Lược giải kinh Kim Cương

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XII. TÔN TRỌNG CHÍNH GIÁO
Phục thứ Tu Bồ Ðề! Tùy thuyết thị kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ, nhất thiết thế gian; thiên, nhân, A Tu La giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu. Hà huống hữu nhân tận năng thọ trì đọc tụng. Tu Bồ Ðề! Ðương tri thị nhân, thành tựu tối thượng đệ nhất hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển, sở tại chi xứ, tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử".
  • Dịch nghĩa:

    TÔN TRỌNG CHÍNH GIÁO
Lại nữa Thiện Hiện
Tùy chỗ nói kinh
Nhẫn đến chỉ một
Bài kệ bốn câu
Nên biết nơi ấy
Hết thảy thế gian
Trời, người, tu la
Đều nên cúng dường
Như tháp miếu Phật
Huống nữa có người
Đọc tụng, thọ trì
Toàn bộ kinh văn.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Nên biết người ấy
    Thành tựu được pháp
    Tối thượng hiếm có
    Đệ nhất trên đời.
    Nếu có chỗ nào
    Loại kinh điển này
    Tức chính nơi ấy
    Có đức Thế Tôn
    Và những đệ tử
    Quý trọng của Phật.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Thế gian: Thế giới, thời gian, không gian. Thời gian gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai. Không gian bao hàm vũ trụ vạn hữu.
  2. Nhất thiết thế gian: Hảy thảy thế giới, nghĩa là bao hàm không gian, thời gian và vạn hữu: Từ các cõi trời, người, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục cho đến Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật dạy: Thật nghĩa của kinh này là đệ nhất. Bởi vậy cho nên nơi nào có nói kinh này (tức tâm vô sở trụ), nhẫn đến chỉ nói bài kệ bốn câu (lìa hẳn bốn thứ tình chấp), thì hết thảy thế gian: từ các cõi trời, người, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, cho đến Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều đến cúng dường như tháp miếu Phật.

Cúng dường ở đây chính là xả sạch vọng tưởng: xả hết những tự ngôn, tự ngữ trong tâm của mình. Từ những vọng tưởng phàm phu cho đến những vọng kiến về khổ, tập, diệt, đao (Thanh văn), về mười hai nhân duyên (Duyên giác), về lục độ của Bồ tát, từ hàng Sơ địa cho đến Cửu địa. Xả hết những tình phàm lượng thánh ấy, thì bản giác mới hiện bày.

Bởi vậy cho nên, Phật nói người nào đọc tụng, thọ trì toàn bộ kinh văn, thì nên biết người này thành tựu pháp hy hữu tối thượng đệ nhất. Pháp hy hữu tối thượng đệ nhất là pháp hiếm có, không gì so sánh được, tức tâm xa lìa mọi tưởng, thực hiện tự tại tuệ giác nên bốn thứ tình chấp: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả không thể khống chế, và sống lại với bản giác thường nhiên xưa nay của mình.

Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật dùng hình ảnh tháp Đa Bảo trụ giữa hư không, để ám chỉ chỗ vô trụ. Không trụ ở nơi sáu phàm tình, cũng không trụ ở nơi thánh giải. Trụ chỗ vô trụ chính là thủy giác trở lại với bản giác vậy thôi. Vì vậy nên đức Phật nói: "Chỗ nào có kinh pháp này tức chính nơi ấy có Phật (dụ cho tánh giác) và có những vị đệ tử quý kính của đức Thế Tôn". Những vị đệ tử quý kính ở đây là những vị chứng đạo sau Phật, mà chứng đạo sau Phật chính là chư Tổ vậy. Vì vậy cho nên phải "Như pháp thọ trì" mới thật sự sống được với tánh giác của mình.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XIII. NHƯ PHÁP THỌ TRÌ
Nhĩ thời, Tu Bồ Ðề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Ðương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì?

Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Thị kinh danh vi Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, dĩ thị danh tự nhữ đương phụng trì. Sở dĩ giả hà?

Tu Bồ Ðề! Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật, tức phi Bát Nhã Ba La Mật, thị danh Bát Nhã Ba La Mật.

Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai sở hữu thuyết pháp phủ?"

Tu Bồ Ðề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Như Lai vô sở thuyết".

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Tam thiên đại thiên thế giới sở hữu vi trần, thị vi đa phủ?

Tu Bồ Ðề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn!"

- Tu Bồ Ðề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh vi trần; Như Lai thuyết thế giới, phi thế giới, thị danh thế giới.

Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ?

- Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng.

Tu Bồ Ðề! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ hằng hà sa đẳng thân mạng bố thí. Nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thậm đa.
  • Dịch nghĩa:

    THỌ TRÌ NHƯ PHÁP
Bấy giờ Thiện Hiện
Bạch với Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn
Phẩm kinh quý này
Tên gọi là gì?
Hết thảy chúng con
Làm sao phụng trì?

  • Phật bảo Thiện Hiện
    Kinh này gọi là
    Kim Cương Bát Nhã
    Ba la mật đa
    Các thầy hãy nên
    Thọ trì như tên
    Nghĩa ấy thế nào?
    Này thầy Thiện Hiện
    Phật nói Bát Nhã
    Ba la mật đa
    Tức phi Bát Nhã
    Ba la mật đa
    Gọi là Bát Nhã
    Ba la mật đa.
    Này thầy Thiện Hiện
    Ý thầy thế nào?
    Như Lai thật có
    Thuyết pháp hay chăng?
Thầy Thiện Hiện thưa
Bạch đức Thế Tôn
Như Lai chẳng thuyết.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Ý thầy nghĩ sao?
    Những hạt bụi nhỏ
    Ở trong ba nghìn
    Thế giới rộng lớn
    Bụi có nhiều chăng?
Thầy Thiện Hiện thưa:
Bạch Phật nhiều lắm.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Những hạt bụi nhỏ
    Như Lai nói rằng
    Tức chẳng hạt bụi
    Mới là hạt bụi.
    Như Lai nói rằng
    Thế giới rộng lớn
    Tức phi thế giới
    Mới là thế giới.
    Này thầy Thiện Hiện
    Ý thầy thế nào?
    Có thể căn cứ
    Vào ba hai tướng
    Mà cho rằng thấy
    Được Như Lai chăng?
Bạch đức Thế Tôn
Không thấy vậy được
Không thể căn cứ
Ba mươi hai tướng
Mà cho rằng thấy
Được đức Như Lai
Vì sao như vậy?
Vì Như Lai nói
Ba mươi hai tướng
Tức là phi tướng
Mà tạm gọi là
Ba mươi hai tướng.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Nếu có thiện nam
    Cùng người tín nữ
    Đem thân mạng mình
    Nhiều như số cát
    Ở trong sông Hằng
    Dùng để bố thí.
    Và lại có ngời
    Ở trong kinh này
    Nhẫn đến thọ trì
    Chỉ bốn câu kệ
    Rồi nói cho người
    Thì phước đức này
    Nhiều vô số kể.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Vi trần: Hạt bụi nhỏ. Lớn hơn vi trần bảy lần gọi là kim trần. Kim trần là vật thể có khả năng xuyên qua các kẽ hở của kim loại. Hạt bụi nhỏ nhiệm nhất gọi là lân hư trần, nghĩa là hạt bụi láng giềng với hư không. Một lân hư trần trong thời gian một tích tắc nó vừa ở dạng hạt (quart) vừa ở dạng sóng (phi hạt). Lân hư trần thay đổi hình dạng rất nhanh, nên không có thứ gì gọi là vật chất cuối cùng cả. Bởi tất cả mọi hiện tượng đều là vô ngã, nên đều là giả danh.
  2. Thế giới: Thế là đổi dời, giới là phương vị, thế giới cũng như thế gian (từ thế gian đã giải ở trước). Thế giới rộng lớn tức vĩ mô, lân hư trần tức vi mô, cả hai đều vô ngã, nên Phật dùng thành ngữ "tức phi... thị danh".

    Thế giới quan: Những khái niệm thuộc về tâm thức.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Ở đoạn trước Phật nói kinh này là hơn tất cả, nên phải tôn trọng và thọ trì. Thầy Thiện Hiện muốn biết tên kinh và làm sao để thọ trì?

Đức Phật dạy: "Kinh này tên là Kim Cương Bát Nhã ba la mật đa, cứ theo tên là phụng trì". Như vậy có nghĩa là vừa tên kinh mà đồng thời vừa là pháp. Song, pháp Kim Cương Bát Nhã Ba la mật đa là pháp gì? Chẳng có pháp gì cả? Mà chính là tâm vô sở trụ, chứ không phải ở nơi tên gọi. Vì vậy cho nên Phật bảo "Bát Nhã Ba là mật tức phi Bát Nhã Ba la mật, thị danh Bát Nhã Ba la mật": Bát Nhã Ba la mật là ở nơi tâm vô sở trụ, tâm không kiến lập tất cả pháp, mà tạm gọi là Bát Nhã ba la mật mà thôi. Như vậy thì cả tên kinh lẫn pháp đều phải lìa, mới ở nơi tâm vô sở trụ được.

Như thế, thì Như Lai có thuyết pháp chăng? Hiểu được ý này nên thầy Thiện Hiện thưa: "Như Lai chẳng thuyết pháp gì". Vì ở đoạn trước Phật chỉ rõ thật nghĩa của Bát Nhã Ba la mật chính là tâm thể vô trụ, tâm xả ly nhị pháp (chấp ngã và pháp), tâm không kiến lập vọng tưởng. Nếu Như Lai có thuyết pháp gì tức có sở thuyết, mà sở thuyết tức bị rơi vào đối đãi hai bên, và bị bốn tướng không chế.

Đến đây đại chúng nhận được thật nghĩa của "Nhân không và pháp không", nhưng lại nghĩ rằng: Như Lai có ba mươi hai tướng quý và như vậy là Như Lai cũng có ngã, mà đã có ngã đương nhiên cũng có ngã sở, thì chấp thủ vẫn còn.

Để giải nghi cho đại chúng, đức Phật chỉ rõ tận cùng của cực vi trần tức phi vi trần, có nghĩa là vừa ở dạng hạt (Quart), vừa ở dạng sóng, tức vừa hạt vừa phi hạt. Và cả thế giới kia cũng cùng một dạng như vậy, đều là hợp thể vô ngã. Bởi mọi hiện tượng đều vô ngã, nên chẳng có hiện tượng nào có thực thể. Vì không thật thể nên không có hiện tượng nào cố định cả (vô ngã và vô thường). Vì vậy cho nên, sắc thân ba mươi hai tướng quý của Như Lai cũng chỉ là hợp thể vô ngã, mà đã là vô ngã thì không có đầu mối và không có kết cục. Ngược thời gian tìm về quá khứ thì không thể tìm ra sự bắt đầu, ngược thời gian xuôi về tương lai cũng không tìm ra sự kết thúc, cho nên có sinh sinh đi bao nhiêu nữa, đối với bầu vũ trụ này cũng không thể tăng thêm, và diệt diệt bao nhiêu đi nữa trong bầu thế giới này cũng không giảm, mà chỉ là sự dổi dạng thay hình bởi những hợp thể vô ngã trong dòng samsāra (dòng luân chuyển) vô tận này mà thôi(1).

Bởi mọi hợp thể đều mang lý tính vô ngã và vô thường cho nên cực vi trần tức phi vi trần, thế giới tức phi thế giới, ngã tức phi ngã, phi ngã tức ngã, ngã phi ngã tức phi, và ngã - phi ngã - phi phi (bởi cả hai đều không), mới khế hợp với thực tại tuệ giác, tức Bát Nhã Ba la mật. Khởi tâm lập trước vật là thói quen dựng lập của tư duy hữu ngã, thuộc biến kế sở chấp, cho nên nếu sinh tâm chấp trước thì bị bốn thứ tình thức: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả khống chế. Thấy ngã thật có là cái thấy lầm chấp của hàng phàm phu. Thấy ngã không thật là cái thấy làm chấp không của ngoại đạo. Thấy ngã duyên sanh vô chủ tác, không cố định, nó chỉ là hợp thể vô ngã, nên không thể đem vọng kiến giả lập của tâm thức để khẳng định là gì, hoặc phủ định không gì, bởi cả hai đều không khế hợp với đương tại. Thấy mọi hiện tượng đều do nhiều yếu tố liên hệ cấu hợp mà thành (duyên sinh), nên không chấp nhận tạo vật chủ (Thượng đế); bởi không có cái gì từ cái một mà có ra cả. Đó chính là tầm nhìn của hàng nhị thừa ngang qua hiện tượng giới (sắc pháp và tâm pháp), tức khảo sát trên mặt tướng.

Còn cái thấy của "bất nhị", cái thấy bởi "tuệ quán đồng nhất thể", một là tất cả và tất cả là một bởi "pháp giới thông hóa", chủ bạn cụ túc, chủ bạn tuyệt đãi mới là rốt ráo. Vì vậy cho nên, không thể nhìn Như Lai qua thân tướng hợp thể, mà phải thấu suốt cái bản trụ bản hữu của Như Lai, tức pháp thân thường tại, vượt ngoài mọi khái niệm giả lập của tâm thúc chúng sinh.

Sở dĩ chúng sinh trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử là vì chấp ngã và chấp pháp. Nương vào trí tuệ Bát Nhã tức giải trừ tư duy hữu ngã, xóa sạch hai thứ chấp trước ở trên (xã liễu ngã pháp), mới ra khỏi luân hồi sinh tử khổ đau.

Ngược lại, nếu đem thân mạng ra để bố thí nhiều như số cát của sông Hằng đi nữa, cũng không giúp người ra khỏi luân hồi sinh tử, không thể giải trừ động cơ dẫn đến sầu bi khổ ưu não của muôn kiếp lạnh lùng. Vì vậy cho nên, không bằng phước đức thọ trì thật nghĩa của kinh này, dù chỉ thọ trì bài kệ bốn câu tức "ly tứ cú", rồi giảng nói cho người nhận rõ nghĩa thú và sống với tuệ giác của mình.

Thực hành "Tứ cú kệ" chính là xả ly tư duy hữu ngã (phi tư lương), thì ngã pháp và chấp pháp mới chấm dứt. Đoạn hết bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả (nhị cấp vĩnh đoạn) thì "Tịch diệt hiện tiền".

GHI CHÚ:

(1) Tiền tiền vô thỉ, hậu hậu vô chung, sinh sinh bất tăng, diệt diệt bất giảm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XIV. LY TƯỚNG TỊCH DIỆT
Nhĩ thời, Tu Bồ Ðề văn thuyết thị kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp, nhi bạch Phật ngôn: "Hi hữu Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển, ngã tùng tích lai sở đắc huệ nhãn, vi tằng đắc văn như thị chi kinh.

Thế Tôn! Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh, tín tâm thanh tịnh, tắc sanh thật tướng. Ðương tri thị nhân, thành tựu đệ nhất hi hữu công đức.

Thế Tôn! Thị thật tướng giả, tức thị phi tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng.

Thế Tôn! Ngã kim đắc văn như thị kinh điển, tín giải thọ trì, bất túc vi nan. Nhược đương lai thế, hậu ngũ bá tuế, kỳ hữu chúng sanh đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhân tức vi đệ nhất hi hữu. Hà dĩ cố? Thử nhơn vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Sở dĩ giả hà?

Ngã tướng tức thị phi tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, tức thị phi tướng. Hà dĩ cố? Ly nhứt thiết chư tướng tức danh chư Phật".

Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Như thị, như thị! Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh, bất kinh, bất bố, bất úy, đương tri thị nhân, thậm vi hi hữu. Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề? Như Lai thuyết đệ nhất Ba La Mật, tức phi đệ nhất Ba La Mật, thị danh đệ nhất Ba La Mật. Tu Bồ Ðề! Nhẫn nhục Ba La Mật, Như Lai thuyết phi Nhẫn nhục Ba La Mật, thị danh Nhẫn nhục Ba La Mật. Hà dĩ cố?

Tu Bồ Ðề! Như ngã tích vi Ca Lợi Vương cát triệt thân thể, ngã ư nhĩ thời vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Hà dĩ cố? Ngã ư vãng tích, tiết chi giải thời, nhược hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, ưng sanh sân hận.

Tu Bồ Ðề! Hựu niệm quá khứ, ư ngũ bá thế tác nhẫn nhục tiên nhân. Ư nhĩ sở thế, vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng.

Thị cố, Tu Bồ Ðề! Bồ Tát ưng ly nhất thiết tướng phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm. Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng sinh vô sở trụ tâm. Nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ. Thị cố, Phật thuyết Bồ Tát tâm bất ưng trụ sắc bố thí. Tu Bồ Ðề! Bồ Tát vị lợi ích nhất thiết chúng sinh cố ưng như thị bố thí. Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng tức thị phi tướng, hựu thuyết: nhất thiết chúng sinh tức phi chúng sinh. Tu Bồ Ðề! Như thị chân ngữ giả, thiệt ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả. Tu Bồ Ðề! Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư.

Tu Bồ Ðề! Nhược hữu Bồ Tát tâm trụ ư pháp nhi hành bố thí, như nhân nhập ám tức vô sở kiến. Nhược Bồ Tát tâm bất trụ pháp nhi hành bố thí, như nhân hữu mục, nhật quang minh chiếu, kiến chủng chủng sắc.

Tu Bồ Ðề! Ðương lai chi thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, năng ư thử kinh thọ trì đọc tụng, tức vi Như Lai dĩ Phật trí huệ tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu, vô lượng vô biên công đức.
  • Dịch nghĩa:

    LÌA HẾT CÁC TƯỚNG, TỊCH DIỆT HIỆN TIỀN
Bấy giờ Thiện Hiện
Nghe dạy kinh này
Hiểu sâu nghĩa thú
Rơi lệ mừng khóc
Mà bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn
Thật là hiếm có
Phật nói kinh điển
Thâm sâu như vậy.
Từ trước đến nay
Mặc dù chính con
Đã được mắt tuệ
Nhưng chưa từng nghe
Kinh nào như vậy.
Bạch đức Thế Tôn
Nếu lại có người
Được nghe kinh này
Tín tâm thanh tịnh
Tức sinh thật tướng
Nên biết người ấy
Thành tựu công đức
Hiếm có đệ nhất.
Bạch đức Thế Tôn
Chính thực tướng này
Tức là phi tướng
Mà đức Như Lai
Tạm dùng lời gọi
Thực tướng vậy thôi.
Bạch đức Thế Tôn
Con nay được nghe
Kinh điển như vậy
Tin hiểu thọ trì
Không gì là khó
Năm trăm năm sau
Nếu có chúng sinh
Được nghe kinh này
Tin hiểu thọ trì
Nên biết người này
Hiếm có đệ nhất.
Vì sao như vậy?
Vì chính người này
Không còn chấp tướng
Ngã, nhân, chúng sinh
Và tướng thọ giả
Nghĩa ấy thế nào?
Vì tướng ngã ấy
Tức là phi tướng
Tướng nhân, chúng sinh
Và tướng thọ giả
Tức là phi tướng.
Vì sao như vậy?
Xả ly mọi tướng
Gọi là chư Phật.

  • Phật dạy Thiện Hiện
    Như vậy! Như vậy!
    Nếu lại có người
    Được nghe kinh này
    Không sinh kinh ngạc
    Không có hoài nghi
    Chẳng chút sợ hãi
    Nên biết người này
    Rất là hiếm có
    Vì sao như vậy?
    Này thầy Thiện Hiện
    Như Lai nói rằng
    Rốt ráo đệ nhất
    Tức chẳng phải là
    Rốt ráo đệ nhất
    Mà tạm gọi là
    Rốt ráo đệ nhất.
    Này thầy Thiện Hiện
    Nhẫn nhục rốt ráo
    Như Lai nói rằng
    Tức chẳng phải là
    Nhẫn nhục rốt ráo
    Vì sao như vậy?
    Này thầy Thiện Hiện
    Như ta thuở xưa
    Bị vua Ca Lợi
    Cắt đứt thân thể
    Chính ta lúc ấy
    Không chấp tướng ngã,
    Không chấp tướng nhân,
    Không tướng chúng sinh,
    Không tướng thọ giả
    Vì sao như vậy?
    Vì ta thuở ấy
    Thân thể bị cắt
    Ra từng phần nhỏ
    Nếu ta còn chấp
    Tướng ngã, tướng nhân,
    Và tướng chúng sinh
    Cùng tướng thọ giả
    Tức sanh sân hận.
    Này thầy Thiện Hiện
    Ta nhớ thuở trước
    Trong năm trăm kiếp
    Làm Tiên nhẫn nhục
    Trong bấy nhiêu kiếp
    Không chấp tướng ngã,
    Không chấp tướng nhân,
    Không tướng chúng sinh,
    Không tướng thọ giả
    Vì vậy cho nên
    Này thầy Thiện Hiện
    Bồ tát nên lìa
    Hết thảy mọi tướng
    Phát tâm vô thượng
    Chánh đẳng chánh giác
    Không nên trụ sắc
    Mà khởi vọng tâm
    Không nên trụ thanh,
    Hương, vị, xúc pháp
    Mà khởi vọng tâm
    Hãy nên sinh tâm
    Không trụ các tướng
    Nếu tâm còn trụ
    Tức là phi trụ.
    Vì vậy cho nên
    Phật thường dạy rằng
    Bồ tát không nên
    Trụ vào sắc tướng
    Mà hành bố thí.
    Này thầy Thiện Hiện
    Vì sự lợi ích
    Hết thảy chúng sinh
    Bồ tát hãy nên
    Bố thí như vậy.
Như Lai nói rằng
Hết thảy các tướng
Tức là phi tướng
Cũng lại nói rằng
Hết thảy chúng sinh
Tức phi chúng sinh.
Này thầy Thiện Hiện
Như Lai là bậc
Nói ra lời chơn
Nói ra lời thật
Nói ra lời như
Nói không hư dối
Nói chẳng biến đổi.
Này thầy Thiện Hiện
Pháp Như Lai chứng
Không thật không hư.
Này thầy Thiện Hiện
Nếu bậc Bồ tát
Tâm trụ chấp pháp
Thực hành bố thí
Thì chẳng khác gì
Người vào chỗ tối
Tức chẳng thấy gì.
Nếu tâm Bồ tát
Chẳng trụ chấp pháp
Thực hành bố thí
Thì cũng như người
Có hai mắt sáng
Dưới ánh mặt trời
Thấy rõ tất cả
Các loại hình sắc.
Này thầy Thiện Hiện
Về đời sau này
Nếu có thiện nam
Cùng người thiện nữ
Ở nơi kinh này
Thọ trì đọc tụng
Thì đức Như Lai
Lấy trí tuệ Phật
Biết rõ người ấy
Đều được thành tựu
Công đức vô lượng
Không có ngằn mé.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Tướng hay tưởng: Là tướng dựng lập của tâm thức (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng), tướng sở hữu (tâm sở hữu pháp). Gồm có bốn hình thái vọng tưởng như đã giải ở trên. Ly tưởng hay ly tướng là xa lìa mọi tướng dựng lập của tâm thức. Trong kinh A Hàm, đức Phật dùng từ phi như lý tác ý để chỉ vọng tưởng, và như lý tác ý để chỉ cho chân như, tức cái dụng chiếu soi của bản thể tịch nhiên vắng lặng.
  2. Thâm giải nghĩa thú: Hiểu sâu thật nghĩa và nhận ra nơi thú hướng.
  3. Tịch diệt: Sinh diệt đã tận nên tâm thể tịch nhiên vắng lặng hiện hữu.
  4. Thật tướng: Là tướng tịch chiếu thường nhiên của tâm thể, chứ không như tướng của vọng tâm sinh diệt huyễn hư.
  5. Đệ nhất: Là tuyệt đãi nên không có gì so sánh được.
  6. Bất kinh, bất bố, bất úy: Là không kinh ngạc, không hoài nghi, không lo âu sợ hãi.
  7. Đệ nhất Ba la mật: Rốt ráo đệ nhất, không gì so sánh được. Thành tựu sáu thứ rốt ráo, gọi là lục độ Ba la mật.
  8. Nhẫn nhục Ba la mật: Nhẫn nhục rốt ráo, nhờ nương vào sự soi chiếu Bát Nhã Ba la mật nên tâm không còn tác ý dọ dẫm bởi những tâm lý phụ tùng như tư duy hữu ngã, nên mới gọi là nhẫn nhục Ba la mật.
  9. Ư nhữ sở thể: Trong bấy nhiêu kiếp.
  10. Phi trụ: Không trụ, không vọng.
  11. Nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ: Nếu tâm có chỗ trụ thì không phải là cách trụ theo nghĩa chân thật.
  12. Nhất thiết chúng sinh tức phi chúng sinh: Hết thảy chúng sinh (chỉ cho vọng tâm) tức không phải là những chúng sinh (tức những hiện tượng thuộc thực tại). Bởi những chúng sinh sai biệt ấy chỉ là giả danh, còn những hiện tượng thuộc thực tại thì không ở nơi tên gọi, không ở nơi khái niệm giả lập. Hơn nữa, mọi hiện tượng đều vô ngã.
  13. Chơn ngữ: Lời chơn, tức không ở nơi sự vọng thuyết về đạo Bồ đề của chư Phật, mà là bản giác trực nhận qua thực tướng.
  14. Thật ngữ: Lời thật, tức không ở nơi sự vọng thuyết về Tứ đế của Thanh văn.
  15. Như ngữ giả: Lời như, tức không ở nơi sự vọng thuyết về mười hai nhân duyên của Duyên giác.
  16. Bất cuống ngữ giả: Là chẳng nói lời bịa đặt, hư dối.
  17. Bất dị ngữ giả: Là chẳng nói lời sai khác với bản thân thực tại
  18. Pháp vô thực vô hư: Tức không ở nơi kiến lập của vọng thức, không rơi vào ngoan không, cũng không rơi vào trầm không trệ tịch; mà là "như thị", tức bản thân thực tại.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Thầy Thiện Hiện nghe Phật nói kinh này, nhận được nghĩa thú nên vui mừng chảy nước mắt, vì từ khi được mắt tuệ cho đến nay, chưa bao giờ được nghe kinh nào nói về thật nghĩa và thú tướng rốt ráo như thế.

Nếu có người nghe được kinh này, nhận rõ nghĩa lý và thú tướng, sinh tín tâm thanh tịnh thì thật tướng hiện bày. Đó mới là người thành tựu công đức hiếm có đệ nhất. Thật tướng là phi tướng, tức chỉ cho tâm thể thường tịch, thường chiếu như nhiên, chứ không kiến lập tất cả pháp nên gọi phi tướng, mà tạm mượn ngôn từ để ám chỉ về thật tướng vậy thôi.

Không những chỉ riêng thầy Thiện Hiện nghe được kinh này tin hiểu thọ trì một cách dễ dàng như vậy, mà những người khác khi nghe được kinh này tin hiểu thọ trì cũng dễ dàng như vậy, cho dù trải qua thời tượng pháp hay mạt pháp đi nữa. Vì sớ sao? Vì những vị này đã xả ly bốn tưỏng: nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả. Tưởng là hư vọng nên phải xa lài hết mọi tưởng, thật tướng mới hiện bày (ly nhất thiết tướng thị danh chư Phật).

Nếu còn bị tưởng đánh lừa bởi công họa sư tâm ý (biến kế sở chấp), thì không bao giờ tiếp xúc được với thực tại. Bởi bản thân thực tại là "như thị", nên xa lìa "tướng tâm duyên, tướng nói năng, tướng danh tự". Đó chính là thật nghĩa, nên trong kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng dạy: "Tri kiến lập tri thị vô minh bổn, tri kiến phi kiến tư tức Niết Bàn": Thấy biết mà lập biết là gốc của vô minh, thấy biết mà không lập biết tức là Niết bàn.

Vì vậy cho nên, Phật dạy người nào nghe được kinh này mà không sinh kinh ngạc, cũng không hoài nghi, không còn sợ hãi, thì nên biết vị này rất là hiếm có, tức thành tựu rốt ráo đệ nhất. Rốt ráo đệ nhất chính là tuệ giác thực tại, tức là nơi tâm thể tuyệt đãi, nên không bị vọng thức đánh lừa làm cho sai lạc.

Trí tuệ rốt ráo đệ nhất này bao hàm sáu thứ Ba la mật là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định. Vì vậy cho nên, chư Phật dạy: "Nhẫn nhục Ba la mật tức phi nhẫn nhục, thì danh nhẫn nhục Ba la mật" nghĩa là nhẫn mà không khởi ý tính toán dọ dẫm, được mất hơn thua, nên nhẫn hay không nên tức tâm đã xả ly chấp ngã và chấp pháp một cách rốt ráo, mà tạm gọi là nhẫn nhục Ba la mật vậy thôi.

Để minh chứng, Phật dẫn tích xưa Phật bị vua Ca Lợi xâm phạm thân thể, nhưng Phật không sinh tâm sân hận, bởi Phật đã vô hiệu hóa mọi vọng tưởng (ngã, nhân, chúng, sinh, thọ giả). Không kiến lập vọng tưởng nên không giận, không thù.

Xả ly mọi tưởng tức sinh thật tướng, chứ chẳng có sở tướng gì cả. Vì vậy cho nên, phải sinh cho mình cái tâm vô trụ. Nếu tâm còn sở trụ tức trụ vọng tâm, nên Phật nói: "tức vi phi trụ" nghĩa là không phải nghĩa trụ của chơn như. Tâm vô trụ tức xả ly rốt ráo, cũng có nghĩa là hằng thuận pháp tánh đức: Cái nghe chỉ bằng cái nghe, cái thấy chỉ bằng cái thấy... mà không khởi vọng tâm thêm bớt. Vì lợi hữu tình, Bồ tát nên bố thí như vậy.

Như Lai ói hết thảy tướng tức chẳng phải tướng: nghĩa là những vọng tưởng ấy không phải tướng đương tại, bởi tướng thực tại thì "như thị", nên không ở vọng tâm giả lập.

Hết thảy chúng sinh tức chẳng chúng sinh: nghĩa là những "giả chúng duyên nhi sinh", ấy cũng do tâm thức biến hiện, chỉ là giả danh(1)], nên không phải ở bản thân hiện tượng. Hơn nữa, mọi hiện tượng đều mang lý tính vô ngã và vô thường nên không thể khẳng định là gì, cũng không thể phủ định không gì. Vì vậy cho nên, lời Như Lai nói là "lời chân", nghĩa là không vọng nói về đạo Bồ đề của chư Phật. "Lời thật" là không vọng nói về pháp Tứ đế của Thanh văn. "Lời như" là không vọng nói về pháp mười hai nhân duyên của Duyên giác. "Lời không thật không hư" là không kiến lập tất cả pháp, cũng không rơi vào ngoan không, không rơi vào trầm không trệ tịch, cũng không rơi vào vô ký dật vờ.

Tổ Huệ Năng cũng nói: "Niệm trước chẳng sinh tức tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật. Lìa cả tướng tức tâm, thành tất cả tướng tức Phật", tức là chỉ cho bản thể tịch chiếu.

Ngược lại, nếu còn trụ tâm ở nơi các pháp thực hành bố thí, thì chẳng khác nào người vào chỗ tối chẳng thấy được gì. Nghĩa ấy thế nào? Thí dụ: Mình nhìn cái hoa y như cái hoa trước mắt, tức như thị. Ngược lại, mình nhìn cái hoa mà chấp nơi tâm trụ là hoa hồng, hoa lan, hoa cát ti da v.v... và như vậy là bị thấy nơi cái giả danh, hồng, lan, cát ti da... chứ không thấy như thật thấy, nên Phật nói như người vào chỗ tối. Bởi "Phật pháp là pháp chẳng hai"(2), nhưng tâm chúng sinh thường sống với pháp thứ hai bởi biến kế sở chấp của mình, nên xa rời thực tại. Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật duỗi cánh tay xuống đất, rồi hỏi thầy A Nan: "A Nan thấy cánh tay của ta như thế này là ngược hay xuôi?"

A Nan thưa: "Những người trong thế gian cho thế là ngược, còn không thì không biết thế nào là ngược hay xuôi".

Phật lại hỏi thầy A Nan: "Những người trong thế gian cho như thế là ngược, còn như thế nào họ cho là xuôi?"

A Nan thưa: "Đức Như Lai đưa cánh tay lên, năm ngón tay chỉ thẳng lên hư không, như vậy là xuôi".

Phạt dạy: "Cùng một cánh tay này chứ không chi khác, chẳng qua chỉ thay đổi phương hướng; thế mà những người trong thế gian chấp thế này là xuôi, thế kia là ngược, đó là điên đảo, điên đảo là đó vậy".

Vì vậy cho nên, ở nơi kinh này Phật dạy: "Tâm Bồ tát chẳng trụ nơi pháp, thực hành bố thí thì cũng như người có đôi mắt tốt lại có ánh sáng mặt trời, thấy rõ tất cả mọi thứ sắc loại". Thực hành bố thí ở đây chính là hằng thuận pháp tính, tức cái nghe chỉ bằng cái nghe, thấy chỉ bằng cái thấy (như thị), mà không khởi vọng tâm thêm bớt, lập trước vật nên mới thấy như thật thấy, nghe như thật nghe.

Phật bảo: "Về đời vị lai nếu có người nào ở nơi kinh này đọc tụng thọ trì, thì chính Như Lai lấy trí tuệ Phật, thấy biết rõ ràng người ấy thành tựu công đức vô lượng", tức ra khỏi sinh tử luân hồi. Vì vậy cho nên, "Công đức trì kinh vượt thắng tất cả".

GHI CHÚ:

(1) Nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến hiện tức thị giả danh - Văn Cảnh Sách của ngài Linh Hựu.

(2) Kinh Pháp Bảo Đàn của Tổ Huệ Năng.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XV. TRÌ KINH CÔNG ĐỨC
Tu Bồ Ðề! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, sơ nhật phần dĩ, hằng hà sa đẳng thân bố thí, trung nhật phần phục dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí, hậu nhật phần diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; như thị vô lượng bá thiên vạn ức kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhân văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ. Hà huống thơ tả, thọ trì đọc tụng, vị nhân giải thuyết!

Tu Bồ Ðề! Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, vô biên công đức. Như Lai vị phát đại thừa giả thuyết, vị phát tối thượng thừa giả thuyết. Nhược hữu nhân năng thọ trì, đọc tụng, quảng vị nhân thuyết, Như Lai tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xứng, vô hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhân đẳng tác vi hà đảm Như Lai A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề! Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ, đọc tụng, vị nhân giải thuyết.

Tu Bồ Ðề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhất thiết thế gian; thiên, nhân, A Tu La, sở ưng cúng dường. Ðương tri thử xứ, tức vi thị tháp, giai ưng cung kính, tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương, nhi tán kỳ xứ.
  • Dịch nghĩa:

    CÔNG ĐỨC TRÌ KINH
Này thầy Thiện Hiện
Nếu có thiện nam
Cùng người tín nữ
Sáng sớm đem thân
Bố thí nhiều như
Số cát sông Hằng
Trưa lại đem thân
Bố thí nhiều như
Số cát sông Hằng
Chiều đến đem thân
Bố thí nhiều như
Số cát sông Hằng
Bố thí thân thể
Như thế cho đến
Trăm ngàn vạn ức
Vô lượng số kiếp.
Với lại có người
Nghe kinh điển này
Lòng tin chẳng trái
Thì được phước báu
Vượt thắng người kia
Huống nữa lại còn
Biên chép đọc tụng
Thọ trì giảng giải
Cho người khác hiểu.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Nói tóm tắt lại
    Công đức kinh này
    Vô lượng vô biên
    Không thể nghĩ bàn
    Chẳng cân lường nổi.
    Như Lai vì người
    Phát tâm đại thừa
    Mà nói kinh này
    Vì người phát tâm
    Phật thừa tối thượng
    Giảng nói kinh này.
    Nếu có người nào
    Có đủ khả năng
    Đọc tụng thọ trì
    Rộng nói cho người
    Thì chính Như Lai
    Thấy rõ người ấy
    Thành tựu công đức
    Không có hạn lượng
    Không thể xưng gọi
    Không thể nghĩ bàn
    Và không ngằn mé.
    Những người như thế
    Tức là những người
    Gánh vác được đạo
    Vô thượng chánh đẳng
    Chánh giác của Phật
    Tại sao như vậy?
    Này thầy Thiện Hiện
    Nếu thích pháp nhỏ
    Tức bị vướng mắc
    Về những kiến chấp
    Ngã, nhân, chúng sinh
    Và tướng thọ giả
    Thì nơi kinh này
    Không thể nghe nổi
    Huống nữa thọ trì
    Đọc tụng giảng thuyết
    Cho người khác nghe.
Này thầy Thiện Hiện
Bất cứ nơi nào
Nếu có kinh này
Thì cả thế gian
Trời, A tu la
Và cả nhân loại
Nên đến cúng dường
Phải biết nơi ấy
Chính là tháp Phật
Đều nên thành kính
Lễ bái cúng dường
Dùng các hoa hương
Rải quanh nơi ấy.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Sơ nhật, trung nhật, hậu nhật: Sáng sớm, ngọ trưa, chiều tối.
  2. Tín tâm bất nghịch: Lòng tin thanh tịnh, không chống trái.
  3. Bất khả tư nghì, bất khả xứng lượng: Không thể nghĩ bàn, không thể cân lường.
  4. Tối thượng thừa: Cỗ xe tối thượng, cũng gọi là Phật thừa, không gì so sánh được.
  5. Tiểu pháp: Pháp nhỏ, chỉ cho pháp đối của nhị thừa, dùng để đối trị với tám vạn bốn ngàn phiền não trần lao.
  6. Ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến: Tâm kiến lập về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật so sánh người bố thí tài vật thuộc pháp hữu vi, cho dù người ấy mỗi ngày ba thời: sáng trưa chiều đem thân mạng mình ra để bố thí nhiều như số cát sông Hằng, trải qua vô lượng kiếp đi nữa, cũng không sánh bằng có người nghe kinh này, lòng tin không chống trái, biên chép, thọ trì, lại còn giảng giải cho người hiểu. Vì sao như vậy? Vì công đức trì kinh này chính là xả ly chấp ngã và chấp pháp, nên đưa đến "Sinh đã tận, lậu đã tận, gánh nặng đã để xuống, những việc nên làm đã làm xong, từ nay không còn trở lại trạng thái luân hồi sinh tử nữa".

Như vậy, trì kinh ở đây chính là tâm vô sở trụ. Bởi tâm vô sở trụ nên chúng sinh được độ vào Niết Bàm vô dư, dòng luân hồi dừng bặt, vượt thoát sầu bi khổ ưu não. Còn phước đức bố thí ở trên không thể giúp người vượt thoát sinh tử. Người nào đạt được như vậy, mới là người gánh vác được đạo vô thượng Bồ đề của đức Như Lai, mới là người kế thừa ngọn đuốc trí tuệ tối thượng của Phật để trao lại cho đại chúng.

Nếu ham thích pháp nhỏ, tức ở nơi phương tiện của Nhị thừa thì bị rơi vào kiến chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Và người nào đang kẹt vào tình thức, đang bị chấp thủ không chế, thì ở nơi kinh này không thể nghe nổi, huống nữa thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho người.

Còn những ai thọ trì được kinh này, tức thành tựu tâm vô sở trụ nên thoát ly mọi tướng (ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả). Bởi thoát ly mọi tướng, nên không còn bị phiền não và sở tri chướng ngại. Vì vậy cho nên, Phật dạy: "Nơi nào có kinh này(1) thì cả thế gian trên từ chư Thiên, loài A tu la, và cả nhân loại nên đến cúng dường, bởi chính nơi ấy là tháp miếu Phật". Cúng dường ở đây là có nghĩa là hằng thuận pháp tánh, tức xả ly mọi chấp trước một cách rốt ráo, thì tính giác hiển lộ.

Bởi tháp miếu của Phật trụ giữa hư không(2), nghĩa là vô sở trụ. Bởi trụ vô sở trụ, cho nên chúng sinh trong lục đạo cúng dường ở đây nghĩa là đem tâm ra khỏi nhị chấp, tức xóa sạch kiến chấp về: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, cũng chính là "Năng tịnh nghiệp chướng".

GHI CHÚ:

(1) Tức chỉ cho tâm đã thoát ly chấp ngã và chấp pháp.

(2) Như trong kinh Pháp Hoa Phật nói.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XVI. NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG
Phục thứ Tu Bồ Ðề! Thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì, đọc tụng thử kinh, nhược vị nhân khinh tiện, thị nhân tiên thế tội nghiệp ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhân khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tức vi tiêu diệt, đương đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.

Tu Bồ Ðề! Ngã niệm quá khứ, vô lượng A tăng kỳ kiếp ư Nhiên Ðăng tiền, đắc trị bát bách tứ thiên vạn ức na do tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự, vô không quá giả. Nhược phục hữu nhân, ư hậu mạt thế, năng thọ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cúng dường chư Phật, công đức bách phần bất cập nhứt, thiên vạn ức phần, nãi chi toán số thí dụ sở bất năng cập.

Tu Bồ Ðề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân ư hậu mạt thế, hữu thọ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhân văn tâm, tắc cuồng loạn hồ nghi bất tín. Tu Bồ Ðề! Ðương tri thị kinh nghĩa, bất khả tư nghị, quả báo diệc bất khả tư nghị.
  • Dịch nghĩa:

    SẠCH HẾT NGHIỆP CHƯỚNG
Lại nữa Thiện Hiện
Có kẻ thiện nam
Cùng người tín nữ
Đối với kinh này
Thọ trì đọc tụng
Mà bị người khinh
Thì những tội nghiệp
Nhiều đời về trước
Của người ấy tạo
Đáng ra phải đọa
Vào các đường ác
Song do ngày nay
Bị người khinh tiện
Nêu tội nghiệp ấy
Đều được tiêu trừ
Lại còn đắc đạo
Vô thượng Bồ đề.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Ta nhớ quá khứ
    Nhiều kiếp lâu xa
    Trước khi được gặp
    Đức Phật Nhiên Đăng
    Chính ta đã gặp
    Tám trăm bốn nghìn
    Muôn ức do tha
    Các đấng Thế Tôn
    Ta đều cúng dường
    Thành tâm phụng thờ
    Chẳng sót vị nào.
    Nếu lại có người
    Ở thời mạt sau
    Thường hay thọ tri
    Đọc tụng kinh này
    Thì công đức ấy
    So với công đức
    Thừa sự cũng dường
    Chư Phật của ta
    Như đã nói trên
    Thì ta chẳng bằng
    Chỉ một phần trăm
    Phần ngàn muôn ức
    Cho đến toán số
    Thí dụ chẳng kịp.
Này thầy Thiện Hiện
Ở kiếp mạt sau
Có kẻ thiên nam
Cùng người tín nữ
Đối với kinh này
Thọ trì đọc tụng
Thì được công đức
Nếu ta nói hết
Hoặc có người nghe
Tâm sinh cuồng loạn
Nghi ngờ chẳng tin.
Này thầy Thiện Hiện
Nên biết ý nghĩa
Ở nơi kinh này
Không thể nghĩ bàn
Quả báo cũng vậy
Không thể nghĩ bàn.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Khinh tiện: Khinh rẻ và nhạo báng
  2. Vô lượng a tăng kỳ kiếp: Nhiều kiếp không cùng.
  3. Na do tha: Băng mười vạn (100.000).
  4. Mạt thế: Đời mạt pháp. Pháp Phật chia ra ba thời: Chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật dạy: "Nếu có người thiện nam tín nữ thọ trì đọc tụng kinh này, bị người khinh khi nhạo báng thì những tội nghiệp nhiều kiếp về trước của người ấy tạo ra, đáng phải đọa vào đường ác, nhưng không bị đọa mà còn đắc đạo".

Nghĩa ấy thế nào? Thọ trì kinh này tức sống đúng với thật tướng Bát Nhã. Do sống đúng với thật tướng Bát Nhã, nên không còn sinh tâm chấp thủ nơi lời khinh tiện nhạo báng, nên giải trừ được chấp ngã và chấp pháp. Bởi giải trừ được nhị chấp, nên đoạn tận chướng phiền não là tham, sân, si, mạn nghi... và chướng sở tri. Hành giả đạt thành nhân không và pháp không, nên giải trừ được nghiệp chướng nhiều đời, và chứng đắc đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Vì những lẽ trên, nên đức Phật so sánh công đức phụng sự cúng dường chư Phật không sót vị nào, với công đức thọ trì kinh này, thì công đức trước không bằng phần trăm, phần ngàn muôn ức, cho dù dùng hằng số của toán học để so sánh thí dụ cũng không thể so sánh được.

Công đức thọ trì kinh này vô lượng vô biên, vì đã xóa sạch vọng kiến, nên cũng không lấy gì để so sánh tính toán được. Nghĩa thú của kinh cũng không thể nghĩ bàn, bởi kiến chấp đã đoạn tận. Do kiến chấp đã đoạn tận, nên "Năng tịnh nghiệp chướng". Do năng tịnh nghiệp chướng nên quả báo cũng không thể nghĩ bàn. Bởi "Cứu cánh vô ngã" vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XVII. CỨU KÍNH VÔ NGÃ
Nhĩ thời, Tu Bồ Ðề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?"

Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm giả, đương sanh như thị tâm: Ngã ưng diệt độ nhứt thiết chúng sinh, diệt độ nhứt thiết chúng sinh dĩ, nhi vô hữu nhứt thiết chúng sinh thiệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề! Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát. Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Ðề! Thiệt vô hữu pháp phát A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề tâm giả.

Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai ư Nhiên Ðăng Phật sở, hữu pháp đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề phủ?"

- Phất dã, Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa. Phật ư Nhiên Ðăng Phật sở, vô hữu pháp đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.

Phật ngôn: "Như thị! Như thị! Tu Bồ Ðề! Thật vô hữu pháp Như Lai đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Tu Bồ Ðề! Nhược hữu pháp Như Lai đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề giả, Nhiên Ðăng Phật tắc bất dữ ngã thọ ký: "Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni". Dĩ thật vô hữu pháp đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, thị cố Nhiên Ðăng Phật dữ ngã thọ ký tác thị ngôn: "Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni". Hà dĩ cố? Như Lai giả, tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhân ngôn: Như Lai đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Tu Bồ Ðề! Thật vô hữu pháp Phật đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Tu Bồ Ðề! Như Lai sở đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, ư thị trung, vô thật vô hư, thị cố Như Lai thuyết: Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp. Tu Bồ Ðề! Sở ngôn nhất thiết pháp giả, tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh nhất thiết pháp. Tu Bồ Ðề! Thí như nhân thân trường đại?"

Tu Bồ Ðề ngôn: "Thế Tôn! Như Lai thuyết nhân thân trường đại, tức vi phi đại thân, thị danh đại thân".

- Tu Bồ Ðề! Bồ Tát diệc như thị. Nhược tác thị ngôn: Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh. Tức bất danh Bồ Tát. Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề! Thật vô hữu pháp danh vi Bồ Tát. Thị cố, Phật thuyết nhất thiết pháp vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả. Tu Bồ Ðề! Nhược Bồ Tát tác thị ngôn: Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh Bồ Tát. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm. Tu Bồ Ðề! Nhược Bồ Tát thông đạt vô ngã pháp giả, Như Lai thuyết danh chân thị Bồ Tát.
  • Dịch nghĩa:

    CỨU CÁNH VÔ NGÃ
Bấy giờ Thiện Hiện
Bạch với Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn
Có kẻ thiện nam
Cùng người tín nữ
Phát tâm vô thượng
Chánh đẳng chánh giác
Thì phải làm sao
An trụ tâm mình
Và bằng cách nào
Hàng phục tâm ấy?

  • Phật bảo Thiện Hiện
    Những kẻ thiện nam
    Cùng người tín nữ
    Phát tâm Bồ đề
    Thì nên như vầy
    Mà sinh tâm ấy
    Ta phải diệt độ
    Hết thảy chúng sinh
    Được diệt độ rồi
    Mà thật chẳng thấy
    Một chúng sinh nào
    Được mình diệt độ.
    Vì sao như vậy?
    Này thầy Thiện Hiện
    Nếu vị Bồ tát
    Mà còn tướng ngã,
    Mà còn tướng nhân,
    Còn tướng chúng sinh
    Còn tướng thọ giả
    Thì chẳng phải là
    Một vị Bồ tát.
    Vì sao như vậy?
    Này thầy Thiện Hiện
    Thật chẳng có pháp
    Phát tâm vô thượng
    Chánh đẳng chánh giác.
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy nghĩ sao?
Như Lai ở nơi
Đức Phật Nhiên Đăng
Có chứng được pháp
Vô thượng chánh đẳng
Chánh giác hay chăng?

  • Bạch đức Thế Tôn
    Thật chẳng đắc gì.
    Theo con hiểu nghĩa
    Của Thế Tôn nói
    Như Lai ở nơi
    Đức Phật Nhiên Đăng
    Thật chẳng có được
    Pháp gì gọi là
    Vô thượng Bồ đề.
Phật dạy Thiện Hiện:
Đúng vậy! Đúng vậy!
Thật chẳng có pháp
Như Lai chứng đắc
Gọi là vô thượng
Chánh đẳng chánh giác.
Này thầy Thiện Hiện
Nếu thật có pháp
Như Lai chứng đắc
Vô thượng Bồ đề
Thì Phật Nhiên Đăng
Đã không thọ ký
Bảo với ta rằng
Về đời sau này
Ông sẽ thành Phật
Với danh hiệu là
Thích Ca Mâu Ni.
Bởi không có pháp
Chứng đắc vô thượng
Chánh đẳng chánh giác
Vì vậy cho nên
Đức Phật Nhiên Đăng
Mới thọ ký rằng
Về đời sau này
Ông sẽ thành Phật
Với danh hiệu là
Thích Ca Mâu Ni.
Tại sao như vậy?
Như Lai chính là
Nghĩa như các pháp
Nếu có người nói
Như Lai đắc quả
Vô thượng Bồ đề
Thì chính người ấy
Nói lời không thật.
Này thầy Thiện Hiện
Thật không có pháp
Như Lai chứng đắc
Đạo quả vô thượng
Chánh đẳng chánh giác.
Này thầy Thiện Hiện
Đạo quả vô thượng
Chánh đẳng chánh giác
Như Lai chứng đắc
Ở trong pháp ấy
Không thật không hư
Vì vậy cho nên
Như Lai nói rằng
Hết thảy các pháp
Đều là Phật pháp.
Này thầy Thiện Hiện
Nói hết thảy pháp
Tức chẳng phải là
Hết thảy các pháp
Mà tạm gọi là
Hết thảy các pháp.
Này thầy Thiện Hiện
Thí như thân người
Dài lớn không ngằn?

  • Thầy Thiện Hiện thưa:
    Bạch đức Thế Tôn
    Thân người dài lớn
    Tức chẳng thân lớn
    Mà tạm gọi là
    Thân lớn vậy thôi.
Này thầy Thiện Hiện
Là bậc Bồ tát
Lại cũng như vậy
Nếu nói lên rằng
Ta sẽ diệt độ
Vô lượng chúng sinh
Thì chẳng thể gọi
Là bậc Bồ tát.
Vì sao như vậy?
Này thầy Thiện Hiện
Thật chẳng có pháp
Gọi là Bồ tát
Vì vậy cho nên
Ta mới bảo rằng
Hết thảy các pháp
Không ngã, không nhân,
Cũng không chúng sinh
Và không thọ giả.
Này thầy Thiện Hiện
Nếu vị Bồ tát
Tác ý nói rằng:
Ta phải trang nghiêm
Cõi nước của Phật
Thì không thể gọi
Là bậc Bồ tát.
Vì sao như vậy?
Vì Như Lai nói
Trang nghiêm cõi Phật
Tức chẳng trang nghiêm
Mà tạm gọi là
Trang nghiêm vậy thôi.
Này thầy Thiện Hiện
Là bậc Bồ tát
Thì phải thông đạt
Ngã, pháp đều không
Như Lai gọi là
Bồ tát thật sự.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Như Lai giả tức chư pháp như nghĩa: Như Lai chính là nghĩa như của các páp (tức như thị chứ không ở nơi vọng thức kiến lập).
  2. Vô thực vô hư: Không thực, không hư, nghĩa là không thể dùng vọng tâm để xác quyết là gì, cũng không thể phủ nhận không gì.
  3. Thân trường đại: Thân dài lớn không ngằn mé, chỉ cho pháp thân.
  4. Vô ngã pháp: Không ngã, không pháp tức rời khỏi mọi cặp phạm trù đối đãi giả lập của nhị biên, của vọng tâm.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn trước thầy Thiện Hiện đã thưa hỏi Phật về cách an trụ và hàng phục tâm, nhằm tác duyên cho đại chúng phát tâm Bồ đề. Đến đoạn này, thầy Thiện Hiện cũng lập lại câu hỏi trước, câu hỏi tuy một nhưng ý thì lại khác. Hỏi lần trước để tác duyên cho đại chúng phát tâm cầu trí giác vô thượng. Nếu hành giả không phát tâm cầu trí giác vô thượng, thì sẽ lọt vào phàm phu.

Đến đoạn này thì đại chúng đã nhận ra nghĩa thú, đã phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng sợ hành giả bị kẹt vào niệm chúng sinh, cho nên đức Phật dạy: "Chúng sinh được diệt độ rồi, nhưng không còn thấy một chúng sinh nào được mình diệt độ".

Vì năng độ là tâm, mà sở độ cũng là tâm, và mỗi khi chúng sinh tâm đã độ hết, thì năng độ cũng đi vào tịch tĩnh. Năng sở đều không (năng sở song vong), thì tánh giác mới hiển lộ. Đó chính là xả ly ngã pháp một cách rốt ráo vậy.

Thầy Thiện Hiện lập lại câu hỏi trước là để phá bỏ năng độ và sở độ. Đức Phật nhắc lại tích xưa nơi đức Phật Nhiên Đăng, là để quét sách niệm năng chứng và sở chứng. Nếu đức Phật Thích Ca bị kẹt vào năng chứng và sở chứng, thì Phật Nhiên Đăng không bao giờ thọ Ký cho Phật Thích Ca là về đời sau ông sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Vì sao như vậy? Vì Như Lai chính là nghĩa Như của các pháp. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật cũng dạy:

"Hết thảy các pháp đều là Phật pháp, do con không hiểu nên theo vô minh mà trôi lăn, ở nơi Bồ đề nà thấy không thanh tịnh, ở nơi giải thoát mà khởi buộc ràng". Hết thảy các pháp ở đây là pháp như thị, chứ không ở nơi vọng tâm kiến lập, nên Phật nói:

"Như Lai đắc pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở nơi pháp ấy không thật, không hư". Nghĩa là không rơi vào chấp thủ đoạn thường, không kiến lập không, cũng không rơi vào trầm không trệ tịch, mà thường tịch, thường chiếu. Bản thể thường tịch, thường chiếu là diệu dụng của pháp thân, cho nên Phật nói: "Thân dài lớn không ngằn mé". Và "Thân lớn tức chẳng thân lớn, mới là thân lớn", nghĩa là sạch hết nhị chấp mới đạt được pháp thân siêu việt số lượng.

Vì vậy cho nên, nếu vị Bồ Tát mà nói rằng: "Ta phải diệt độ vô lượng chúng sinh, thì chẳng thể gọi là bậc Bồ Tát". Vì sao như vậy? Vì thật chẳng có pháp gì gọi là Bồ Tát, tức năng độ không, mà năng độ không thì sở độ cũng không. Nếu kiến lập năng độ và sở độ tức bị rơi vào đối đãi của nhị thừa, và bị bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả khống chế. Bởi lẽ ấy nên, nếu Bồ Tát khởi ý nói rằng "Ta phải trang nghiêm cõi nước Phật, thì không thể gọi là Bồ Tát". Vì sao như vậy? Vì cõi Phật là cõi tịnh, nếu khởi ý trang nghiêm tức rơi vào vọng tâm sinh diệt.

Vì vậy cho nên đức Phật dạy: "Trang nghiêm cõi Phật tức chẳng trang nghiêm gì, mới là trang nghiêm". Qua hai ý trên, chúng ta thấy rằng: khởi ý độ chúng sinh đã là vọng, mà khởi ý trang nghiêm cõi Phật cũng là vọng. Vì vậy cho nên, muốn trang nghiêm cõi Phật của tâm hồn mình thì phải sạch hết năng độ và sở độ, năng chứng và sở chứng, cõi "Duy tâm Tịnh Độ" mới hiện bày. Đây chính là con đường học đạo, chứ không phải là con đường của triết học, của lý luận với mớ kiến thức giả lập.

Bởi chính đạo học nên thủy giác trở lại với bổn giác vậy thôi, tức là thủy bổn bất nhị. Cùng một ý này, Cổ đức nói:
  • Khởi trừ phiền não càng thêm bệnh
    Thú hướng chơn như cũng là tà
    Hằng thuận chúng duyên vô quái ngại
    Niết bàn, sanh tử thảy không hoa.
Vì vậy Bồ Tát phải thông đạt ngã, pháp đều không, với "Tuệ quán đồng nhất thể" bởi "pháp giới thông hóa" mới chính là Bồ tát.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XVIII. NHẤT THỂ ĐỒNG QUÁN
- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu nhục nhãn.

- Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu nhục nhãn.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu thiên nhãn phủ?

- Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu thiên nhãn.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu huệ nhãn phủ?

- Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu huệ nhãn.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu pháp nhãn phủ?

- Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu pháp nhãn.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Phật nhãn phủ?

- Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu Phật nhãn.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Hằng hà sa trung sở hữu sa. Phật thuyết thị sa phủ?

- Như thị, Thế Tôn! Như Lai thuyết thị sa.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như nhất Hằng hà trung sở hữu sa, hữu như thị sa đẳng Hằng hà. Thị chư Hằng hà sở hữu sa số Phật thế giới, như thị ninh vi đa phủ?

- Thậm đa, Thế Tôn!

Phật cáo Tu Bồ Ðề: "Nhĩ sở quốc độ trung sở hữu chúng sinh, nhược can chủng tâm, Như Lai tất tri. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tâm, giai vi phi tâm, thị danh vi tâm. Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Ðề! Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.
  • Dịch nghĩa:

    TUỆ QUÁN ĐỒNG NHẤT THỂ
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Như Lai Thế Tôn
Có nhục nhãn chăng?

Bạch đức Thiện Thệ
Như Lai Thế Tôn
Cũng có nhục nhãn.

Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Như Lai Thế Tôn
Có thiên nhãn chăng?

Bạch đức Thiện Thệ
Như Lai Thế Tôn
Cũng có thiên nhãn.

Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Như Lai Thế Tôn
Có tuệ nhãn chăng?

Bạch đức Thiện Thệ
Như Lai Thế Tôn
Cũng tuệ nhục nhãn.

Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Như Lai Thế Tôn
Có pháp nhãn chăng?

Bạch đức Thiện Thệ
Như Lai Thế Tôn
Cũng có pháp nhãn.

Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Như Lai Thế Tôn
Có Phật nhãn chăng?

Bạch đức Thiện Thệ
Như Lai Thế Tôn
Cũng có Phật nhãn.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Ý thầy nghĩ sao?
    Như hết thảy cát
    Ở trong sông Hằng
    Như Lai gọi nó
    Là cát hay chăng?

    Bạch đức Thiện Thệ
    Như Lai Thế Tôn
    Gọi nó là cát.

    Này thầy Thiện Hiện
    Ý thầy nghĩ sao?
    Như hết thảy cát
    Ở trong sông Hằng
    Cứ mỗi hạt cát
    Là mỗi sông Hằng
    Mỗi hạt được xem
    Một thế giới Phật
    Thì số thế giới
    Như thế nhiều chăng?

    Bạch đức Thế Tôn
    Nhiều vô số kể.
Phật bảo Thiện Hiện
Tất cả chúng sinh
Trong những cõi nước
Nhiều vô số ấy
Cứ mỗi chúng sinh
Có tâm thế nào
Như Lai biết hết
Vì sao biết được?
Như Lai bảo rằng
Hết thảy các tâm
Đều là phi tâm
Nghĩa ấy thế nào
Này thầy Thiện Hiện
Dòng tâm quá khứ
Không thể nắm bắt
Dòng tâm hiện tại
Không thể nắm bắt
Dòng tâm vị lai
Không thể nắm bắt.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Nhục nhãn: Con mắt bằng thịt, con mắt của nhân loại thấy rõ năm nhân cách nhằm: bảo vệ mạng sống, bảo vệ nguồn sống, bảo vệ hạnh phúc lứa đôi, bảo vệ sự trong sáng của ngôn ngữ, bảo vệ sự định tĩnh và trong sáng của tâm hồn.
  2. Thiên nhãn: Con mắt của chư Thiên ở các cõi trời, con mắt thấy rõ sự sai biệt trong sáu đường nhằm quy về mười điều thiện. Thiên nhãn có hai: một là do quả báo mà được, hai là do tu mà được.
  3. Tuệ nhãn: Con mắt trí tuệ, con mắt của hàng Thanh văn ngang qua quán chiếu lý Tứ Đế để nhằm giải trừ động cơ tạo nên sầu bi khổ ưu não, thẳng đến tịch diệt. Con mắt của hàng Duyên giác ngang qua quán chiếu mười hai nhân duyên, nhằm xóa sạch vô minh, cắt đứt dòng sinh tử luân hồi.
  4. Pháp nhãn: Con mắt của chánh pháp, con mắt thấy Tứ Đế chứng bốn quả Thanh văn (pháp nhãn của Nhị thừa). Còn pháp nhãn của Đại thừa là trực chứng chân đế với "Tuệ quán đồng nhất thể".
  5. Phật nhãn: Con mắt Phật, cái thấy của chư Phật, cái thấy viên thông vô ngại bởi pháp giới thông hóa, một là tất cả tất cả là một, cái thấy thật tướng của các pháp, cái thấy bất nhị. Một vị Phật có đủ năm loại mắt, từ nhục nhãn cho đến Phật nhãn.
  6. Nhĩ sở quốc độ: Ngần ấy cõi nước.
  7. Can chủng tâm: Bao nhiêu thứ tâm.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn trước đức Phật dạy cứu cánh vô ngã, nên không có chúng sinh được độ thoát, cũng không có quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác để chứng đắc, và cũng không có cõi Phật để trang nghiêm, nghĩa là không có sở đắc, cũng chẳng thấy gì, làm cho đại chúng khởi nghi là Phật không có mắt sao chẳng thấy gì? Đức Phật hiểu được chỗ nghi của đại chúng, nên xác quyết lại là Phật có đủ năm loại mắt:

1. Nhục nhãn: Con mắt bằng thịt của nhân loại, để nhìn đúng sự vật và sống đúng năm nhân cách.

2. Thiên nhãn: Con mắt của chư Thiên ở các tầng trời do thanh tịnh được tứ đại ở cõi sắc, nên trong thấy rõ chúng sinh trong sáu đường, và sống đúng mười nghiệp lành (thập thiện).

3. Tuệ nhãn: Con mắt của hàng Nhị thừa là Thanh văn và Duyên giác, do quán bốn chân lý (Tứ diệu đế) và mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên) nhằm hóa giải vô minh (động cơ dẫn đến sầu bi khổ ưu não), cắt đứt mắt xích sinh tử luân hồi.

4. Pháp nhãn (mắt pháp): Con mắt của hàng Bồ tát với tầm nhìn bằng tuệ quán thể đồng nhất, làm cho "Tầm nhìn rộng lớn thênh thang, không còn chướng ngại, chẳng chút sợ hãi, lìa hẳn điên đảo, sạch hết vọng tưởng, rốt ráo Niết bàn" nhằm trực chứng chân đế. Không như pháp nhãn của hàng Tiểu thừa chỉ thấy pháp Tứ đế và Thập nhị nhân duyên, ngang qua quán chiếu những hiện tượng tâm vật lý bởi duyên sinh vô ngã mà thôi.

5. Phật nhãn (mắt Phật): Con mắt của chư Phật, với tầm nhìn xuyên suốt từ hiện tượng đến bản thể. Song cái nhìn ấy không bị khu biệt bởi vọng thức, nên không mang tính cục bộ hạn hữu, và không sai lạc thực tại. Tầm nhìn với pháp giới thông hóa bằng trí tuệ tuyệt đãi (Bát nhã), thấy một là tất cả, tất cả là một, cái thấy dung thông vô ngại (sự sự vô ngại, lý lý vô ngại, sự lý vô ngại).

Ngược lại, cái thấy của hàng phàm phu là cái thấy của vọng tâm, mang tính chủ quan và áp đặt bởi biến kế sở chấp nên thường xa rời thực tại, và bị rơi vào tình chấp: có không, đoạn thường, thật giả v.v...

Vì vậy cho nên, tâm của chúng sinh có nhiều như số cát sông Hằng đi nữa, đức Phật cũng biết đó là những tâm vọng. Chúng sinh luôn bị vọng tâm câu thúc, nên chẳng sống được với chân tâm bất sinh bất diệt của mình. Và bản chất của vọng tâm là luôn luôn sinh diệt, luôn luôn trôi chảy về bất tận, cho nên tâm quá khứ không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, tâm vị lai không thể nắm bắt. Tâm cả ba thời gian đều không thể nắm bắt, nên không chỗ được, gọi là đắc vô sở đắc.

Vì vậy cho nên, phải rời bỏ vọng tâm mới tiếp xúc được với thực tại với tầm nhìn "Tuệ quán đồng nhất thể" bởi vạn pháp như, vạn pháp bản trụ bản hữu, mới thấu rõ "Pháp giới thông hóa".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XIX. PHÁP GIỚI THÔNG HÓA
- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Nhược hữu nhân mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo dĩ dụng bố thí, thị nhân dĩ thị nhân duyên đắc phúc đa phủ?

- Như thị, Thế Tôn! Thử nhân dĩ thị nhân duyên, đắc phúc thậm đa.

- Tu Bồ Ðề! Nhược phúc đức hữu thật, Như Lai bất thuyết đắc phúc đức đa. Dĩ phúc đức vô cố, Như Lai thuyết đắc phúc đức đa.
  • Dịch nghĩa:

    PHÁP GIỚI THÔNG HÓA
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Nếu lại có người
Đem đồ bảy báu
Đầy khắp ba nghìn
Đại thiên thế giới
Dùng để bố thí
Người ấy gieo duyên
Bố thí như vậy
Được phước nhiều chăng?

  • Bạch đức Thế Tôn
    Thật đúng như vậy
    Người ấy gieo duyên
    Bố thí như vậy
    Được phước rất nhiều.
Này thầy Thiện Hiện
Giá như phước đức
Mà có thật thể
Như Lai chẳng nói
Được phước đức nhiều
Song phước đức ấy
Chẳng có thực thể
Như Lai mới nói
Được phước đức nhiều.

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Nhược phúc đức hữu thật: Nếu phước đức có thật thể, tức bất di bất dịch, thì không thể nói nhiều ít được.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật lần nữa so sánh phước đức bố thí thuộc về hữu vi với phước đức vô vi nó có hệ quả sai biệt. Phật dạy: "Như có người đem đồ bảy báu đầy khắp ba ngàn thế giới rộng lớn ra bố thí, dầu được phước đức nhiều, nhưng phước đức ấy không có thật thể."

Vì sao không thật? Vì những thứ bảy báu ấy là vật có sẵn trong vũ trụ, nên sự bố thí ấy mang tính lạm nhận của tình thức mà thôi, và căn cứ trên tình thức mới nói nhiều ít được. Hơn nữa, bố thí bởi sự lạm nhận của tình thức chính là mầm mống của chấp ngã, và ngã chấp càng nhiều thì khổ đau càng lắm, nên cũng không thoát khỏi sầu bi ưu khổ não, không thể ra khỏi sinh tử luân hồi.

Vì vậy cho nên, hành giả phải thấu rõ "Pháp giới thông hóa" ngang qua "Tuệ quán thể đồng nhất", mới khế hợp với tâm vô trụ. Bởi tâm vô sở trụ nên không thể đo lường, vì vậy nói phước đức ấy nhiều vô số kể. Bố thí bởi nhân không, pháp không tức xả sạch hai chấp ngã và pháp ngã (xả liễu ngã pháp), cũng gọi là hằng thuận pháp tính. Đó chính là nghệ thuật "Ly sắc ly tướng".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XX. LY SẮC LY TƯỚNG
- Tu Bồ Ðề ! Ư ý vân hà? Phật khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ?

- Phất dã, Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết cụ túc sắc thân, tức phi cụ túc sắc thân, thị danh cụ túc sắc thân.

- Tu Bồ Ðề! Ư ý vân hà? Như Lai khả dĩ cục túc chư tướng kiến phủ?

- Phất dã, Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cục túc chư tướng kiến. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh chư tướng cụ túc.
  • Dịch nghĩa:

    LÌA SẮC LÌA TƯỚNG
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy nghĩ sao?
Có thể căn cứ
Sắc thân cụ túc
Mà cho rằng thấy
Được Như Lai chăng?

  • Bạch đức Thế Tôn
    Không thấy vậy được
    Không thể căn cứ
    Sắc thân cụ túc
    Mà cho rằng thấy
    Được đức Như Lai
    Vì sao như vậy?
    Vì Như Lai nói
    Sắc thân cụ túc
    Tức chẳng ở nơi
    Sắc thân cụ túc
    Mà tạm gọi là
    Sắc thân cụ túc.
Này thầy Thiện Hiện
Ý thầy thế nào?
Có thể căn cứ
Các tướng cụ túc
Mà cho rằng thấy
Được Như Lai chăng?

  • Bạch đức Thế Tôn
    Không thấy vậy được
    Không thể căn cứ
    Các tướng cụ túc
    Mà cho rằng thấy
    Được đức Như Lai
    Vì sao như vậy?
    Vì Như Lai nói
    Các tướng cụ túc
    Tức chẳng ở nơi
    Các tướng cụ túc
    Mà tạm gọi là
    Các tướng cụ túc
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Cụ túc sắc thân: Thân sắc tướng đầy đủ với ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của Phật (tướng cụ túc thuộc về sắc thân của Phật).
  2. Cụ túc chư tướng: Các tướng đầy đủ, tức mười danh hiệu của một vị Phật (tướng cụ túc thuộc về danh xưng).
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Ở đoạn này đức Phật dạy: "Không thể căn cứ vào sắc thân ngũ uẩn với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp mà cho rằng thấy được Như Lai". Vì sao như vậy? Vì thân sắc tướng là thân hợp thể năm thụ uẩn, mang lý tính vô ngã, nên bị vô thường chi phối. Thân ấy chỉ là thân phương tiện để độ sinh mà thôi, chứ không phải là pháp thân. Bởi thân Như Lai là pháp thân trí tướng, thuộc bản trụ bản hữu, không có tướng sinh cũng không có tướng diệt, nên không tìm đâu ra khứ lai (vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ cố danh Như Lai). Vì vậy cho nên, không thể căn cứ vào sắc thân cụ túc để thấy Như Lai.

Như vậy thì có thể căn cứ vào các tướng cụ túc(1) để thấy Như Lai chăng? Cũng không thể căn cứ vào chư tướng cụ túc để thấy Như Lai. Vì cớ sao? Vì sắc thân là hợp thể năm uẩn mang tính vô ngã, và bị vô thường chi phối, nên sắc thân không. Bởi sắc thân không, thì mười danh hiệu giả lập của tâm thức cũng không. Vì nghĩa ấy cho nên tìm Như Lai, thấy Như Lai qua văn từ ngữ nghĩa bởi mớ kiến thức vay mượn qua nghiên cứu học hỏi, qua bằng cấp học vị đều chỉ là hình bóng của vọng trần mà thôi; chứ không bao giờ thấy được Như Lai, không bao giờ giải thoát giác ngộ.

Bởi con đường giác ngộ là con đường của đạo học, chứ không ở nơi triết học. Hiểu được thật nghĩa của kinh, cho nên Cổ đức dạy rằng, con đường học vấn là con đường leo cây chuyền nhánh:
  • "Leo cây, chuyền nhánh thật chẳng rành
    Dốc đá buông tay mới đại danh
    Tuyết lạnh trăng thanh câu chẳng có
    Đầy thuyền chỉ có bóng trăng thanh".
Danh sắc không tức ngã pháp không, nên không thể thấy được pháp thân Như Lai ngang qua thân danh sắc sinh diệt, cũng không thể tìm pháp thân qua danh từ ngữ nghĩa. Vì vậy phải lìa sắc, lìa tướng mới thấu rõ "Phi thuyết sở thuyết".

GHI CHÚ:

(1) Mười danh hiệu của một vị Phật.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XXI. PHI THUYẾT SỞ THUYẾT
- Tu Bồ Ðề! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương hữu sở thuyết pháp. Mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Nhược nhân ngôn: Như Lai hữu sở thuyết pháp. Tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố. Tu Bồ Ðề! Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp.

Nhĩ thời Huệ Mạng Tu Bồ Ðề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sinh, ư vị lai thế, văn thuyết thị pháp, sanh tín tâm phủ?"

Phật ngôn: "Bỉ phi chúng sinh, phi bất chúng sinh. Hà dĩ cố? Tu Bồ Ðề! Chúng sinh giả, Như Lai thuyết phi chúng sinh, thị danh chúng sinh".
  • Dịch nghĩa:

    KHÔNG NGƯỜI NÓI PHÁP
    CŨNG KHÔNG CÓ PHÁP GÌ ĐƯỢC NÓI RA.
Này thầy Thiện Hiện
Thầy đứng nghĩ rằng
Như Lai khởi niệm
Ta có thuyết pháp
Thầy đừng nghĩ vậy
Vì sao đừng nghĩ?
Nếu có người nói
Như Lai cũng có
Thuyết giảng chánh pháp
Tức phỉ báng Phật
Chẳng hiểu những lời
Giảng giải của ta.
Này thầy Thiện Hiện
Thuyết pháp ấy là
Không một pháp nào
Có thể nói ra
Mà tạm gọi là
Thuyết pháp vậy thôi.

  • Bấy giờ Huệ Mạng
    Thiện Hiện bạch Phật:
    Bạch đức Thế Tôn
    Có những chúng sinh
    Ở đời vị lai
    Nghe nói pháp này
    Sinh lòng tin chăng?
Phật bảo Thiện Hiện
Kia chẳng chúng sinh
Chẳng không chúng sinh
Vì sao như vậy?
Này thầy Thiện Hiện
Chúng sinh chúng sinh
Như Lai bảo rằng
Chẳng phải chúng sinh
Mà tạm gọi là
Chúng sinh vậy thôi

A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Thuyết pháp: Tuyê nói chánh pháp. Chỉ có bán thân và ứng thân Như Lai mới có nói pháp. Còn pháp thân Như Lai thì lìa tướng lìa lời (tuyệt ngôn tuyệt lự), không có thuyết pháp.

    Kinh Lăng Già nói: "Ứng hóa thân thuyết về Tam thừa, báo thân thuyết về Thập địa và sáu ba la mật. Còn pháp thân thuyết về nghệ thuật ly ngôn ly tướng" (thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết).
  2. Huệ Mạng Tu Bồ Đề: Người gồm đủ pháp thân huệ mạng và thọ mạng thế gian, nên cũng gọi là cụ thọ (trưởng lão). Bậc thánh lấy trí tuệ làm thọ mạng, nên thầy Tu Bồ Đề cũng được gọi là cụ thọ Thiện Hiện (Tu Bồ Đề đã giải ở trên).
  3. Bỉ phi chúng sinh: Kia không phải là chúng sinh theo nghĩa phàm phu, mà là chúng sinh đã dự vào dòng thánh (chỉ cho những bực thượng căn thượng trí).
  4. Phi bất chúng sinh: Chẳng không chúng sinh, nghĩa là đã dự vào dòng thánh nhưng cũng mang thân sinh diệt vậy.
  5. Chúng sinh chúng sinh giả: Cái chất liệu chúng sinh trong chúng sinh ấy chính là những vọng tưởng (chúng sinh tâm).
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn này đức Phật nói về pháp thân Như Lai không có thuyết pháp, tức ám chỉ cho bản thể thường tịch thường chiếu, nên xa lìa năng thuyết pháp và sở thuyết pháp. Bởi xa lìa năng thuyết và sở thuyết, nên nếu nói pháp thân Như Lai có thuyết pháp tức phỉ báng Phật, không hiểu được lời giảng của Như Lai.

Ở nơi bản thể thường nhiên, nên không một pháp nào được nói ra, mà tạm gọi là thuyết pháp vậy thôi. Vì pháp Bát nhã Ba la mật đa chính là tâm vô sở trụ. Bởi tâm không sở trụ nên chẳng thuyết gì cả.

Phật dạy đến đây thì trong đại chúng có chỗ hoài nghi là Phật ra đời có tu chứng, có thuyết pháp để hóa độ chúng sinh, nhưng nay Phật lại nói: "Không có một pháp nào được nói ra". Hiểu được hoài nghi của đại chúng, nên thầy Huệ Mạng Thiện Hiện thưa: "Bạch đức Thế Tôn, ở đời sau này nếu có chúng sinh nghe được pháp này, có sinh lòng tin chăng?"

Phật dạy: "Kia chẳng chúng sinh, chẳng không chúng sinh" nghĩa là không phải chúng sinh thuộc chủng tính phàm phu, mà là những chúng sinh có căn khí Đại thừa nên có khả năng tin được thật tướng Bát nhã của mình. Song, những bực thượng căn thượng trí này cũng mang thân chúng sinh vậy thôi. Vì tin vào thật tướng Bát nhã, cho nên mới nhận ra chất liệu chúng sinh trong chúng sinh ấy, tức dòng vọng tưởng sinh diệt liên tục. Bởi nhận ra bóng dáng vọng tưởng của khách trần huyễn hóa, nên không còn kẹt vào năng thuyết và sở thuyết không, nên "Không một pháp nào có thể đắc" vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XXII. VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC
Tu Bồ Ðề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phật đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, vi vô sở đắc da?"

Phật ngôn: "Như thị! Như thị! Tu Bồ Ðề! Ngã ư A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, nãi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
  • Dịch nghĩa:

    KHÔNG PHÁP CÓ THỂ ĐƯỢC
Thiện Hiện bạch Phật:
Bạch đức Thế Tôn
Phật đắc vô thượng
Chánh đẳng chánh giác
Là chẳng đắc gì
Có phải vậy không?

  • Phật dạy Thiện Hiện
    Như vậy! Như vậy!
    Này thầy Thiện Hiện
    Quả vị vô thượng
    Chánh đẳng chánh giác
    Mà ta chứng đắc
    Nhẫn đến chẳng có
    Chút pháp đẻ đắc
    Mời được gọi là
    Đắc quả vô thượng
    Chánh đẳng chánh giác.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Vô sở đắc: Không có sở đắc, tức chánh quán về trung đạo đệ nhất (nghĩa chân thật số một), nên vô sở đắc. Vì vậy cho nên, nếu có sở đắc tức là đắc vọng vậy.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Ở đoạn trước Phật dạy là không có người nói pháp, cũng không có pháp gì được nói ra, nên đại chúng sinh nghi là Phật có đắc đạo và thành Phật không? Hiểu được chỗ hoài nghi của đại chúng, nên thầy Thiện Hiện thưa:

"Phật được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác là không có sở đắc, có phải vậy không?"

Phật dạy: "Đúng vậy! Đúng vậy! Quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác mà ta chứng được, nhẫn đến chẳng có chút pháp có thể được".

Vì sao như vậy? Vì ở nơi tâm thể thường nhiên bất sinh bất diệt, nên chẳng thọ may trần. Vì chẳng thọ mảy trần, nên tuyệt ngôn tuyệt lự. Vì tuyệt ngôn tuyệt lự, nên không có pháp được nói ra. Vì không có pháp được nói ra, nên năng thuyết và sở thuyết không, mà tạm gọi là đắc vậy.

Nếu như có chỗ đắc, và có pháp được nói ra, tức rơi vào đối đãi của hai bên, thuộc giả lập của tâm thức, thuộc cảnh giới của vọng tưởng huyễn hư, chứ không phải ở nơi tâm thể thường nhiên, ở nơi thật tại.

Bởi ở nơi tâm thể thường nhiên, nên không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả; tức nhị chấp được đoạn tận (nhị chấp vĩnh đoạn). Do xả sách chấp ngã, chấp pháp, nên vị Bồ tát "Tịnh Tâm hành thiện" vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Lược giải kinh Kim Cương

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XXIII. TỊNH TÂM HÀNH THIỆN
Phục thứ, Tu Bồ Ðề! Thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ, thị danh A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Dĩ vô ngã, vô nhơn, vô chúng sinh, vô thọ giả. Tu nhứt thiết thiện pháp, tức đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Tu Bồ Ðề! Sở ngôn thiện pháp giả. Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp.
  • Dịch nghĩa:

    TỊNH TÂM HÀNH THIỆN
Lại nữa Thiện Hiện
Pháp ấy bình đẳng
Không cao không thấp
Nên gọi vô thượng
Chánh đẳng chánh giác.
Nếu đem cái tâm
Không ngã, không nhân,
Cũng không chúng sinh
Và không thọ giả
Ra để thực hành
Hết thảy pháp lành
Tức đắc vô thượng
Chánh đẳng chánh giác.

  • Này thầy Thiện Hiện
    Như Lai nói rằng
    Thiện pháp ấy là
    Chẳng phải thiện pháp
    Mà tạm gọi là
    Thiện pháp vậy thôi.
A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
  1. Thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ (vô thượng): Có bốn nghĩa:
    1. Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp, không tăng không giảm, nên gọi vô thượng.
    2. Pháp ấy thanh tịnh tuyệt đãi, nên gọi vô thượng.
    3. Pháp ấy lìa hẳn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, nên gọi vô thượng.
    4. Pháp ấy xã sạch chấp ngã, chấp pháp, nên gọi vô thượng.
B. TÌM HIỂU NỘI DUNG
Đoạn trước đức Phật dạy là không một pháp có thể đắc, nhưng sợ đại chúng hiểu lầm là kiến lập ngoan không, nên đoạn này Phật dạy: "Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp, nên gọi vô thượng chánh đẳng chánh giác".

Thế nào là vô thượng? Bởi pháp thân thanh tịnh tuyệt đãi nên không có cao thấp, không có tăng giảm, không có cấu tịnh. Xa lìa bốn tương nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả, nên không kiến lập ngã và pháp. Bởi ngã, pháp đều không nên tự ngôn ngữ tự dứt bặt (ngôn ngữ đoạn đạo tâm hành xứ diệt) nên không bị danh sắc không chế, tức "Sinh đã tận, lậu đã tận, những việc nên làm đã làm, từ nay không còn trở lại trạng thái sinh tử nữa".

Thông đạt ngã pháp đều không, nên nhị biên chẳng sanh. Bởi nhị biên đều dứt nên gọi vô thượng, cũng gọi là pháp thân thanh tịnh. Bởi sống với pháp thân thanh tịnh, nên tâm diệu dụng vô cùng tận. Vì vậy cho nên Phật dạy: "Đem tâm không ta, không người, không chúng sinh, không thọ giả mà thực hành các thiện pháp, tức đắc đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác".

Bên trong tâm không sở đắc (bất thọ nhất trần), bên ngoài thì hằng thuận chúng duyên (vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp), tức tánh cùng tướng hợp (tánh dữ tướng hợp), mới khế hợp với trí tuệ Bát nhã, với tầm nhìn "Pháp giới thông hóa" vậy. Vì vậy cho nên, trong những phước đức thì "Phước trí không gì so sánh được".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.67 khách