Re: Toát yếu: Pháp Bảo Đàn Kinh
Đã gửi: 21/07/12 06:43
VÔ TƯỚNG TAM QUI Y GIỚI
Qui y Phật, thử hỏi Phật ở đâu? Nếu nói Phật trên bàn thờ thì Phật có nói câu nào mà nương với Ngài được? Còn nếu nói Phật ở Ấn Độ thì Ngài đã tịch hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Như nói qui y là nương về, nương về với hình tượng không biết nói năng, hay nương về với Phật xa xưa đã mất từ lâu rồi, đó là nương về cái rỗng. Cho nên Tổ bảo nương về Tánh giác của mình, đó là qui y Phật. Tánh giác nơi mình mới là thật, mới là chỗ để trở về. Nếu chúng ta không đạt được lý này, thành ra nói rỗng, không có lẽ thật.
Qui y Pháp, Pháp tức là Chánh, đây là chánh kiến, hằng thấy được điều tà ngoại không theo, đó là qui y Pháp.
Qui y Tăng, Tăng tức là Tịnh, đó là Tâm thanh tịnh của mình. Như vậy Tổ muốn dạy chúng ta xoay trở về Tự tâm thanh tịnh của mình, có đầy đủ Tam Bảo, đó mới là qui y chân thật, đó mới là chỗ qui hướng đạt đạo; còn nếu chúng ta cứ hướng về bên ngoài khơi khơi như vậy, thì biết đến bao giờ đạt đạo! Đó là điều căn bản cần phải hiểu. Cho nên trong mỗi thời khóa tụng kinh đều có hai đợt lạy Tam Bảo: Phần đầu sau khi tán dương Phật rồi, chúng ta lạy ba lạy là lạy Tam Bảo ở ngoài, tức là Tam Bảo mười phương đã có công giáo hóa chúng ta. Đến phần cuối khi chấm dứt thời kinh, chúng ta lạy ba lạy: Tự qui y Phật, tự qui y Pháp, tự qui y Tăng, là lạy Phật, Pháp, Tăng của mình. Đức Phật xa xưa là bậc trưởng thượng chúng ta lạy là phải, nhưng vì sao mình lạy mình? Tự qui y là:
“Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.” Chúng tôi giải thích ý nghĩa của buổi lễ. Tự qui y Phật là trở về nương tựa ông Phật của mình, tức là Tánh giác. Đương nguyện chúng sanh là nguyện cho tất cả chúng sanh. Thể giải đại đạo là thể nhập và hiểu thấu đạo lớn. Phát vô thượng tâm là phát tâm vô thượng. Phần trước chúng ta lạy Tam Bảo ở ngoài là vì lòng thành kính và ngưỡng mộ, còn ở đây mình lạy với tánh cách thệ nguyện, mình biết trở về Phật của mình, rồi nguyện cho tất cả chúng sanh đều hiểu được đạo lớn và phát tâm vô thượng. Vì biết trở về ông Phật của mình, mà chúng sanh chưa biết, nên mình lạy nguyện với Tam Bảo cho tất cả chúng sanh sẽ được như con, tức là trở về Phật của mình, hiểu được đại đạo và phát tâm vô thượng như con vậy.
“Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.” Tức là mình biết trở về với Pháp của nội tâm mình là chánh kiến, nhưng nhớ đến chúng sanh chưa biết điều đó, nên mình nguyện tất cả chúng sanh đều thâm nhập được kinh tạng, vào trí tuệ rộng như biển cả.
“Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.” Khi biết trở về với vị Tăng của mình, tức là tâm thanh tịnh của mình, chúng ta nguyện tất cả chúng sanh thống lý đại chúng tức là quản lý tất cả chúng, mà không có chướng ngại. Thường trong nhà Phật nói rằng chúng ta tu làm lợi ích cho mình cho người thì dễ, nhưng nhiếp chúng là cả một vấn đề. Nhiếp chúng tức là coi chúng để dạy họ sống hòa thuận an vui không bị phiền não rắc rối, đó là một chuyện hết sức khó. Cho nên nguyện tất cả chúng sanh quản lý hết chúng mà không có chướng ngại.
Như vậy mỗi khi lễ Phật rồi, chúng ta đều trở về Tam Bảo của Tự tâm, và không quên nghĩ đến chúng sanh nên nguyện cho tất cả đều được ba điều lớn lao đó. Mỗi một lần tự qui y rồi, chúng ta lạy Phật một lạy để thệ nguyện của mình được thực hiện. Biết được ý nghĩa tự qui y là trở về qui hướng với Tam Bảo nơi mình, đó mới là nghĩa chân thật vậy.
Nghĩa là Sắc thân mình mang đây là nhà cửa để mình tạm trú, chớ không phải là chỗ để mình qui y, nay mai nó tan rã, làm sao nương tựa nó được.
141.HT giảng: Kế đến Tổ trao Vô tướng Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: qui y Phật Lưỡng túc tôn, qui y Pháp Ly dục tôn, qui y Tăng Chúng trung tôn, nhưng Lục Tổ lại dạy khác: qui y Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy Giác là giác của Tự tâm, Chánh là chánh của Tự tâm, và Tịnh là tịnh của Tự tâm, đây là Phật Pháp Tăng của Tự tâm; còn chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài, cho nên khác nhau ở chỗ đó.Này Thiện tri thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,
Qui y Giác Lưỡng túc tôn,
Qui y Chánh Ly dục tôn,
Qui y Tịnh Chúng trung tôn.
Như vậy qui y Giác là qui y Phật, đó là Phật của chính mình, không phải Phật nào khác. Giác, Chánh, Tịnh là sẵn nơi Tự tâm của mình, chớ không ở đâu xa.Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng qui y tà ma ngoại đạo, dùng Tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện tri thức qui y Tự tánh Tam Bảo: Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh vậy.
Chữ túc là chân, cũng có nghĩa là đủ. Lưỡng túc tôn là hai cái đầy đủ tức là tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc hay lìa tài và sắc, lìa tài lìa sắc đó là lưỡng túc, hai cái đủ, lìa tà mê là hai cái đủ. Hai cái đó đều lìa được gọi là Lưỡng túc tôn.Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lìa tài sắc, gọi là Lưỡng túc tôn.
Chánh tức là chánh kiến; bởi chánh kiến nên không có tà kiến; bởi không tà kiến nên mình không có chấp nhân, chấp ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, lìa những tham dục, đó gọi là Ly dục tôn.Tự tâm qui y Chánh, niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến tức là không nhân ngã cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn.
Qui y Tịnh tức là trở về tâm thanh tịnh của mình, thì tất cả các trần lao, ái nhiễm v.v... ngay Tự tánh mình đều không nhiễm trước, gọi đó là Chúng trung tôn. Như vậy Tổ đều qui hướng Phật, Pháp, Tăng trở về Tự tâm mình.Tự tâm qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, Tự tánh đều không nhiễm trước gọi là Chúng trung tôn.
142.HT giảng: Tổ giải thích, như chúng ta phát nguyện trước Tam Bảo:Nếu tu hạnh này, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ sáng đến tối, thọ Tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng.
Qui y Phật, thử hỏi Phật ở đâu? Nếu nói Phật trên bàn thờ thì Phật có nói câu nào mà nương với Ngài được? Còn nếu nói Phật ở Ấn Độ thì Ngài đã tịch hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Như nói qui y là nương về, nương về với hình tượng không biết nói năng, hay nương về với Phật xa xưa đã mất từ lâu rồi, đó là nương về cái rỗng. Cho nên Tổ bảo nương về Tánh giác của mình, đó là qui y Phật. Tánh giác nơi mình mới là thật, mới là chỗ để trở về. Nếu chúng ta không đạt được lý này, thành ra nói rỗng, không có lẽ thật.
Qui y Pháp, Pháp tức là Chánh, đây là chánh kiến, hằng thấy được điều tà ngoại không theo, đó là qui y Pháp.
Qui y Tăng, Tăng tức là Tịnh, đó là Tâm thanh tịnh của mình. Như vậy Tổ muốn dạy chúng ta xoay trở về Tự tâm thanh tịnh của mình, có đầy đủ Tam Bảo, đó mới là qui y chân thật, đó mới là chỗ qui hướng đạt đạo; còn nếu chúng ta cứ hướng về bên ngoài khơi khơi như vậy, thì biết đến bao giờ đạt đạo! Đó là điều căn bản cần phải hiểu. Cho nên trong mỗi thời khóa tụng kinh đều có hai đợt lạy Tam Bảo: Phần đầu sau khi tán dương Phật rồi, chúng ta lạy ba lạy là lạy Tam Bảo ở ngoài, tức là Tam Bảo mười phương đã có công giáo hóa chúng ta. Đến phần cuối khi chấm dứt thời kinh, chúng ta lạy ba lạy: Tự qui y Phật, tự qui y Pháp, tự qui y Tăng, là lạy Phật, Pháp, Tăng của mình. Đức Phật xa xưa là bậc trưởng thượng chúng ta lạy là phải, nhưng vì sao mình lạy mình? Tự qui y là:
“Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.” Chúng tôi giải thích ý nghĩa của buổi lễ. Tự qui y Phật là trở về nương tựa ông Phật của mình, tức là Tánh giác. Đương nguyện chúng sanh là nguyện cho tất cả chúng sanh. Thể giải đại đạo là thể nhập và hiểu thấu đạo lớn. Phát vô thượng tâm là phát tâm vô thượng. Phần trước chúng ta lạy Tam Bảo ở ngoài là vì lòng thành kính và ngưỡng mộ, còn ở đây mình lạy với tánh cách thệ nguyện, mình biết trở về Phật của mình, rồi nguyện cho tất cả chúng sanh đều hiểu được đạo lớn và phát tâm vô thượng. Vì biết trở về ông Phật của mình, mà chúng sanh chưa biết, nên mình lạy nguyện với Tam Bảo cho tất cả chúng sanh sẽ được như con, tức là trở về Phật của mình, hiểu được đại đạo và phát tâm vô thượng như con vậy.
“Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.” Tức là mình biết trở về với Pháp của nội tâm mình là chánh kiến, nhưng nhớ đến chúng sanh chưa biết điều đó, nên mình nguyện tất cả chúng sanh đều thâm nhập được kinh tạng, vào trí tuệ rộng như biển cả.
“Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.” Khi biết trở về với vị Tăng của mình, tức là tâm thanh tịnh của mình, chúng ta nguyện tất cả chúng sanh thống lý đại chúng tức là quản lý tất cả chúng, mà không có chướng ngại. Thường trong nhà Phật nói rằng chúng ta tu làm lợi ích cho mình cho người thì dễ, nhưng nhiếp chúng là cả một vấn đề. Nhiếp chúng tức là coi chúng để dạy họ sống hòa thuận an vui không bị phiền não rắc rối, đó là một chuyện hết sức khó. Cho nên nguyện tất cả chúng sanh quản lý hết chúng mà không có chướng ngại.
Như vậy mỗi khi lễ Phật rồi, chúng ta đều trở về Tam Bảo của Tự tâm, và không quên nghĩ đến chúng sanh nên nguyện cho tất cả đều được ba điều lớn lao đó. Mỗi một lần tự qui y rồi, chúng ta lạy Phật một lạy để thệ nguyện của mình được thực hiện. Biết được ý nghĩa tự qui y là trở về qui hướng với Tam Bảo nơi mình, đó mới là nghĩa chân thật vậy.
Tức là ông Phật của mình mà mình không chịu trở về, thì không còn chỗ nào để mình nương được.Này Thiện tri thức, mỗi người tự quan sát, chớ lầm dụng tâm, kinh văn rõ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác, tự Phật mà chẳng qui thì không có chỗ nào mà y được.
Sau phần tự qui y Tam Bảo, Tổ nói về một thể ba thân Tự tánh Phật. Ba thân là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, ba thân này là Tự tánh Phật của chính mình, đều là Tự tánh mình có sẵn, chớ không đâu khác.Nay đã tự ngộ, mỗi người phải qui y Tự tâm Tam Bảo, trong thì điều hòa tâm tánh, ngoài thì cung kính mọi người, ấy là tự qui y vậy.
Này Thiện tri thức, đã qui y tự Tam Bảo xong, mỗi người phải chí tâm, tôi vì nói một thể ba thân tự tánh Phật, khiến các ông thấy được ba thân rõ ràng tự ngộ Tự tánh.
Này Thiện tri thức, Sắc thân là nhà cửa không thể nói qui hướng.Phải nói theo tôi: Nơi tự Sắc thân qui y Thanh tịnh Pháp thân Phật, nơi tự Sắc thân qui y Viên mãn Báo thân Phật, nơi tự Sắc thân qui y Thiên bá ức Hóa thân Phật.
Nghĩa là Sắc thân mình mang đây là nhà cửa để mình tạm trú, chớ không phải là chỗ để mình qui y, nay mai nó tan rã, làm sao nương tựa nó được.