hlich đã viết:
Nhưng chưa thể dừng ở lý duyên sinh được.
duyên khởi = không tánh
có gì nữa để tiến (vượt) không tánh, biết dừng ở duyên khởi là biết sự bất khả đắc đó?
Lâu quá mới có diệp đàm đạo cùng hlich. Vẫn khỏe an vui chứ?
1. Phải đọc hết bài tôi nói thì mới hiểu. Tôi thấy ông Luu tuy hiểu được lý duyên khởi (pháp nhị thừa) là tốt rồi, bởi người nào chấp nhận và hiểu lý duyên khởi mới thật là Phật Tử, bởi có nhiều Phật Tử còn không hiểu lý duyên khởi là gì, nên đôi khi dễ bị các đạo khác mê hoặc. Và lý duyên khởi là nền móng không những của Phật pháp mà còn là của Bát Nhã Đại Thừa. Cho nên muốn đến đại thừa cần phải nắm chặc lý duyên sinh nầy. Nhưng ông Luu cả đoạn văn giải thích lý duyên khởi tuy có chỗ đúng, nhưng ở đoạn cuối kết luận cho mọi thứ là "huyễn ảo" nên tôi không đồng ý. Bởi vì không phải dùng lý duyên khởi để phụ nhận vạn pháp. Thí dụ cái bàn có đó thì kệ nó đâu cần phải sanh tâm cho nó là huyễn ảo bằng cách dùng bộ óc hư vọng để phân tích nó là duyên sinh giả tạm rồi chối bỏ nó. Đem tâm hư vọng chối bỏ nó nhưng nó đâu có mất, hằng ngày vẫn dùng nó để viết bài, ăn cơm, để mái vi tính v.v...kia mà? Vậy cái bàn là huyễn ảo ở chỗ nào mà nói là huyễn ảo.
Nói cái bàn không phải là huyễn ảo, thì có lẽ mọi người cho tôi chấp nhận cái bàn là thật có? Nhưng sai lầm. Cái bàn có thật hay không có thật thì chẳng mắt mớ gì tới tôi cũng như chẳng dính dáng gì đến mọi người. Tự thân cái bàn là không tự thể rồi vì duyên sinh thì đâu cần bàn tới chi nữa. Tại sao lại cứ khởi tâm động niệm, đem tâm mình bám vào cái bàn mà suy luận có không? tại sao đem cái bàn vào tâm của mình?
Đó là chỗ khác biệt giữa Nhị Thừa và Đại Thừa.
Nhị thừa thì hướng ra ngoài quán duyên sinh để rồi phủ nhận vạn pháp, nhờ đó các căn đống lại với các trần, nên các trần không còn làm các căn ô nhiễm, do vậy được thanh tịnh chứng tứ thiền, thành A La Hán.
Nhưng muốn thành Phật Chánh Giác cần phải hướng vào trong quán tâm mình, tâm khởi thì vạn pháp liền sanh, tâm diệt thì vạn pháp liền diệt. Chứ không cần dùng tâm để phân biệt và phân tích rằng vạn pháp là do duyên sinh mà phủ định vạn pháp. Mà cần phải quán lại ngay cái tâm phân biệt ấy xem nó từ đâu mà hưng khởi? rồi khi nó diệt thì diệt về chỗ nào?
Đó mới gọi là thành thâm bát nhã. Nhờ công phu hành thâm bát nhã nên thật tướng bát nhã mới hiển bài. Tới lúc đó thì nhìn vạn pháp với thật tướng của chính nó "đương thể tức không" hay "như thị".
Hiện giờ lý luận vạn pháp là thật có hay thật không. Đó là bộ não lý luận. Phủ định và khẳng định là sản phẩm giả lập của võ não nên không có tính cách chân thật khi nhìn vạn pháp. Không thấy được vạn pháp bằng thực tại của chúng "như thị".
2. Nhị Thừa dùng lý duyên sinh để lập Vô Ngã. Song, Vô ngã nếu được hiểu nhân vô ngã thôi thì rơi vào chấp pháp. Vì sao? Bởi nói không có Ngã, vì cái thân là do tứ đại hòa hợp mà thành. Tuy ngã đã phá nhưng còn khăn khăn chấp thật có những cái duyên mà hòa hợp tạo thành con người ấy là thật có. Còn nếu thấy cả hai Nhân và Pháp đều Vô Ngã nhưng cái thấy ấy chỉ quanh quẩn trong khái niệm giả lập của tâm thức bằng triết học duy lý thì trở thành ngoan không. Cái gì cũng phủ nhận.
Hiện giờ đem tâm hư vọng dùng lý duyên khởi phân biệt cho vạn pháp là có hay không, phủ nhận hay khẳng định vạn pháp thì chỉ là quanh uẩn mãi trong tâm thức. Không bao giờ dứt được tâm hư vọng ấy.
Do vậy không thể nói suông bằng miệng hay nghĩ suông thấy suông bằng tâm thức hư vọng. Mà cần phải chân thật tham thiền, miên mật quán chiếu bát nhã thì mới có ngày "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không" và thấy được thật tướng của vạn pháp "như thị".
Do vậy các tổ khi ngộ đạo rồi thì vẫn bình thường, ăn cơm mặt áo, không hề phủ nhận hay khẳng định một cái gì hết. Nhìn vạn pháp bằng cái tướng chân thật của chúng.