vào vị giác thì thành mùi thiu thối, xông vào xúc giác thì thành nứt, nát, thành núi thịt lớn, có trăm ngàn mắt, hút ăn không cùng, xông vào ý thức thì thành tro, chướng khí và cát đá bay đập nát thân thể.

4 - BỐN là VỊ BÁO chiêu cảm ác quả. Khi vị nghiệp giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy lưới sắt phát lửa bùng cháy, che khắp thế giới. Thần thức người chết sa đọa mắc lưới, treo ngược đầu xuống, vào ngục A Tỳ, phát minh hai tướng : Một là hít hơi vào kết thành băng giá, làm nứt nẻ thân thể. Hai là thở hơi ra, bay thành lửa hồng, đốt cháy xuơng tủy.
Như vậy, nếm mùi vị qua vị giác thì thành nhận chịu. Qua thị giác thì thành kim thạch nung đỏ. Qua thính giác thì thành binh khí sắc bén. Qua khứu giác thì thành lồng sắt lớn, che khắp quốc độ. Qua xúc giác thì thành cung tên, nỏ, súng. Qua ý thức thì thành sắt nóng, bay từ trên không, rưới xuống như mưa.

5 - NĂM là XÚC BÁO chiêu cảm ác nghiệp. Khi xúc nghiệp giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy núi lớn từ bốn phía hợp lại, chẳng còn đường ra. Thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp, sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, la sát, đầu ngựa, tay cầm thương xóc lùa vào cửa thành, hướng về ngục A Tỳ, phát minh hai tướng: Một là hợp xúc, núi hợp lại ép thân xuơng thịt tuôn máu. Hai là lìa xúc, gươm đao đâm chém, tim gan bị cắt xẻ.
Như vậy, hợp xúc qua xúc giác thì thành con đường địa ngục, gặp Diêm La Vuơng xử án. Qua thị giác thì thành đốt cháy, nung đỏ. Qua thính giác thì thành đánh đập, đâm bắn.Qua khứu giác thì thành tóm, dựng, khảo trói. Qua vị giác thì thành cây, kìm,chặt chém. Qua ý thức thì thành rơi, bay, nấu nướng.

6 - SÁU là TƯỞNG BÁO chiêu cảm ác quả. Khi tưởng nghiệp giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy gió bão thổi nát quốc độ. Thần thức người chết bị thổi lên hư không, xoay, rơi theo gió, đọa ngục A Tỳ, phát minh hai tướng: Một là chẳng giác, mê muội vô cùng, bỏ chạy không thôi. Hai là chẳng mê, bị đốt cháy không cùng, đau đớn khổ sở.
Như vậy, tà tưởng kết vào ý thức thì thành phuơng sở, kết vào thị giác thì thành guơng soi, bằng chứng. Kết vào thính giác thì thành đại hợp thạch, băng giá, suơng mù, đất bùn. Kết vào khứu giác thì thành xe lửa, thuyền lửa, củi cửa. Kết vào vị giác thì thành tiếng la hét, than khóc. Kết vào xúc giác thì thành lớn nhỏ, nghiêng ngửa, muôn lần chết đi sống lại trong một ngày.
****


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Lại nữa A Nan ! Nếu các chúng sinh phá hủy luật nghi, phạm giới Bồ Tát, phỉ báng Niết Bàn và các nghiệp khác, thì trải qua nhiều kiếp bị đốt cháy, sau khi đền tội xong, thọ các hình quỷ.
- Nếu ở nơi bản thân,
Do tham vật tạo tội, người ấy khi đền tội xong, gặp vật thành hình, gọi là Quái quỷ.
Do tham sắc tạo tội. Khi đền tội xong, gặp gió thành hình, gọi là Bạt quỷ.
Do dối trá tạo tội, khi đền tội xong, gặp súc vật thành hình, gọi là Ma quỷ.
Do sân hận tạo tội, khi đền tội xong, gặp sâu bọ thành hình, gọi là Cổ Độc quỷ.
Do thù oán tạo tội, khi đền tội xong, gặp kẻ thù vận suy thành hình, gọi là Lệ quỷ.
Do ngạo mạn tạo tội, khi đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ.
Do lừa gạt tạo tội, khi đền tội xong, gặp u ẩn thành hình, gọi là Yểm quỷ.
Do tham minh ngộ tạo tội, khi đền tội xong, gặp tinh linh thành hình, gọi là Võng Lượng quỷ.
Do vu vạ tạo tội, khi đền tội xong, gặp linh hiển thành hình, gọi là Dịch sử quỷ.
Do kết bè phái tạo tội, khi đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền Tống quỷ.

- A Nan ! Loại này đều vì thuần tình mà sa đọa,khi nghiệp lửa đốt cạn, thì lên làm quỷ, ấy đều do vọng tưởng của tự mình chiêu cảm nghiệp quả, nếu ngộ tánh Bồ Đề , thì nơi Diệu Tâm Sáng Tỏ, vốn chẳng có gì cả.

- Lại nữa A Nan !Khi hết nghiệp quỷ, tình và tưởng cả hai đều không, mới ở nơi thế gian, với người mắc nợ cũ, oán xưa gặp nhau, thân làm súc sinh để trả nợ xưa.
- Loại quỷ quái theo vật, khi vật tiêu báo hết , thì sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim kêu.
- Bạt quỷ theo gió, khi gió tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cửu trưng(Loài dự báo điềm xấu như chim cú, chim quạ...)
- Mỵ quỷ theo súc, khi súc chết báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chồn.
- Cổ quỷ theo sâu, khi sâu diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài độc hại.
- Lệ quỷ theo vận suy, khi suy diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun sán.
- Ngạ quỷ theo khí, khi khí diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài gia súc.
- Yểm quỷ theo u ẩn, khi u ẩn diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài tằm, cừu cung cấp đồ mặc.
- Vọng lượng quỷ theo tinh linh, khi tinh diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim mùa.
- Dịch sử quỷ theo linh hiển, khi linh diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài hưu trưng (loài dự báo điều tốt như lân, phụng)
- Truyền tống quỷ theo người, khi người chết báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài tùng phục bên người như chó, mèo.

- A Nan ! Loại này đều vì nghiệp lửa đốt cạn, sanh vào loài súc để đền trả nợ xưa, ấy cũng là do vọng nghiệp chiêu cảm. Nếu ngộ tánh Bồ Đề, thì các vọng duyên này, vốn chẳng có gì cả.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Lại nữa A Nan ! Những súc sinh ấy, đền trả nợ cũ, nếu trả quá nợ cũ, thì trở lại làm người, đòi lại phần thừa. Nếu người kia có sức mạnh, lại có phước đức, thì khỏi bỏ thân người, mà vẫn hoàn lại phần thừa ấy được, còn nếu chẳng phước đức, thì phải làm súc sinh để trả lại cái thiếu.
- A Nan nên biết ! Nếu mắc nợ tiền tài hoặc sức lực của loài vật, khi đền đủ thì tự ngưng. Nếu ở trong đó có giết hại sinh mạng, hoặc ăn thịt họ, như thế cho đến ăn nhau, giết nhau, trải qua vô số kiếp, như chuyển bánh xe, lúc cao lúc thấp, thay phiên nhau chẳng ngừng. Trừ khi gặp Phật ra đời, ngộ pháp Xa Ma Tha, nếu không thì nghiệp chẳng thể ngưng. Nay nguơi nên biết :

- Loài chim kêu khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng ngoan cố.
- Loài Cửu Trưng kia, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng quái dị.
- Loài chồn khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng ngu dại.
- Loài độc hại khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nham hiểm.
- Loài giun sán khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng hèn hạ.
- Loài gia súc khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nhu nhược.
- Loài Tằm, cừu khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng nghèo khổ.
- Loài chim mùa khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng văn hoa.
- Loài Hưu trưng khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng thông minh.
- Loài tùng phục bên người khi, trả hết nợ cũ, trở lại làm người, sanh vào hạng thông thạo.

- A Nan ! các loại này dù trả hết nợ cũ, trở lại làm người,đều do điên đảo tạo nghiệp, sanh nhau giết nhau từ vô thỉ, chẳng gặp Như Lai, chẳng nghe chánh pháp, ở trong trần lao xoay vần mãi, bọn này thật đáng thuơng xót.

- A Nan ! Lại có chúng sanh trong cõi người, chẳng theo Chánh giác tu Ta Ma Địa, mà tu theo vọng niệm, giữ tâm, củng cố hình hài, ẩn trong rừng núi, những chỗ vắng người, thành mười loại Tiên.
1) A Nan ! Những chúng sinh ấy, kiên cố dùng đồ bổ chẳng ngừng nghỉ, thành tựu đạo Thực, gọi là ĐỊA HÀNH TIÊN.
2) Kiên cố dùng cây cỏ chẳng ngừng nghỉ, thành tựu đạo Thuốc, gọi là PHI HÀNH TIÊN.
3) Kiên cố luyện đơn chẳng ngừng nghỉ, thành tựu đạo hóa chất, gọi là DU HÀNH TIÊN.
4) Kiên cố luyện khí chẳng ngừng nghỉ, thành tựu tinh khí, gọi là KHÔNG HÀNH TIÊN.
5) Kiên cố luyện tân dịch chẳng ngừng nghỉ, thành tựu nhuận đức, gọi là THIÊN HÀNH TIÊN.
6) Kiên cố hấp thụ tinh hoa chẳng ngừng nghỉ, thành tựu sự hấp thụ, gọi là THÔNG HÀNH TIÊN.
7) Kiên cố luyện bùa chú chẳng ngừng nghỉ, thành tựu bùa phép, gọi là ĐẠO HÀNH TIÊN.
8) Kiên cố chuyên chú tâm niệm chẳng ngừng nghỉ, thành tựu niệm tưởng, gọi là CHIẾU HÀNH TIÊN.
9) Kiên cố về thủy hỏa giao cấu chẳng ngừng nghỉ, thành tựu sự cảm ứng, gọi là TINH HÀNH TIÊN.
10)Kiên cố biến hóa chẳng ngừng nghỉ, thành tựu tà ngộ, gọi là TUYỆT HÀNH TIÊN.

- A Nan ! Loại này đều ở trong cõi người mà luyện tâm, chẳng tu chánh giác, xa cách người đời, thọ muôn ngàn tuổi, ẩn núp nơi núi sâu, hòn đảo, những chỗ vắng người. Ấy cũng là theo vọng tưởng mà luân hồi. Nếu chẳng tu tam muội, khi phước báo hết,phải trở lại lục đạo.
****


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

DỤC GIỚI
1- A Nan ! Những người thế gian, chẳng cầu đạo thường trụ, chưa thể rời bỏ sự ân ái vợ chồng, nhưng tâm chẳng buông lung nơi tà dâm, do tâm đứng lặng, phát ra sáng suốt. Sau khi chết, ở gần với nhật nguyệt, loại người này gọi là TỨ THIÊN VUƠNG.
2- Đối với vợ mình, dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư, chưa hoàn toàn trong sạch. Sau khi chết, vượt ánh sáng nhật nguyệt, ở trên đảnh cõi người, loại này gọi là ĐAO LỢI THIÊN.
3- Gặp dục tạm giao, qua rồi thì chẳng nhớ, nơi cõi người động ít tịnh nhiều. Sau khi chết an trụ nơi hư không, ánh sáng nhật nguyệt chẳng thể soi tới, hạng người ấy tự có ánh sáng, loại này gọi là TU DIỆM MA THIÊN.
4- Lúc nào cũng tịnh, nhưng khi tiếp xúc bỗng đến, chưa thể rời bỏ. Sau khi chết sanh lên cõi tinh vi, chẳng nối liền với những cõi trời, cõi người ở dưới. Khi kiếp hoại tam tai cũng chẳng thể đến, loại này gọi là ĐÂU XUẤT ĐÀ THIÊN.
5- Ta chẳng tâm dâm dục, chỉ đáp ứng với nhu cầu của người, xem sự dâm dục vô vị như ăn sáp. Sau khi chết sanh lên cõi biến hóa, loại này gọi là LẠC BIẾN HÓA THIÊN.
6- Tâm chẳng trụ thế gian, mà thọ dụng cảnh dục đồng như thế gian. Đang lúc thọ dụng rõ ràng siêu thoát. Sau khi chết, vượt lên tất cả cảnh biến hóa và chẳng biến hóa, loại này gọi là THA HÓA TỰ TẠI THIÊN.

A Nan ! Sáu cõi trời kể trên, hình dù khỏi động, mà tâm còn dính mắc, từ đây trở xuống gọi là DỤC GIỚI.

SẮC GIỚI

SƠ THIỀN
1) A Nan ! Tất cả người tu tâm trong thế gian, chẳng nhờ Thiền na thì chẳng có trí tuệ. Nếu giữ được thân chẳng dâm dục, khi đi, khi ngồi, niệm tưởng đều không, ái nhiễm chẳng sanh, chẳng lưu luyến dục giới, làm bạn với Phạm Thiên, hạng này gọi là PHẠM CHÚNG THIÊN
2) Dục lậu đã trừ, "Tâm lìa dục" hiện, ưa hành theo các luật nghi, đức hạnh trong sạch, hạng này gọi là PHẠM PHỤ THIÊN
3) Thân tâm diệu viên, oai nghi đầy đủ, giới cấm trong sạch, lại có sự tỏ ngộ, được thống lãnh Phạm Chúng, làm Đại Phạm Vuơng, hạng này gọi là ĐẠI PHẠM THIÊN.
- A Nan ! Ba bậc này tất cả khổ não chẳng thế bức bách, dù chẳng phải chánh tu chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm trong sạch, dục lậu chẳng thế lay động, gọi là SƠ THIỀN.

NHỊ THIỀN
1) A Nan ! Hàng Phạm Thiên thống lãnh Phạm chúng, đầy đủ phạm hạnh, lắng tâm chẳng động. Do tịch lặng sanh ra ánh sáng. Hạng này gọi là THIỂU QUANG THIÊN.
2) Ánh sáng chói lọi, chiếu soi vô cùng, chiếu khắp mười phuơng cõi đều như lưu ly. Hạng này gọi là VÔ LƯỢNG QUANG THIÊN.
3) Hào quang đồng như âm thanh, thành tựu giáo thể, phát ra sự giáo hóa trong sạch, ứng dụng vô cùng. Hạng này gọi là QUANG ÂM THIÊN.
A Nan ! Ba bậc này, tất cả lo buốn chẳng thể nào bức bách, dù chẳng phải chánh tu chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm trong sạch, những phiền não thô động đã uốn dẹp, gọi là NHỊ THIỀN.

TAM THIỀN
1) A Nan ! Hào quang thành âm, dùng âm thanh tỏ bày diệu lý, thành hạnh tinh tấn, thông với sự vui tịch diệt, hạng này gọi là THIỂU TỊNH THIÊN.
2) Cảnh "Tịnh Không" hiện tiền, chẳng có bờ bến, thân tâm nhẹ nhàng, thành sự vui tịch diệt, hạng này gọi là VÔ LƯỢNG TỊNH THIÊN
3) Thế giới và thân tâm, tất cả đều trong sạch, thành tựu đức tánh trong sạch, thắng cảnh hiện tiền, qui về cái vui tịch diệt, hạng này gọi là BIẾN TỊNH THIÊN
- A Nan ! Ba bậc này đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên ổn, được sự vui vô luọng, dù chẳng phải thật đắc chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm yên ổn trọn đủ sự hoan hỷ, gọi là TAM THIỀN.

TỨ THIỀN
1) Lại nữa A Nan ! Cõi trời này thân tâm chẳng bị bức bách, nhân khổ đã hết, biết sự vui chẳng thường trụ, lâu ắt biến hoại, hai tâm khổ vui nhất thời cùng xả, tướng thô đã diệt, tánh phước được sanh, hạng này gọi là PHƯỚC SANH THIÊN.
2) Tâm xả viên dung, thắng giải trong sạch, được sự tùy thuận nhiệm màu, cùng tột vị lai, tánh phước chẳng ngăn ngại, hạng này gọi là PHƯỚC ÁI THIÊN.
3) A Nan ! Từ cõi trời này tẻ ra hai đường: Nếu dùng tâm sáng tỏ đầy đủ phước đức kia để tu chứng an trụ, hạng này gọi là QUẢNG QUẢ THIÊN.
4) Nếu nơi tâm trước kia, nhàm chán cả khổ vui, lại nghiền ngẫm cái tâm xả chẳng gián đoạn, trọn thành Đạo Xả, thân tâm đều diệt, lắng tâm bặt tưởng, trải qua năm trăm kiếp . Nhưng vì người ấy lấy cái sanh diệt làm nhân, thì chẳng thể phát minh tánh chẳng sanh diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sanh, hạng này gọi là VÔ TƯỞNG THIÊN.

A Nan ! Bốn bậc này tất cả cảnh khổ-vui của thế gian chẳng thể lay động, dù chẳng phải là chỗ chơn bất động của đạo vô vi, nhưng nơi tâm có sở đắc, công dụng thuần thục, gọi là TỨ THIỀN.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGŨ TỊNH CƯ THIÊN

Ở đây có năm bậc BẤT HOÀN THIÊN, đã dứt sạch chín phẩm tập khí ở cói dưới, nên an lập chỗ ở nơi tâm xả của đồng phận chúng sanh.

1) Khổ vui đã diệt, yêu ghét chẳng sanh, hạng này gọi là VÔ PHIỀN THIÊN.

2) Tự tại phóng xả, chẳng có năng-sở, tâm chẳng đối đãi, hạng này gọi là VÔ NHIỆT THIÊN.

3) Mười phuơng thế giới, diện kiến trong lặng, chẳng còn tất cả cấu nhiễm của cảnh trần, hạng này gọi là THIỆN KIẾN THIÊN.

4) Diệu kiến hiện tiền,biến tạo vô ngại, hạng này gọi là THIỆN HIỆN THIÊN.

5) Sắc trần từ tướng lăng xăng đến chỗ cứu cánh chẳng động, cùng tột tánh sắc chẳng có bờ bến , hạng này gọi là SẮC CỨU CÁNH THIÊN.

- A Nan ! Với các cõi BẤT HOÀN THIÊN này, chỉ riêng bốn vị Thiên Vuơng cõi Tứ Thiền mới được nghe biết, nhưng chẳng thế thấy biết. Như nay trong thế gian, chỗ núi rừng sâu thẳm, những đạo tràng của các bậc Thánh, đều có các vị A La Hán trụ trì, mà gười thế tục chẳng thể thấy.
- A Nan ! Mười tám cõi trời kể trên, dù thoát khỏi cảnh dục, nhưng chưa thoát khỏi sắc thân, gọi là SẮC GIỚI.

VÔ SẮC GIỚI

Lại nữa A Nan ! Từ trên đảnh của sắc giới, lại tẻ ra làm hai đường :
- Nếu nơi tâm xả,phát minh trí huệ, sáng suốt viên thông, bèn ra cõi trần, thành A La Hán, vào Bồ Tát thừa. Hạng này gọi là Hồi Tâm Đại A La Hán.
- Nếu nơi tâm xả được thành tựu, thấy thân chướng ngại, tiêu ngại, vào không. Hạng này gọi là KHÔNG XỨ.
- Chướng ngại đã tiêu, vô ngại, vô diệt, trong đó chỉ còn A Lại Da Thức và nửa phần vi tế của Mạt Na thức. Hạng này gọi là THỨC XỨ.
- Sắc và không đã tiêu, tâm thức đều diệt, mười phuơng tịch lặng, chẳng có chỗ đến. Hạng này gọi là VÔ SỞ HỮU XỨ.
- Dùng thức tánh chẳng động để diệt sự nghiền ngẫm, thành ra ở nơi vô tận lại tỏ bày tánh tận, như còn mà chẳng còn, tận mà chẳng tận. Hạng này gọi là PHI TƯỞNG, PHI PHI TƯỞNG XỨ.
- Hạng này xét cùng cái Không, nhưng chẳng tột lý Không. Nếu từ thánh đạo BẤT HOÀN THIÊN mà xét , hạng này gọi là Bất Hồi Tâm Độn A La Hán.
- Nếu từ VÔ TƯỞNG THIÊN của ngoại đạo mà chấp thật Không, chẳng biết quay đầu, mê muội hữu lậu, chẳng nghe chánh pháp, bèn vào luân hồi.

- A Nan ! Những cõi trời kể trên mỗi mỗi đều là phàm phu đền trả nghiệp quả, khi nghiệp quả trả hết bèn vào luân hồi. Thiên Vuơng các cõi ấy đều là Bồ Tát tu Tam Ma Địa, lần lượt tiến lên, hướng về đường tu của bậc Thánh.
- A Nan ! Cõi tứ không này, thân tâm dứt sạch, tánh định hiện tiền, chẳng có sắc thân của nghiệp quả, từ đây đến cùng , gọi là VÔ SẮC GIỚI.
- Ấy đều do chẳng rõ diệu tâm sáng tỏ, tích chứa vọng tưởng, chấp thân trung ấm, tùy loại thọ sinh, vọng có tam giới, nên vọng theo bảy loài mà chìm đắm.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A TU LA
- Lại nữa A Nan ! Trong tam giới có bốn loại A Tu La :
1) Từ loài quỷ, dùng sức hộ pháp, nhờ thần thông vào trong hư không. Loại A Tu La này là loài noãn sanh, thuộc về loài quỷ.
2) Nếu từ cõi trời, thất đức bị đọa, chỗ ở gần với nhật nguyệt. Loại A Tu La này là thai sanh, thuộc về loài người.
3) Có vua A Tu La, thống lãnh tất cả A Tu La trên thế giới, sức mạnh vô úy, có thể tranh quyền với Phạm Vuơng, Đế Thích và Tứ Thiên Vuơng, loại A Tu La này là hóa sanh, thuộc về lòai trời.
4) A Nan ! Riêng có một số A Tu La thấp kém, sanh dưới đáy biển, lặn dưới hang nước, ban ngày dạo trên hư không, ban đêm về ngủ dưới nước. Loại A Tu La này là thấp sanh, thuộc về loài súc.

- A Nan ! Bảy loài : Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Cõi người, Thần Tiên, Cõi trời và A Tu La kể trên, đều là những tướng hữu vi hôn trầm, vọng tưởng, tùy nghiệp thọ sanh. Thật ra thảy đều như hoa đốm trên không, vọng hiện nơi Bản Tâm vô tác sáng tỏ, vốn vô sở đắc, chỉ là hư vọng, không có cội gốc.
- A Nan ! Những chúng sanh này chẳng nhận được Bản Tâm, bị luân hồi trải qua vô số kiếp, chẳng được chơn tánh trong sạch, ấy đều do tùy thuộc ba nghiệp : Sát, Đạo, Dâm. Hoặc ngược lại ba thứ đó, thành không [sát, đạo, dâm]. Vọng thấy "có" thì là loài quỷ, vọng thấy "không" thì là loài trời. Có và không thay phiên nhau phát khởi tánh luân hồi.
- Nếu ngộ pháp Tam Ma Điạ thì Diệu Tâm thường tịch, hữu-vô bất nhị, bất nhị cũng diệt, những việc không sát, không đạo, không dâm còn chẳng có, huống là thuận theo sát, đạo, dâm.
- A Nan ! Chẳng dứt ba nghiệp thì chúng sanh mỗi mỗi đều có nghiệp riêng, do nghiệp riêng ấy, trong đồng phận của chúng sanh, chẳng phải là không có chỗ nhất định. Đó là do tự tạo vọng nghiệp, vọng vốn chẳng nhân, chẳng thể truy cứu cội gốc.
- Nguơi khuyên người tu hành, muốn đắc đạo Bồ Đề, phải trừ dứt ba nghiệp. Nếu ba nghiệp chẳng dứt, dẫu được thần thông, cũng là những công dụng hữu vi của thế gian. Tập khí chẳng diệt thì lạc vào ma đạo, dù muốn trừ vọng, càng thêm giả dối. Như Lai nói là kẻ đáng thuơng xót.
- Vậy vọng do người tự tạo, chẳng phải lỗi của Bồ Đề. Thuyết như thế gọi là chánh thuyết, chẳng thuyết như thế gọi là tà thuyết.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MA NGŨ ẤM

- Nay Ta đã thuyết pháp chơn tu, các nguơi vẫn còn chưa hiểu những ma sự vi tế, cảnh ma hiện tiền, các nguơi cũng chẳng biết, vì tâm chẳng chánh, lọt vào tà kiến , nên bị mà ngũ ấm, hoặc thiên ma, hoặc quỷ thần, hoặc yêu mị xâm nhập, trong tâm chẳng biết, nhận giặc làm con

- Các nguơi phải biết, cái tâm thể Bản Giác của mười phuơng chúng sanh vốn viên mãn Diệu Minh, cùng với mười phuơng chư Phật chẳng hai chẳng khác, vì do vọng tưởng của các nguơi mê chấp đạo lý mới thành lỗi lầm, mười phuơng vô số quốc độ đều do vọng tưởng kiến lập. Phải biết rằng : Hư không sanh khởi trong tâm các nguơi như đám mây ở giữa hư không, huống là các thế giới đều ở trong hư không. Trong các nguơi có một người kiến tánh, thì mười phuơng hư không tiêu diệt ngay,làm sao những quốc độ trong hư không chẳng bị tan nát ?

- Các nguơi tu thiền đến nơi chánh định, cũng như mười phuơng Bồ Tát và Đại A La Hán, chơn tâm dung thông, ngay đó trạm nhiên. Khi ấy tất cả ma vuơng, quỷ thần, thấy cung điện của mình khi không sụp đổ , đều cảm thấy kinh khủng, họ đều được năm thứ thần thông, (chỉ trừ Lậu Tận Thông), ham thích trần lao, đâu thể để cho nguơi tu chánh pháp,làm sụp đổ xứ sở của họ, cho nên những lúc người tu đựoc chánh định, những thiên ma, yêu tinh, quỷ thần đều tụ lại để quấy phá, nhưng họ ở trong trần lao, người tu ở trong Diệu Giác, họ có hung dữ cách mấy cũng chẳng hại được. Ví như gió thổi ánh sáng, hoặc dùng dao cắt nước, chẳng ăn nhằm gì. Họ như băng đá, người tu như nước nóng, nước nóng làm tan rã băng đá. Họ ỷ lại sức thần thông, nhưng chỉ là khách, người tu là chủ, nếu chủ mê thì khách thành tựu được sự khuấy phá của họ, nếu người tu ngay đó giác ngộ chẳng mê, thì ma sự của họ chẳng làm gì được mình.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

I - MA SẮC ẤM

- A Nan nên biết, Người tọa đạo tràng, vọng niệm nếu hết thì ngay cái lìa niệm ấy tất cả sáng tỏ, động tịnh chẳng rời, nhớ quên như một, nên trụ nơi này mà nhập chánh định. Như người mắt sáng ở chỗ đen tối, chơn tánh trong sạch, trong tâm chưa phát ra ánh sáng, đây gọi là phạm vi của SẮC ẤM. Nếu con mắt sáng tỏ thì mười phuơng khai mở, chẳng còn đen tối, gọi là Sắc Ấm hết, thì người ấy được siêu việt Kiếp Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là bởi KIÊN CỐ VỌNG TƯỞNG làm gốc.

1) A Nan ! Trong lúc đang tham cứu Diệu Minh, quên cả tứ đại, bỗng sắc thân ra vào các vật chất đều chẳng chướng ngại, ấy gọi là sự sáng tỏ tràn ra trước mắt. Sự việc ấy chỉ là công dụng tạm được như thế, chẳng phải chứng Thánh, nếu cho là Thánh liền lọt vào tà ma.

2) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, thân như lưu ly, bỗng trong thân ấy lấy ra các loài giun sán, mà thân vẫn y nguyên, chẳng bị thuơng tổn, ấy gọi là sự sáng tỏ tràn ra hình thể, đây chỉ do tu hành tinh tấn tạm được như thế, chẳng phải chứng Thánh, nếu cho là Thánh liền lọt vào tà ma.

3) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, khi ấy , ngoài sắc thân ra, hồn phách, ý chí, tinh thần dung hòa lẫn nhau, bỗng nghe trong hư không tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phuơng chư Phật cùng diễn mật nghĩa, đây gọi là hồn phách, ý chí thay phiên nhau làm chủ- khách, ly hợp lẫn nhau, thành tựu thiện chủng, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là chứng Thánh, liền lọt vào tà ma.

4) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, trong tâm sáng tỏ, phát ra ánh sáng, chiếu khắp mười phuơng thành màu sắc Diêm Phù Đàn, tất cả các loài đều hóa thành Như Lai. Bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài Thiên Quang, ngàn Phật vây quanh, trăm ức cõi Phật cùng hoa sen đồng thời hiện ra. Ấy gọi là việc sở nhiễm của tâm hồn linh ngộ, ánh sáng của tâm chiếu soi các thế giới, tạm được như vậy, chẳng phải chứng Thánh, nếu cho là Thánh liền lọt vào tà ma.

5) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, quan sát chẳng ngừng, sức đè nén hàng phục quá mức, bỗng trong hư không thành màu sắc bách bảo, xanh, vàng, đỏ, trắng đồng thời cùng khắp mười phuơng mà chẳng chướng ngại lẫn nhau. Ấy gọi là sự dụng công đè nén quá mức, tạm được như vậy, chẳng phải chứng Thánh. Chẳng tự cho là Thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là Thánh liền lọt vào tà ma.

6) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, trong sáng chẳng loạn, bỗng lúc nửa đêm, ở trong nhà đen tối, thấy rõ các vật, chẳng khác ban ngày, ấy gọi là tâm dụng đến chỗ vi tế, cái năng thấy trong như lưu ly, cái sở thấy thấu qua đêm tối, tạm được như thế, chẳng phải chứng Thánh. Chẳng tự cho là Thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là Thánh, liền lọt vào tà ma.

7) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, toàn tâm đang hòa với hư không, bỗng thân thể đồng như cây cỏ, lửa đốt, dao chém chẳng có cảm giác, thiêu chẳng thấy nóng, chém chẳng thấy đau, ấy gọi là tâm và trần dung hợp thành một , tạm được như vậy, chẳng phải là chứng Thánh. Chẳng tự cho là Thánh, là cảnh giới tốt, nếu cho là Thánh liền lọt vào tà ma.

8) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, dụng công đến chỗ thanh tịnh, bỗng thấy núi sông, đất đai mười phuơng đều thành cõi Phật, đầy đủ thất bảo, ánh sáng chiếu khắp, lại thấy hằng sa chư Phật, cung điên trang nghiêm cùng khắp thế giới, thấy khắp thiên đàng, địa ngục đều không ngăn ngại, ấy gọi là tập trung tư tưởng ngày càng sâu đậm, lâu ngày hóa thành, chẳng phải chứng Thánh. Chẳng tự cho là Thánh, là cảnh giới tốt, nếu cho là Thánh, liền lọt vào tà ma.

9) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, đến chỗ sâu xa, bỗng ở nửa đêm, thấy được các đường phố, bà con phuơng xa, nghe được tiếng nói của họ, ấy gọi là tâm bức bách quá mức, bay ra, nên cái thấy thấu qua vật chất, chẳng phải chứng Thánh. Chẳng tự cho là Thánh, là cảnh giới tốt, nếu cho là Thánh liền lọt vào tà ma.

10) Trong lúc tham cứu Diệu Minh, thấy hình thể của Thiện Tri Thức, trong giây lát hiện ra đủ thứ biến đổi, ấy gọi là tâm tà bị yêu mị, hoặc Thiên ma xâm nhập, thình lình thuyết pháp, thông đạt diệu nghĩa, chẳng phải chứng Thánh. Chẳng tự cho là Thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là Thánh liền lọt vào tà ma.

- A Nan ! Mười thứ cảnh giới thiền định như trên,đều do SẮC ẤM dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra. Chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân duyên này mà chẳng tự biết, nói là chứng Thánh, thành đại vọng ngữ, đọa địa ngục A Tỳ.
- Sau khi Như Lai nhập diệt, trong thời mạt pháp, các nguơi phải theo lời dạy bảo như trên, khai thị người tu, hộ trì cho họ thành Vô Thượng Đạo, chớ để cho thiên ma được dịp quấy phá.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MA THỌ ẤM

- A Nan ! Người tu Thiền Định,khi dứt được SẮC ẤM, tâm thấy chư Phật như bóng hiện trong guơng, dường như có sự chứng đắc, nhưng chưa thọ dụng được. Cũng như người bị bóng đè, tay chân vẫn còn, thấy nghe rõ ràng, vì tâm bị tà bên ngoài xâm nhập, chẳng thể cử động được, ấy là phạm vi của THỌ ẤM. Nếu bóng đè hết, tâm lìa sắc thân, được tự thấy mặt mình, ở đi tự do vô ngại, gọi là THỌ ẤM hết, thì lúc ấy siêu việt Kiến Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân thì do HƯ MINH VỌNG TƯỞNG làm gốc.

1) A Nan trong lúc hành Thiền Định, thấy ánh sáng chói rọi, tâm ức chế quá mức,bỗng sanh lòng buồn bã, cho đến thấy các loài ruồi muỗi như con của mình, thuơng xót rơi lệ, ấy gọi là dụng công đè nén quá mức. Ngộ thì biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh, chẳng mê chẳng chấp, lâu tự tiêu diệt. Nếu cho là Thánh, thì bị Ma Bi xâm nhập, hễ gặp người thì than khóc không xiết, , lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

2) Trong lúc Thiền Định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, thắng cảnh hiện tiền, kích động quá phần, bỗng trong đó sanh lòng dũng mãnh, phấn chí sánh bằng chư Phật, cho là một niệm có thể siêu việt ba A Tăng Kỳ Kiếp, ấy gọi là dụng công lấn tiến quá mức. Ngộ thì biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh, chẳng mê chẳng chấp, lâu tự tiêu diệt, nếu cho là Thánh thì bị Ma Cuồng xâm nhập, hễ gặp người thì kiêu căng, khoe khoang, ngã mạn tăng trưởng, cho đến trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có người, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

3) Trong lúc Thiền Định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, tiến đến trước chẳng có chứng đắc mới, lui về sau lại mất chỗ cũ, sức trí kém mòn, giữa chừng bị lạc, chẳng có sở thấy, trong tâm bỗng sanh khô khan, luôn luôn nhớ mãi không tan, lại cho là tinh tấn, ấy gọi là tu tâm mà chẳng có huệ. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh, nếu cho là Thánh thì bị Ma Nhớ xâm nhập, ngày đêm trói tâm vào một chỗ, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

4) Trong lúc Thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, sức huệ mạnh hơn sức định, tâm chấp các việc thù thắng, tự tưởng là Phật Lô Xá Na, được ít cho là đủ, ấy gọi là dụng tâm quên mất quán chiếu, đọa vào tri kiến. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh. Nếu cho là chứng Thánh thì bị Ma-Hèn-Hạ-Dễ-Biết-Đủ xâm nhập, hễ gặp người thì tự xưng ta được Vô Thượng Đệ Nhất Nghĩa Đế, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

5) Trong lúc Thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm chưa rõ ràng, chưa được chứng mới, lại mất chỗ cũ, tiến lui đều chẳng được, cảm thấy khó khăn, bỗng sanh lòng lo âu, tâm chẳng muốn sống, mong cầu người khác sát hại thân này để mau được giải thoát, ấy gọi là tu hành lạc mất phuơng tiện. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh. Nếu cho là Thanh bị Ma-Hay-Lo-Rầu xâm nhập, tự cầm dao kiếm chém cắt thịt mình, thích bỏ thọ mạng, hoặc thường lo rầu, trốn vào núi rừng, sợ bị người thấy, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

6) Trong lúc Thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, ở nơi thanh tịnh, tâm được an nhàn, bỗng trong lòng vui mừng vô cùng, chẳng thể kiềm chế được, ấy gọi là khinh an mà chẳng có trí tuệ tự ngăn. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh , thì bị Ma-Ham-Vui xâm nhập, hễ gặp người thì cười, múa hát ngoài đường, tự cho mình đã được giải thoát vô ngại, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

7) Trong lúc Thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, tự cho sự tu của mình đã đầy đủ, bỗng sanh tâm đại ngã mạn, hoặc khinh mạn người, hoặc ngạo mạn mình hơn người, hoặc tăng thượng mạn, hoặc ty liệt mạn (khinh người hơn mình) đồng thời phát ra. Đã dám khinh chê mười phuơng chư Phật, huống là các bậc Thanh văn, Duyên giác ! Ấy gọi là kiến chấp quá cao, không có trí tuệ tự cứu. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh thì bị Ma-Đại-Ngã-Mạn xâm nhập, không lễ chùa tháp, phá hủy kinh tượng, nói với Phật tử rằng: "Tượng Phật là gỗ đá, vàng đồng, kinh sách là lá cây, giấy lụa, cái thân này đã là chơn thường, sao chẳng cung kính cúng dường, mà đi sùng bái loại cây loại gỗ, thật là điên đảo". Khiến những người tin theo lời họ hủy hoại tượng Phật,kinh sách, làm chúng sanh lầm lẫn, đọa địa ngục A Tỳ, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

8) Trong lúc Thiền Định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, ở nơi sáng tỏ tự ngộ chơn lý, được sự thuận lợi, trong lòng bỗng sanh khinh an vô cùng, tự nói chứng Thánh, được đại tự tại, ấy gọi là do huệ mà được khinh an. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh thì bị Ma-Khinh-An xâm nhập, tự cho là đủ, chẳng cầu tiến thêm, cũng như Tỳ Kheo Vô Văn, làm lẫm lẫn chúng sanh đọa ngục A Tỳ, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

9) Trong lúc Thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, trong chỗ tỏ ngộ, được tánh hư minh, bỗng trong đó sanh lòng đoạn diệt, bác bỏ nhân quả, luôn luôn chấp không. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh, nếu cho là Thánh thì bị Ma-Rỗng-Không xâm nhập, chê báng người trì giới Tiểu thừa, cho là bậc Bồ Tát hễ ngộ được Tánh Không thì chẳng có trì phạm, thường ở nơi đàn việt tín tâm, rượu thịt, dâm uế. Vì được sức ma nhiếp trì, nên chẳng sanh nghi ngờ, tâm ma xâm nhập lâu ngày, hoặc ăn những đồ nhơ nhớp, đại tiểu tiện, cho là chẳng khác rượu thịt, phá hoại giới luật, khiến người tạo tội, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

10) Trong lúc Thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, ham đắm sự hư minh, bỗng sanh lòng yêu vô hạn, yêu quá phát điên,liền thành tham dục, ấy là trong định ham chấp sự an ổn, không có trí tuệ tự chế, lầm vào ái dục. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng Thánh. Nếu cho là Thánh thì bị Ma-Dục xâm nhập, vọng nói dâm dục là đạo Bồ Đề, người hành dâm gọi là Trì Pháp Tử, dạy người thế gian làm việc dâm dục. Nhờ sức ma nhiếp trì, những kẻ ngu mê nghe theo, trong đời mạt pháp chẳng phải là ít, đến lúc ma sanh lòng chán, rời khỏi thân thể, người ấy mất hết uy đức, bị sa vào lưới pháp luật, khiến chúng sanh bị lầm lạc, đọa vào ngục A Tỳ, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.

-Mười cảnh giới Thiền đinh trên đều do thọ ấm và dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân duyên này mà chẳng tự biết, nói là chứng Thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục A Tỳ.
- Sau khi Như Lai nhập diệt, trong đời mạt pháp, các nguơi phải theo lời dạy bảo như trên, khai thị cho người tu, hộ trì cho họ thành Vô Thượng Đạo, chớ để cho thiên ma được dịp quấy phá.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]2 khách