"hlich"]
"đại chúng bộ" có lẽ do từ chủ trương của "nhất thiết pháp hữu bộ" mà cho rằng nhị thừa chưa đạt đến pháp vô ngã; mình thì thấy chủ trương của "thắng pháp" (mà "nhất thiết pháp hữu" là một chi bộ) nói chung chỉ cho rằng có các pháp căn bản của thế giới hiện tượng
Theo lời trên có lẽ hlich cho rằng "Đại chúng bộ" tức là đại thừa? còn "nhất thiết pháp hữu bộ" là Nhị Thừa?
Thật ra chẳng phải vậy.
Trước khi Đại Thừa phát triển, thì các trường phái A Tỳ Đàm chia ra nhiều lối đi.
1. Trường phái "Nhất thiết hữu bộ" chủ trương "nhất thiết pháp giai hữu".
2. Trường phái "Đại chúng Bồ" thì đối với chủ trương trên mà đưa ra chủ thuyết là "Nhất thiết pháp giai không". Nhưng cái giai không của họ đưa là ra ngang qua "duy lý" bởi suy luận của bộ não. Cho nên vô hình chung đưa trường phái họ đến "kiến chấp ngoan không".
Sau nầy dựa trên truyền thống "Đại Chúng Bộ" mà trường phái Bát Nhã, thấy rõ pháp giới thông hóa, đương thể tức không của vạn pháp bằng tuệ quán (quán chiếu Bát Nhã). Do nhờ có thật sự thực hành bằng công phu thiền quán chứ không phải dùng bộ não để lý luận suông, nên trường phái Bát Nhã đưa người ta đến giác ngộ giải thoát, mà không lọt vào ngoan không như những trường phái Đại Chúng Bộ lúc mới đầu và đã bị hủy diệt, bởi đưa người đến ngoan không.
Ngài Long Thọ lập ra "Bát bất trung đạo" để giúp hành giả quét sạch mọi kiến chấp giả lập của võ nào để Trí Bát Nhã được soi sáng (minh tâm kiến tánh). Luận Bát Bất là dùng phủ định một lượt tám cập phàm trù của tâm thức chấp thủ, để giúp tâm thức vượt khỏi mọi phủ định và khẳng định thuộc tri kiến chúng sanh mà tình thức giả lập.
Không sinh không diệt
Không thường không đoạn
Không một không khác
Không đến không đi
Tám cập phàm trù trên là nói tổng quát tất cả pháp tương đối của thế gian mà con người ai cũng chấp dính không bỏ được.
Cho nên phải dùng một chữ "Vô"/"Không" để quét sạch hết mọi phủ định và khẳng định của tâm thức. Nhờ quét sạch những thứ mà tâm thức hay bám chấp, nên không còn có gì để bám chấp nữa, thì tâm thức mới không còn bị bám chấm ràng buộc, cho nên vô trụ giải thoát và tri kiến Phật do nơi vô trụ mà hiển lộ.
Kỳ thật ngài Long Thọ cũng là dùng phương tiện "ngôn ngữ" lập ra cái lý luận nầy để chỉ bài hé mở cho người sơ cơ học phật một chút chân trời thú thướng giải thoát giác ngộ mà tìm lối về nhà, bởi Bát Nhã thì không thể nói, mà không nói thì chúng sanh không bao giờ biết được mà hướng về. Cho nên phải dùng phương tiện mở bài ngôn ngữ gọi là "Văn tự bát nhã". Và do nhờ dựa trên "Văn tự bát nhã" chúng sanh mới có thể thực hành Quán Chiếu Bát Nhã mà thật chứng Thật Tướng Bát Nhã.
Nhưng đây cũng là Đại Thừa Giáo Môn.
Còn pháp Tối Thượng Thừa Thiền Tông thì như Phật Thích Ca đưa cành hoa, Tổ Ca Diếp mĩm cười được trao tâm ấn. Chẳng cần lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, mà không một lời nào, không cần lập ra lý luận chi khác.
Bởi tri kiến chúng sanh chấp thủ quá nhiều nên mới dùng lý luận để bát bỏ mọi chấp thủ của họ, hầu mong họ nhã ra cái chấp thủ của họ.
Còn người căn tánh đại thừa, thượng căn thì không cần phải thuyết chi nhiều lý luận với họ, chỉ cần nói một câu là họ ngộ đạo rồi như Lục Tổ hỏi ngài Huệ Minh:
"Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?"
Ngay đó ngài Huệ Minh liền dứt cái tâm hư vọng chấp trước mà được giác ngộ giải thoát.
Lục Tổ không có lý luận quanh co giống ngài Long Thọ dùng Bát Bất Luận để phá chấp người đời.
Thời ngài Long Thọ thì Đại Thừa mới phát triển nên ngài Long Thọ bất đắc dĩ phải lập ra luận ấy để diều dắt kẻ sơ cơ vào Đại Thừa.
Tới thời Lục Tổ căn tánh lanh lẹ, đại thừa đã có lâu rồi vững rồi, nên không cần phải lý luận quanh co, trực thẳng là tới.