Lăng Già luận

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Nhị thừa nói
- có khổ, có tướng khổ, là tướng vô thường, là tướng nên đoạn, gọi là chơn đế. Nhưng Tánh của Như Lai phi khổ, phi vô thường, chẳng phải tướng nên đoạn, thế nên là thật.
- Nói là tập hay khiến năm ấm hòa hợp mà sanh, cũng gọi là khổ, cũng gọi là vô thường, ấy là tướng nên đoạn. Nhưng Tánh Như Lai chẳng phải tánh tập, chẳng phải là nhơn ấm, chẳng phải là tướng nên đoạn, thế nên là thật.
- Nói là diệt gọi là phiền não diệt, cũng có thường, vô thường, là sở đắc của nhị thừa, gọi là vô thường. Sở đắc của chư Phật ấy gọi là thường, cũng gọi là chứng pháp, ấy là thật đế. Nhưng Tánh của Như Lai chẳng gọi là diệt mà hay diệt phiền não, chẳng phải có thường và vô thường, chẳng gọi là chứng biết mà thường trụ không biến, thế nên là thật.
- Đạo là hay đoạn phiền não, cũng có thường vô thường, là pháp nên tu, ấy gọi là thật đế. Như Lai chẳng phải đạo mà hay đoạn phiền não, chẳng phải có thường và vô thường , chẳng phải pháp nên tu, thường trụ chẳng biến đổi, thế nên là thật


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thức thứ 8 là Như Lai tàng không có chuyển biến, bị chuyển biến là kiến và tập. Như Lai tàng bất giác vọng động khởi kiến phần, do đó nhơn pháp huân biến thành tập khí. Nếu hay phát minh thức tức là tánh, liền lìa kiến tập, ấy gọi là Niết bàn
Kinh Niết bàn nói “Pháp giải thoát chẳng phải Niết bàn, thân Như Lai chẳng phải Niết bàn, ma ha bát nhã cũng chẳng phải Niết bàn. Ba pháp mỗi thứ khác cũng chẳng phải Niết bàn”. Niết bàn là pháp thân Như Lai, trí huệ, giải thoát viên mãn không thiếu, chẳng phải dọc, chẳng phải ngang, nên gọi là tự tánh không sự.
Kinh Niết bàn nói “Niết bàn không nhơn mà thể là quả. Vì cớ sao ? vì không sanh diệt, vì chẳng làm ra, vì chẳng phải hữu vi, vì là vô vi, vì thường chẳng đổi, vì không chỗ nơi, vì không thủy chung.
Thiện nam tử, nếu Niết bàn có nhơn thì không được gọi là Niết bàn. Vì không nhơn nên chẳng rơi vào thường, vì thể tự giác thánh trí nên chẳng rơi vào đoạn.

Lại Niết bàn vô ngã, mà có tám thứ tự tại, gọi là đại ngã .
- Một là hay hiện một thân làm vi trần thân
- Hai là hay thị hiện một trần thân đầy cả đại thiên thế giới.
- Ba là hay dùng thân đầy cả đại thiên thế giớinhẹ nhàng bay trong không.
- Bốn là hay làm một việc mà khiến chúng sanh mỗi mỗi xong xuôi, hoặc ở một cõi mà khiến các cõi khác đều thấy.
- Năm là sáu căn hổ dụng
- Sáu là hay được tất cả pháp mà không sở đắc
- Bảy là nói tự tại
- Tám là đầy khắp tất cả chỗ tự tại.
Đây là cảnh giới Đại Bát Niết Bàn tự tại của ba đời Như Lai


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đại Huệ ! Niết bàn chẳng hoại, chẳng tửThế Tôn thường bảo Ca Diếp rằng :Ngươi không nên khởi nghĩ tưởng này, bảo Như Lai tánh là diệt tận.
Thí như vua nghỉ ở hậu cung, hoặc khi dạo chơi ở sau vườn, vua tuy chẳng ở trong thể nữ, không thể nói vua mạng chung. Như Lai cũng vậy, tuy không hiện trong cõi Diêm Phù Đề , vào trong Niết bàn mà chẳng gọi là vô thường. Như Lai ra khỏi vô lượng phiền não vào nơi Niết bàn an lạc, dạo vườn hoa giác, hoan hỷ thọ vui.

Niết bàn chẳng phải xả, chẳng phải đắc, chẳng phải đoạn, chẳng phải lường, chẳng phải một nghĩa, chẳng phải nhiều nghĩa- Giải thoát gọi là không có chỗ khác. Phàm không có chỗ khác là chẳng phải xả vậy. (xả là bỏ đi)
- Giải thoát gọi là không thể thủ. Như trái Am ma lặc, mọi người có thể nắm giữ, giải thoát không như vậy, không thể nắm giữ. Phàm không thể nắm giữ là chẳng phải đắc.
- Giải thoát gọi là đoạn tất cả pháp hữu vi, xuất sanh tất cả pháp vô lậu. Phàm đoạn hữu vi là chẳng phải thường, sanh vô lậu thì chẳng phải đoạn
- Giải thoát gọi là không thể lường, thí như biển cả thì không thể lường tính.
- Giải thoát gọi là một vị, như sữa chỉ có một vị, giải thoát cũng vậy, chỉ có một vị. Phàm không thể lường thì chẳng phải một nghĩa, chỉ có một vị thì chẳng phải nhiều nghĩa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đại Niết Bàn có bốn tánh chất : Thường, Lạc, Nhã. Tịnh. Nhưng nhị thừa đối với các pháp cho là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Nên dụng công tu tập để đạt Niết bàn. Do bốn điên đảo cho là chẳng điên đảo, nên có tu tập đều là tác nhơn, mà chẳng phải liễu nhơn, nên không phải chơn Niết bàn.

(Thanh văn, Duyên giác chẳng biết rằng chúng sanh vốn đã ở trong diệt độ, ở trong Niết bàn, vốn là thường, lạc, ngã, tịnh. Khi tu quán vô thường, khổ, vô ngã nên gọi là điên đảo. Do có tu có đắc, nhưng Niết Bàn của họ chẳng phải là chơn Niết bàn mà chỉ là hóa thành, gọi là “Hữu dư Niết bàn”. Chư Phật liễu ngộ Niết bàn vốn tự có sẵn là chơn Niết bàn, đầy đủ bốn tính chất, được gọi là “Vô dư Niết” bàn)

Có hai thứ tướng tự tánh là :
Ngôn thuyết tự tánh chấp trước và sự tự tánh chấp trước.
- Ngôn thuyết tự tánh chấp trước là từ vô thỉ, ngôn thuyết hư ngụy tập khí chấp trước sanh.
- Sự tự tánh chấp trước là từ bất giác tự tâm hiện chừng ngằn sanh
.

Ngôn thuyết tập khí chấp trước là: như áo màu trắng, nói là trắng. Áo màu đen nói là đen, nhưng cũng có cõi khác chẳng nói trắng đen. Cho nên biết đều là từ vô thỉ truyền tập cho là quyết định trắng, quyết định đen.

Sự tự tánh chấp trước là như sắc, tâm v.v…sanh diệt hiện tiền, hoặc chấp có nhơn, hoặc chấp không nhơn, đều do chẳng biết tự tâm hiện ra, vọng khởi tính xét nét, phân biệt.

Hai tướng tự tánh này chính là sở tri, là pháp chấp của phàm phu và ngoại đạo.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Để hộ trì Bồ tát, Như Lai dựng lập hai thứ thần lực:
- Khi Bồ tát trụ sơ địa, thừa thần lực Phật nhập Chiếu Minh tam muội, gọi là Định Quang Minh. Nhập tam muội này rồi, mười phương thế giới tất cả chư Phật dùng sức thần thông vì hiện tất cả thân mặt ngôn thuyết.
- Khi Bồ tát thập địa đã viên mãn, Như Lai hiện thần lực: Tay quán đảnh tức là đầy đủ thập địa được quán đảnh trao ngôi vị.

Đại Bồ tát được Bồ tát tam muội chánh thọ thần lực, ở trăm ngàn kiếp chứa nhóm thiện căn được thành tựu tướng thứ lớp các địa đối trị và sở trị thông đạt cứu cánh, đến Pháp vân địa trụ nơi cung điện liên hoa vi diệu, ngồi tòa sư tử báu Đại liên hoa, đồng hàng đại Bồ tát quyến thuộc vây quanh, các thứ báu anh lạc trang nghiêm thân như huỳnh kim, chiêm bặt, nhật nguyệt quang minh, các bậc tối thắng tử từ mười phương đến, ngồi trong tòa trên cung điện Đại Liên Hoa , mà quán đảnh kia. Thí như Chuyển luân thánh vương tự tại và thái tử của trời Đế Thích quán đảnh (rót nước trên đầu để truyền ngôi), ấy gọi là Bồ tát tay quán đảnh đại thần lực .

Bồ tát có nhạo biện (nhạo thuyết biện tài) đều do trụ thần lực của Phật. Lại đề ra vô tình dẫn đến hữu tình, thần lực rộng lớn bất khả tư nghì, song cũng là tự tâm hiện ra. Một thể tròn khắp các loài hàm thức do tình sanh trí cách.

Đại Huệ ! khi Như Lai khi nhập thành, do sức oai thần của Như Lai, núi đá, cây cối và các thứ nhạc khí, thành quách cung điện đều tự nhiên phát ra tiếng âm nhạc, huống là hữu tâm, mù, điếc, ngọng, câm các khổ vô lượng đều được giải thoát. Như Lai có vô lượng thần lực như thế… làm lợi ích an lạc chúng sanh


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Như Lai nói nhơn duyên, ngoại đạo cũng nói nhơn duyên. Vậy khác nhau ở chỗ nào ?
- Ngoại đạo chấp có thắng tánh (thượng đế), có tự tại (tự ngã), có thời gian, vi trần v.v… rồi từ đó mà lập nhơn duyên.
- Như Lai cũng nói nhơn duyên, (vô minh duyên hành, thức v.v…) nhưng cũng nói rằng từ bất giác mà sanh, không thực có.

Ngoại đạo cho tác giả là sanh nhơn (thượng đế sanh ra mọi pháp) tức là chấp vô nhơn (tự nhiên có)

Phật nói nhơn duyên hòa hợp sanh ra các pháp, chẳng nói vô nhơn. Nhưng cũng nói năng nhiếp, sở nhiếp là phi tánh, đều do tự tâm hiện.

Nếu không có các pháp thì ngôn thuyết không có chỗ y khởi. Chẳng biết tất cả cảnh giới đều do tự tâm bất giác vọng hiện. Lại nhơn vọng niệm mà sanh chấp thủ, vọng chấp danh tự. Vì vậy đã có ngôn thuyết thảy thuộc về mê, không có nghĩa thật.

Lông rùa sừng thỏ dụ không pháp mà có ngôn thuyết, tất cả pháp do bất giác vọng hiện. Ở nơi tự giác thánh trí cũng ví như sừng thỏ, lông rùa không có ngôn thuyết.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Ngôn thuyết là tạo tác, nghĩa là do tâm tạo ra. Đã do tâm tạo thì ngôn thuyết và sở thuyết thảy duy tự tâm, cho đến tạo hình tướng, nhướng mày chớp mắt đều là tự tâm, Tất cả pháp đều không có thể tánh. Không có thể tánh mà mỗi pháp vẫn có thể hiển bày. Mỗi pháp có hiển bày, chỉ nêu bày tự tâm. Ở nơi ngu si là vọng chấp , ở nơi thánh trí là chỉ mê, đều hiển bày duy nhất tự tâm. Chẳng phải ngôn thuyết có tánh , có tất cả tánh.
Ruồi lằn, trùng kiến là nêu vật hiện tiền để thấy đều dùng, để rõ ngôn thuyết vô tánh (ruồi, lằn, trùng, kiến đều chẳng có ngôn thuyết, nhưng vẫn dùng được nó. Chứng tỏ ngôn thuyết không có tánh)

Tất cả thế gian vốn không các pháp mà có ngôn thuyết đều do vọng chấp. Tất cả xuất thế cũng không các pháp mà có ngôn thuyết, chỉ vì phá trừ. Vọng chấp vốn rỗng thì phá trừ cũng chẳng thật, nên nói như hư không v.v…
Phàm ngu chẳng biết các pháp tự tướng như thật, mà đối với nhơn duyên hòa hợp kiến lập (chấp có) phỉ báng (chấp không) luống trái với pháp thể. Do vọng phân biệt, tự nhận lưu chuyển, thật đáng thương thay !


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tất cả các pháp không có tự tánh, không thể chấp có hay không. Nếu không chấp thì chẳng thể nói các pháp có biến đổi, tức là vô thường.

Vì vậy kinh Pháp Hoa nói :
Các pháp trụ pháp vị
Tướng thế gian thường trụ.
Các pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ là nghĩa gì ? Tức là nếu các pháp thế gian, mọi vật, được nhìn bằng con mắt pháp thì đều là Chơn tánh cả, do đó đều là thường trụ

Kinh Niết bàn, Phật nói
“ Ta cũng chẳng nói lục nhập trong - ngoài và lục thức là thường, chính ta tuyên nói diệt lục nhập trong ngoài, sanh ra sáu thức, gọi đó là thường “.

Chính vì lục thức phân biệt nên các pháp có biến đổi vô thường.
Nếu diệt lục thức thì trong ngoài đều là duy tâm, thánh phàm đồng hiện.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Các pháp thế gian, phàm phu thấy có hiện hữu, biến đổi điên đảo.
Nhị thừa thì thấy các pháp đều là không, nên không thấy điên đảo.

Thấy điên đảo hay không điên đảo đều là phân biệt, chẳng phải thực tướng.

Tỷ như sông Hằng, loài ngạ quỉ bị quả báo đói khát nên ở cạnh mà chẳng thấy nước. Loài người thì vẫn thấy nước sông Hằng.
Nước sông Hằng vốn không có tánh có – không, chỉ tùy theo chúng sanh mà hiện.

Tất cả các pháp đều do vọng tưởng phân biệt, mà pháp không có tánh phân biệt. Pháp không có phân biệt nên gọi là thường trụ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phàm phu chấp các pháp thực có, trong khi Phật bảo các pháp như mộng, như huyễn, như vòng lửa, như thành Càn thát bà. Đó gọi là điên đảo của phàm phu.

Nhị thừa chấp rằng thế gian vô thường, vô ngã, là khổ, là bất tịnh. Đó là điên đảo của nhị thừa, vì thực tướng các pháp thì : Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Thực tướng của các pháp ngoài cả hai thứ có và không, gọi đó là hoặc loạn chơn thực.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Pháp hoặc loạn vốn tự bình đẳng, chỉ hay lìa các phân biệt liền gọi là chơn như.
Hoặc loạn hiển bày (pháp giới), khởi hai chủng tánh là thánh – phàm.

Thánh chủng tánh có 3 là Thanh văn thừa, duyên giác thừa và Phật thừa.
Ngu phu chủng tánh có bốn thứ :
- Ngu phu thừa chủng tánh. chấp các thứ sự vật hiện tiền cho là thật có. chẳng phải thường tưởng là thường, chẳng phải lạc, ngã, tịnh khởi tưởng lạc, ngã, tịnh.
- Thanh văn thừa chủng tánh: Chấp trước tự tướng, cộng tướng. Quán ấm, giới, nhập là không, khởi tưởng vô ngã, chứng nhơn vô ngã, mà tự tướng chẳng diệt, nên không được pháp vô ngã.
- Duyên giác thừa chủng tánh : Đối với tự tướng, cộng tướng chấp nơi duyên khởi, đối với pháp ngã vẫn chưa liền quên.
- Phật thừa chủng tánh : tức nơi hoặc loạn mà tức phi hoặc loạn, liền đó tưởng hết, tức là như như Phật. Đây là giác tự tâm hiện lượng, thấy tất cả pháp không có pháp thể, nên vọng tưởng chẳng sanh.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Lăng Già luận

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Các pháp chẳng phải thực có, chẳng phải thực không, chỉ do vọng tưởng mà có phân biệt. Lìa phân biệt thì chơn như pháp tánh hiển bày.
Bên trong khởi vọng tâm, thì bên ngoài thấy vọng pháp. Trong ngoài đều là hoặc loạn, đều không có thật. Chỉ là ở trong mê.

Do tâm sanh ra sáu thức nên vạn pháp hiện tiền. Nếu sáu thức đã diệt thì các pháp không tự tánh. Cho nên biết tất cả hoặc loạn đều như huyễn, không thể nói có hay không. Nếu biết là như huyễn mà vẫn chấp trước thì không thể phá chấp được.

Trong 12 nhân duyên, ngoại đạo chấp vô minh là thực có nên chấp mọi thứ đều có thật.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.92 khách