Phê bình về lối dịch của sách Phật học tổng yếu

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
thienminh
Bài viết: 68
Ngày: 16/06/07 20:31

Phê bình về lối dịch của sách Phật học tổng yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi thienminh »

Bài viết đề cập đến một vài khía cạnh khá hay, kinh nghiệm quý giá cho những nhà dịch thuật tương lai.

Cùng Sư Thiện Chiếu bàn về lối dịch sách hay là phê bình lối dịch của sách Phật học tổng yếu

Phan Khôi

Sư Thiện Chiếu đã biên dịch và ấn hành cuốn sách nhỏ kêu là Phật học tổng yếu, có tặng cho tôi một cuốn. Cả cuốn gồm có tám bài luận về Phật học, nguyên văn bằng chữ Tàu đăng trong tạp chí Hải triều âm mà Sư đã lượm lặt dịch ra.

Lâu nay tôi thỉnh thoảng cũng có nhận được những sách mới xuất bản mà người soạn thuật đã gởi tặng. Mỗi khi tiếp được một cuốn, tôi đọc qua rồi cất đó. Duy có lần này đọc cuốn của Sư, thì gợi ra cho tôi một mối cảm tưởng, muốn lạm bút mà phê bình.

Sự phê bình có dễ chi. Huống chi tôi chẳng phải là tay phê bình nhà nghề, đối với Phật học lại cơ hồ không biết một chút nào hết, mà đòi phê bình cái gì chớ! Nhưng bạch Sư cho tôi nói: Tôi dầu không phải là tay phê bình chuyên gia và cũng không hiểu về Phật học, song về cách dịch sách thì tôi có biết võ vẽ một ít; tôi chỉ muốn đem cái điều biết chút đỉnh của tôi đó mà thương xác cùng Sư vậy.

Vậy bài nầy tôi tiêu đề rằng “Cùng sư Thiện Chiếu bàn về lối dịch sách”, mà có muốn kêu bằng phê bình thì cũng chỉ “Phê bình lối dịch sách Phật học tổng yếu”. Luôn thể tôi đặt ra một cái giới thuyết rằng trong bài nầy tôi không phê bình về Phật học và cũng không phê bình cái lý thuyết trong sách Phật học tổng yếu là thế nào.

Trước khi đem cái chỗ biết của tôi mà hầu chuyện cùng Sư, thì lại muốn nói một điều. Lâu nay tôi đã nhận biết trong nghề văn học rất cần có sự phê bình. Nhưng trong làng văn ta dường như chưa có chỗ dung được sự ấy. Tôi đã nghiệm ra, mỗi khi mình thấy ai có nói điều gì ngang trái mà thử nhắc nhở cho họ thì họ lại không ưng. Không ưng trơn, còn khá; nhiều khi lại sanh ra hiềm oán. Vậy nên mỗi khi nhận được cuốn sách tặng nào, tôi dầu có thấy điều gì sai lầm ở trong, cũng phải làm lơ đi mà cho như là cuốn sách ấy đã hoàn mỹ, ta chỉ có đọc qua rồi trân tang [1] vào tủ.

Than ôi! Sự phê bình mà lại là sự không nên, sự rất cấm kỵ trong làng văn xứ ta! Tôi có ngờ đâu!

Theo tôi tưởng, nếu cứ vậy mãi rồi trên cái sân khấu văn học của ta sau nầy trở nên bại hoại là dường nào! Lần lần kép nhứt đi hết, rồi thì nam khách trại bẹ [2] , nhảy múa không nhằm nhịp, mà khán giả cũng cứ việc vỗ tay, ông cầm chầu cũng cứ việc thưởng, không thưởng thì họ nhiếc! Nghĩ đến nông nỗi nầy mà trong bụng không ra làm sao hết.

Muốn truyền cái đạo phê bình ra trong làng văn ta, có khi phải núp dưới cái bóng phường từ bi của Phật mới đặng. Ấy là mối cảm tưởng sanh ra cho tôi sau khi đọc cuốn Phật học tổng yếu [3] của Sư Thiện Chiếu.

Tôi đã từng đôi lần được nghe thuyết pháp dưới tòa sen của Sư; vậy thì về cuốn sách nầy nếu có điều gì nên thương xác thì tôi bàn miệng với Sư cũng được chớ. Nhưng tôi không làm thế mà lại viết bài đăng báo, chẳng giấu gì Sư và cũng chẳng giấu gì độc giả, tôi muốn nhơn dịp nầy, nhờ cái đức “không hay giận” của nhà Phật để đổ chén thuốc đắng phê bình vào trong miệng người An Nam.

*
Tôi đọc qua sách Phật học tổng yếu thì thấy cái trình độ học chữ Hán của Sư Thiện Chiếu thật đã cao. Tiếc tôi không được thấy cả nguyên văn mà đối chiếu thử, song đọc nội bản dịch cũng có thể biết được đại khái là đúng. Lần trước tôi thấy một tờ báo quốc ngữ có bài của ông chi đó dịch bài “Dĩ Phật pháp phê bình xã hội chủ nghĩa” của Thái Hư pháp sư [4] , tôi đọc mà chẳng hiểu chi cả; đến khi tìm được nguyên văn dò lại thì té ra ông ấy dịch sai bét hết, không nói hàm hồ, sai cũng đến sáu phần mười. Song lần nầy tôi đọc của Sư thì hiểu đâu ra đó, bởi vậy tôi dám chắc là đại khái đúng với nguyên văn.

Mấy lời trên đó là tôi theo sở kiến mình mà nói bằng một cách thiệt thà chớ chẳng phải theo cái lối hành văn thường, hễ khi muốn dằn ai xuống thì trước phải nâng lên đâu. Sư Thiện Chiếu là một vị học giả mới ra đời trong làng Phật học ở đất nầy. Sư tự có cái sở học sở đắc của Sư, cần chi tôi phải dùng lời khen ngợi; còn tôi đây cũng thấy làm sao nói làm vậy, nói là vì văn học mà nói, chẳng biết nâng ai mà cũng chẳng biết dằn ai.

Đây nhẫn xuống là những chỗ thấy trong sách Phật học tổng yếu, mà theo ý tôi, tôi cho cái lối dịch như vậy là chưa được, vậy dẫn ra đây thương xác cùng Sư và cũng chất chánh [5] cùng độc giả.

*

Một là về sự dùng chữ Hán. Trong các khoa học bây giờ có nhiều danh từ dùng chữ Hán mà dịch thì nghe gọn gàng hơn là dùng tiếng ta. Trong Phật học cũng vậy. Về Phật học, danh từ bằng chữ Hán đã có sẵn lại nhiều lắm, như những chữ thập nhị nhân duyên, tứ diệu đề [6] , trong nhà chùa nói đã quen rồi thì ta nên dùng theo; cho đến như những chữ nhiễm trước, phan duyên [7] , tuy nói thường ít dùng đến, nhưng muốn tìm tiếng ta mà dịch cho nghe được cũng khó, thì cũng phải dùng theo nữa. Ngoài ra, những chữ không phải là danh từ riêng của Phật học mà có thể nói bằng tiếng ta, thì tôi tưởng phải nói bằng tiếng ta, không nên dùng chữ Hán.

Cái lẽ, một là vì, đã gọi là dịch nguyên văn chữ Hán, thì theo lẽ phải nói hết thảy bằng tiếng An Nam, cực chẳng đã tiếng nào An Nam không có mới phải để y chữ Hán, nếu chỗ nói tiếng An Nam được mà không nói thì sao gọi là dịch? Hai là vì, dịch ra tiếng An Nam là cốt muốn cho những người không thông chữ Hán đọc mà hiểu được, bằng để nguyên chữ Hán thì dịch làm gì?

Theo lẽ ấy, trong sách Phật học tổng yếu, nơi trang 38 có câu “Chơn tâm chẳng phải cái quả tim nhục đoàn”; hai chữ “nhục đoàn” đó nên dùng tiếng ta mà không nên dùng chữ Hán. Tôi tạm dịch là: “Chơn tâm chẳng phải là quả tim bằng khối thịt”, tưởng có lẽ người ta nghe dễ hiểu hơn vậy. Lại như câu ở trang 3, “ăn thì trân tu, mặc thì hoa lệ, ở thì trang nghiêm”, tưởng nên đổi lại mà nói: “ăn thì của ngon, mặc thì áo đẹp, ở thì nhà cao cửa rộng”, có lẽ dễ nghe hơn. Trong ba cặp chữ Hán đó có chữ trân tu lại càng làm cho người thường khó hiểu lắm; viết mà viết cho người ta không hiểu thì vô ích.

Nơi trang 4 lại có ba cái động từ kép mà dùng chữ ta chữ Hán xen kẽ với nhau, ấy là câu: “Chúng ta bị hoàn cảnh xô đẩy, áp bách, khu trục”, thì tôi tưởng nên nói: “Chúng ta bị hoàn cảnh xô đẩy, đè nén, xua đuổi”, chắc là nghe xuôi tai hơn.

Đại khái trong sách của Sư đây dùng nhiều chữ Hán quá; tôi là người thông chữ Hán đây mà đọc còn thấy ngán, huống chi là kẻ khác.

Ấy là điều thứ nhứt xin Sư về sau sửa sang lại.

Hai là về sự chua nguyên văn tiếng Phạn. Có những danh từ chuyên dùng một chữ Hán, sợ không hết ý, phải truy nguyên đến tiếng Phạn hay là chua bằng tiếng Phạn. Theo lối dịch, sự đó là phải lắm, đáng làm như vậy lắm. Nhưng ngộ khi như vậy thì tôi tưởng nên để nội một mình chữ Phạn mà thôi; còn cái chữ Hán mà họ đã do tiếng Phạn dịch âm ra, mình nên bỏ đi là phải. Nếu để thêm cái tiếng dịch âm của Tàu đó thì làm cho thêm rộn mà chẳng được việc chi. Trang 23 có một câu như vầy:

“Địa ngục nguyên tiếng Phạn là “na-lạc-ca” [8] (naraka) nghĩa là “không vui”, “đáng gớm”, v.v...”

Ba chữ “na-lạc-ca”, là theo giọng An Nam mình mà đọc ba chữ Hán ấy, chớ không phải đọc theo tiếng Phạn là “naraka”. Vậy thì nay mình đã truy nguyên đến tiếng Phạn, cũng nên bỏ ba chữ ấy đi cho rảnh mắt. Xin sửa câu ấy lại như vầy:

“Địa ngục nguyên tiếng Phạn là “naraka” nghĩa là “không vui”, “đáng gớm”.”

Như vậy thì thành ra tiếng An Nam mình trực tiếp với tiếng Phạn, khỏi bắc thêm cái cầu dịch âm của chữ Hán là cái cầu mình không cần dùng nữa. Và như vậy thì làm cho kẻ đọc khỏi bỡ ngỡ. Còn như theo lối dịch của Sư thì trong khi đọc đến, người ta phải hỏi trong trí rằng: Ủa, chớ đã có tiếng Phạn là na-lạc-ca mà còn naraka nữa, là cái gì?

Chúng tôi dịch tên người tên đất bên Âu châu, có khi, như gặp tên Napoléon, chúng tôi để y như vậy mà chua ở dưới rằng “Tàu dịch là Nã-phá-luân”. Cái đó là một cách cần dùng tạm thời. Vì cái tên “Nã-phá-luân” người mình quen nghe rồi, mà nay chúng tôi không muốn nói vậy nữa, muốn nói ngay bằng tiếng Tây cho đúng hơn, thì tạm phải nhắc lại cho người ta nhớ, kẻo có người lầm tưởng là hai tên. Chớ còn như đối với “na-lạc-ca” hay “naraka”, người mình cũng đều chưa quen cả, thì bây giờ nhét vào trong tai người ta cả hai, chi bằng nhét lấy một. Bởi vậy tôi chủ trương rằng khi nào gặp như thế thì nên dùng một mình tiếng Phạn mà bỏ tiếng dịch âm của Tàu, trừ ra khi nào cần lắm thì mới nhắc đến, như nói rằng: “Tên đức Phật, tiếng Phạn là Sakya-muni (hoặc viết Sakyamouni) mà Tàu dịch là Thích-ca-Mâu-ni”.

Ba là về sự dịch những thành ngữ của chữ Hán. Không cứ dịch thứ tiếng gì, khi gặp một thành ngữ (expression) của tiếng ấy mà nếu tìm trong tiếng mình cũng có một thành ngữ giống nhau, thì nên dùng mà dịch; bằng không, thì nên nát cái nghĩa của thành ngữ ấy ra tiếng mình cho xuôi, chớ không nên dịch y theo thành ngữ ấy, vì nếu làm như vậy thì câu văn nghe ra sống sượng quá.

Theo nguyên tắc ấy, tôi xin đặt ra đây một cái ví dụ. Như dịch chữ Hán, gặp câu “Ngã dữ bỉ ngôn, như thủy đầu thạch”. “Như thủy đầu thạch” là một cái thành ngữ của chữ Hán, nghĩa là nói như nước chảy trên đá trợt lớt không ăn thua chi. Trong tiếng ta cũng có một thành ngữ giống như vậy, ấy là “nước đổ lá khoai”. Vậy ta nên dùng mà dịch câu kia, dịch rằng: “Tôi nói với nó như nước đổ lá khoai” vậy là được. Ngộ như trong tiếng ta không có câu thành ngữ nào như thế, thì ta phải nát nghĩa mà dịch rằng: “Tôi nói với nó mà nó chẳng nghe tôi”, cũng đủ nghĩa rồi, chớ không nên theo đúng chữ mà dịch rằng: “Tôi nói với nó như nước gieo đá”. Nếu nói vậy thì nghe ra sống sượng, vì “nước gieo đá” trong tiếng ta chẳng có ý nghĩa gì hết, chẳng ai hề nói như vậy bao giờ.

Nơi trang 11 có câu: “... khác nào như chụp gió trên không, rượt bóng bề ngoài đâu”; câu ấy nghe khí sống sượng, e khi có người không hiểu nữa. Đó chắc là dịch chữ “bộ phong tróc ảnh”. Nhưng theo tiếng An Nam không ai hề dùng cái ví dụ “chụp gió rượt bóng” để chỉ nghĩa vô ích và mất công. Huống chi thêm chữ “trên không” và “bề ngoài” thì lại càng lủng củng khó nghe lắm. Nhứt là chữ “bề ngoài” thì tôi cũng chẳng hiểu được. Đó là một cái thành ngữ chữ Hán mà ta không có thành ngữ tương đương thì chi bằng nát nghĩa ra mà dịch.

Lại nơi trang 36 có câu: “Người sanh ở đời, chẳng qua vài mươi phen lạnh nắng mà thôi”. Chữ “lạnh nắng” đó cũng làm cho lạ tai người An Nam. Tôi biết, ấy là dịch đúng theo chữ “sổ thập hàn thử” trong chữ Hán. Nhưng chữ Hán nói thế được mà chữ ta không nói thế được. “Sổ thập hàn thử” tức là vài mươi năm, thì cứ nói: “Người ta ở đời chẳng qua vài mươi năm mà thôi” có phải dễ nghe hơn không?

Còn Tiếp...


Không làm các điều ác, thường làm các điều lành, giữ thân ý trong sạch, đó là lời Phật dạy.
Nội quy sinh hoạt của diễn đàn: 1. Thân hòa cùng chung ở. 2. Khẩu hòa không tranh cãi. 3. Ý hòa cung hoan hỷ. 4. Giới hòa cùng tu tập. 5. Kiến hòa cùng giải bày. 6. Lợi hòa cùng chia sẻ. Mong mọi người sinh hoạt trong trong tinh thần lục hòa.
- Nhấn F12 để bật hay tắt chương trình gõ tiếng Việt của diễn đàn.
http://daitangkinhvietnam.org | http://tudien.daitangkinhvietnam.org | http://diendan.daitangkinhvietnam.org
Hình đại diện của người dùng
thienminh
Bài viết: 68
Ngày: 16/06/07 20:31

Re: Phê bình về lối dịch của sách Phật học tổng yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi thienminh »

Đoạn 2

Bốn là về sự xê xít nguyên văn. Phép dịch văn đời xưa khác và dịch văn đời nay khác. Dịch văn xưa cần phải đúng từng chữ từng câu [9] , dịch văn nay miễn đúng ý là được. Vậy, dịch những bài luận hiện thời, khi gặp câu không phải là kinh văn mà nghe nó trúc trắc, thì nên xê xít, đảo lên đảo xuống cho xuôi tiếng An Nam. Làm như vậy vì rằng mình biết chắc dầu có xê xít cũng không sai ý, và xê xít thì theo tiếng mình dễ hiểu.

Trang 51 có một đoạn như vầy:

“Bởi vọng niệm của chúng ta đều bởi ba nghiệp (thân, khẩu, ý) mà khởi ra, nếu những khi ba nghiệp đều dùng thì vọng niệm không do đâu mà sanh được. Thử lấy một việc trước mắt để chứng minh: Như khi chúng ta xem sách hoặc nghe giảng, tuy một lòng chăm chỉ mà có khi cũng còn mống tạp niệm. Ấy tại sao? Bởi khi xem sách, nghe giảng chỉ dùng có “ý nghiệp” mà thôi. Còn những khi chép bài thì ít sanh tạp niệm, ấy là những điều chúng ta có kinh nghiệm hằng ngày đương khi chép bài, dùng cả “thân nghiệp” và “ý nghiệp” vậy”.

Trong đoạn đó, nửa phần sau nghe không được thông suốt, tưởng nên sửa lại như vầy:

“Như khi chúng ta xem sách hoặc nghe giảng, tuy một lòng chăm mà có khi cũng còn mống tạp niệm; còn khi chép bài thì ít sanh tạp niệm. Ấy tại sao? Bởi khi xem sách, nghe giảng chỉ dùng có ý nghiệp mà thôi, còn khi chép bài, dùng cả thân và ý nghiệp. Ấy là những điều chúng ta có kinh nghiệm hằng ngày vậy”.

Theo đoạn sửa lại đó, ý nghĩa cũng không khác nguyên dịch của Sư chút nào, mà lại có phần rõ ràng hơn nữa.

Trái lại, khi dịch văn đời xưa, nhứt là dịch các kinh điển của các tông giáo, lại không nên đảo lên đảo xuống, xê xít hoặc thêm bớt chút nào; vì giọng nói đời xưa khác, đời nay khác; mình xê xít một chút thì sợ sai đi, nên phải cẩn thận từng chữ.

Bài kế đây sẽ nói đến điều ấy.

Năm là về sự theo đúng từng chữ của nguyên văn. Trong bài trước tôi đã nói: dịch văn xưa, nhứt là dịch kinh điển của các tông giáo lại không nên xê xít hay là thêm bớt chút nào, vì giọng nói đời xưa khác, đời nay khác, mình xê xít một chút thì sợ sai đi, nên phải giữ cẩn thận từng chữ.

Nội mấy điều tôi kể ra trong bài phê bình nầy, tôi cho điều nầy là hệ trọng hơn hết, nên viết riêng ra một bài và lượm ra nhiều câu trong Phật học tổng yếu để bàn bạc sửa đổi lại.

Như câu kinh Niết bàn ở trang 17: “Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ; tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ; thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương” [10] . Sư dịch rằng: “Cha làm điều chẳng phải, con không chịu thế được; con làm điều chẳng phải, cha cũng không chịu được. Ai lành nấy được phước, ai ác nấy bị hại”.

Tôi cứ theo đó đặt ra mấy câu hỏi như vầy: chữ “bất thiện” sao lại dịch là “chẳng phải”? Nếu là “chẳng phải” thì nguyên văn đã nói “bất thị” rồi, sao lại nói “bất thiện” làm chi? Mà “bất thiện” với “bất thị” có khác nhau không? Nguyên văn không có ý gì là “được” thì sao trong câu dịch lại thêm chữ “được”? Nguyên văn trong câu sau cùng có chữ “đại” nữa sao dịch lại bỏ đi? Thêm vào và bỏ đi như vậy, nó có sai ý với nguyên văn chăng? “Thọ ương” sao lại dịch là “bị hại”? Nó có làm cho nguyên văn nhẹ ý đi không?

Để yên thì thôi, khi đã có người hỏi đến như vậy, dễ Sư cũng phải đồng ý như tôi mà trả lời rằng: “Bất thị” là “chẳng phải”, “bất thiện” là “chẳng lành”, – khác nhau. Kinh nói “bất thiện” thì dịch là “chẳng lành” đúng hơn. Chữ “được” nghĩa là “có thể” nên khi nói “con không chịu thế được” tức là “con không có thể chịu thế” mà theo nguyên văn thì chẳng nói đến có thể hay không có thể, chỉ nói “tử bất đại thọ”, con không chịu thế mà thôi, vậy thì nên bỏ chữ “được” đi. Trong câu sau “con cũng không chịu được” có thể hiểu ra nghĩa khác, chữ “đại” dịch lại lần nữa mà đừng bỏ. “Ương” là danh từ, “bị hại” là bị động từ, nói “thọ ương” thì ý nó nặng hơn “bị hại”, cho nên không dùng chữ “bị hại” mà dịch chữ “thọ ương” được, song phải dịch bằng chữ “mang họa”.

Theo lẽ đã trả lời đó, tôi xin sửa mấy câu trên đó như vầy: “Cha làm điều chẳng lành, con chẳng chịu thế, con làm điều chẳng lành, cha chẳng chịu thế. Ai lành nấy được phước, ai ác nấy mang họa”.

Trang 27 dẫn lời Hoằng Nhẫn đại sư nói rằng: “Thế nhân sanh tử sự đại, nhĩ đẳng chung nhật chỉ cầu phước điền, bất cầu xuất ly sanh tử khổ hải; tự tánh nhược mê, phước hà khả cứu”.

Sư dịch rằng: “Trong đời duy có sự sanh tử là lớn hơn cả, cớ sao các ngươi chỉ lo cầu phước mà không cầu cho ra khỏi cái biển khổ sanh tử kia? Nếu tự tánh còn mê thì phước không sao cứu được”.
Nguyên văn nói “thế nhân sanh tử sự đại” là chỉ nói trống sự sanh tử là lớn, hoặc có ý nói người đời có nhiều sự lớn mà sanh tử là một sự cũng chưa biết chừng. Vậy thì sao lại thêm vào chữ “duy có” và chữ “hơn cả ? Câu kế đó nguyên văn không có ý hỏi, sao lại thêm vào ý hỏi? Vả, có hồ nghi hay trong nguyên văn quả quyết không hồ nghi thì sao mình lại thêm vào ý hồ nghi? Phước điền có ý đối với khổ hải, sao lại bỏ chữ “điền” đi không dịch? Vậy xin sửa lại:

“Sự sanh tử của người đời là sự lớn; vậy mà các người cả ngày chỉ cầu ruộng phúc, không cầu ra khỏi cái biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh còn mê thì phước sao cứu được?”

Đoạn trên đó, muốn cho nẩy ý, có thêm chữ “vậy mà”, vì nghĩ rằng không hại đến nguyên ý, song muốn cho chắc chắn khỏi có sự sai lầm khác mà mình không ngờ kịp, thì bỏ đi cũng được.

Liền theo đó, trang 27, 28 dẫn lời Hoằng Nhẫn đại sư nói với Huệ Năng rằng: “Bất thức bổn tâm, học pháp vô ích, nhược thức tự bổn tâm, kiến tự bổn tánh, tức danh trượng phu, thiên nhân sư phật”. Dịch rằng: “Không biết được bổn tâm thì học đạo cũng vô ích. Nếu biết được bổn tâm, thấy được tự tánh, ấy mới kêu là trượng phu, là thầy của trời ngươi, là Phật”.

Trong câu “thức tự bổn tâm kiến tự bổn tánh” có hai chữ “tự” và hai chữ “bổn” như vậy chẳng phải là không có ý chi. Bổn tâm bổn tánh là cái tâm tánh gốc, mà “tự” là mình nhận biết lấy của mình; vậy không có thể bỏ bớt, bỏ bớt thì thành ra nói bông lông, không thiếu triệt. Tôi tưởng phải y theo nguyên văn mà dịch câu ấy là: “Nếu biết bổn tâm của mình, thấy bổn tánh của mình, v.v...”

Rồi đến trang 34-35 có những câu nguyên văn là: “Sám giả, sám kỳ tiền khiên; hối giả, hối kỳ hậu quá”. Lại câu “Phàm phu ngu mê, chỉ tri sám kỳ tiền khiên, bất tri hối kỳ hậu quá”. Bốn chữ “kỳ” ấy là adjectif possessif [11] để chỉ cho rõ cái khiên cái quá ấy của ai. Vậy mà Sư đã bỏ chữ “kỳ” đi, dịch câu trước rằng: “Sám là cải những lỗi trước, hối là chừa những lỗi sau”, dịch câu sau rằng: “Những kẻ phàm phu dại dột chỉ biết cải lỗi trước mà không biết chừa lỗi sau”. Như vậy thì không rõ. Tưởng nên sửa câu trên lại rằng: “Sám là cải những lỗi trước của mình ; hối là chừa những lỗi sau của mình”, và câu dưới rằng: “Những kẻ phàm phu dại dột chỉ biết cải lỗi trước của nó mà không biết chừa lỗi sau của nó”.

Tôi nói vậy chắc có người cho tôi là học hành theo thói nhà quê, không biết biến hóa; trong câu đó không có chữ “của mình”, “của nó” cũng đủ rõ rồi, hà tất phải thêm vào làm cho cho nó nặng nề khó nghe. Nhưng tôi thưa lại rằng: Dịch những lời trong các kinh chẳng khác làm tờ hợp đồng, phải chữ nào cho chắc chữ ấy; những chữ như vậy mà còn có khi sai thay, huống chi là không giữ. Vả lại còn có lẽ nầy mạnh hơn nữa: Như nói không có chữ “của mình” “của nó” cũng đủ hiểu thì bên nguyên văn dùng luôn mà không sợ trùng điệp? Lẽ đó tỏ ra rằng trong mấy câu đó phải có chữ “kỳ” mới được, thì bên tiếng An Nam nầy mình cũng phải dịch theo mới được.

Nhẫn lên là mấy chỗ tôi cho là quan hệ nên trích ra mà thỉnh giáo lại cùng Sư. Chí như những chỗ dịch đúng, như bài Tu tâm quyết của Phổ Chiếu thiền sư nơi trang 28-29 thì rõ ràng mà lại gọn gàng nữa, nhưng tôi viết lời phê bình nầy cốt muốn bổ thêm điều thiếu sót trong sự dịch của sư Thiện Chiếu, chớ không cốt để ca tụng cái tài dịch sách của người, nên tôi lược đi, không nói đến.

Sáu là về sự đọc chữ cho đúng.

Ở trang 49 có chữ “Chich-ma giáo” có chua ba chữ Hán và cả chữ Tây là “Lamaisme”.

Theo ba chữ Hán đó thì nên đọc là Lạt-ma-giáo; cái chữ “khẩu bằng rồi chữ thích” đó là chữ Lạt chớ không phải chữ Chich. Tiếng đó gần như một danh từ riêng. Nguyên ở xứ Mông Cổ và Tây Tạng người ta kêu thầy tu bằng “La-ma”, nên đạo Phật ở đó gọi là đạo “La-ma”. Đã là danh từ riêng thì nơi khác phải nói theo người bổn thổ đó, cho nên người Tàu cũng kêu bằng “Lạt-ma giáo” và Tây cũng kêu bằng “Lamaisme”. Lạt-ma và Lama không khác nhau là mấy. Bây giờ Sư kêu bằng “Chich-ma” thì khác nhau xa quá, khiến cho người nào dầu học biết chữ đó rồi đi nữa cũng không nhìn ra được. Như vậy là khuấy rối người ta lắm. Bởi vậy, nó là Lạt-ma thì xin Sư đọc là Lạt-ma. Còn như muốn nói vì sao mà biết nó là Lạt-ma? Cái đó không khó lòng chi, chỉ có giở tự vị ra thì biết.

Vừa nói đến hai chữ tự vị mà làm cho tôi lại nhớ ra một chuyện đọc chữ không đúng, làm lôi thôi cho người ta là dường nào. Nguyên hai chữ “tự vị” xưa nay ngoài Bắc kỳ đọc thế nào không biết, còn trong Trung Nam đều đọc là “tự vị” cả, chưa hề nghe ai đọc “tự vựng” bao giờ. Từ khi tạp chí Nam phong ra đời, trong đó người ta đề hai chữ “tự vựng” thật lớn, rồi sau có nhiều người bắt chước mà đọc là tự vựng. Vả chăng, Nam phong bấy giờ có tiếng lắm, có thế lực lắm, nên ai cũng theo, vì cho Nam phong là mọi sự mọi đúng.

Không ngờ Nam phong đọc như vậy là sai. Chữ vựng và chữ vị hai chữ hơi giống nhau mà khác nhau xa lắm, Nam phong lầm mà đọc vị ra vựng, thành ra dạy cho người ta đọc lầm nữa.

Tôi thì tôi nói chữ nào cũng cần phải đọc cho đúng, như lạt thì đọc lạt, đừng đọc ra chích ; vị thì đọc vị, đừng đọc ra vựng, vì tôi cho đọc sai là có hại. Còn như ai nói đọc thế nào cũng được, không có hại chi, thì tuỳ ý họ; tôi không đem câu chuyện nầy mà nói với họ cho thừa.

Bảy là về sự chấm câu cho đúng.

Tôi thấy có nhiều người viết quốc ngữ chấm câu không rành. Tôi từng đọc nhiều cuốn sách thấy trong đó chấm sai hết, như tuồng người viết sách không để ý đến, muốn chấm muốn phết chỗ nào cũng được, không cần theo phép tắc gì. Nếu người viết đó không thông chữ Pháp, chẳng nói làm chi, cái nầy học chữ Pháp giỏi mà viết quốc ngữ lại không dùng phép chấm câu theo như chữ Pháp, thì thật là lạ quá, tôi không có thể hiểu được.

Đến như dịch chữ Hán ra quốc ngữ thì lại càng nên chú ý đến sự chấm câu lắm. Vì phép chấm câu của chữ Hán sơ sài quá, phần nhiều sách họ chỉ lấy cái khuyên mà ngăn câu theo lối cũ mà thôi, chớ ít sách chấm theo lối mới. Tức như bộ Văn sao của Thái Hư pháp sư cũng chấm câu theo lối cũ.

Vậy khi dịch chữ Hán, trước hết mình phải lý hội mạch lạc của cả một bài, một đoạn, phân câu ra cho rành rồi hãy dịch. Trong sách Phật học tổng yếu có bộn chỗ phân câu sai; đây tôi chỉ cử ra một chỗ sai mà làm cho người ta có thể hiểu lầm.

Nơi trang 69 có một đoạn như vầy: “Thích Ca là dòng, Mâu Ni là tên khi thành Phật; thuở nhỏ tên Tất Đạt Đa, họ Cồ Đàm, con vua Tỉnh Phạn Vương và Ma Gia phu nhơn, nước Ca Bi La ở Ấn Độ”.

Đọc đoạn đó có thể làm cho người ta hiểu rằng đức Phật Thích Ca chỉ thuở nhỏ mới là họ Cồ Đàm và mới là con của vua Tỉnh Phạn Vương mà thôi, còn lớn lên thì không thuộc về họ Cồ Đàm và không phải con của vua Tỉnh Phạn nữa.

Vả người ta sanh ra, con ai, họ gì, thì thuở nhỏ thế nào, lớn lên cũng thế ấy, không có thể nhỏ khác lớn khác được. Nếu hiểu nghĩa như tôi mới vừa nói đó thì kỳ cục quá. Nhưng cứ theo đoạn văn đó thì phải hiểu như vậy, không hiểu khác được. Ấy không phải là tại đặt văn sai mà tại chấm câu sai.

Theo nguyên đích chấm phết vào sau câu “Mâu Ni là tên sau khi thành Phật”, thì đó về trước ngăn ra một ý. Rồi tiếp theo, nói “thuở nhỏ, v.v...” thì thành ra bao nhiêu ý sau đều gồm trong chữ “thuở nhỏ” hết, thành ra người ta phải hiểu rằng đức Phật chẳng những duy thuở nhỏ tên là Tất Đạt Đa, mà cũng duy thuở nhỏ mới là họ Cồ Đàm, con vua Tỉnh Phạn, v.v...

Muốn cho người ta đừng hiểu như vậy, chỉ có đem dấu chấm phết để chỗ khác là được. Ấy là để dấu chấm phết sau chữ “thuở nhỏ tên Tất Đạt Đa”. Làm như vậy tự nhiên nó ngăn ý trên với ý dưới ra, không ai hiểu lầm nữa.

Bài phê bình nầy tôi viết đến đây là hết. Kể ra thì bài nầy, cái tánh chất của nó không đủ là một bài phê bình. Nhưng xin độc giả biết cho, ở xứ mình một trăm sự chi cũng còn thiếu cả, bây giờ mới bắt đầu thì tài chi cho hoàn toàn được? Không đáng gọi là bài phê bình mà tôi kêu đại là phê bình vì tôi có ý tập cho người viết mà cũng quen cho người đọc nữa.

Bạch Sư Thiện Chiếu, trong bài của tôi đây nếu có chỗ nào sai lầm thì xin Sư đính chánh lại. Tôi sẵn lòng thọ giáo.

Một điều tôi dám tin chắc là Sư không có nhơn bài nầy mà giận tôi. Phật không hề giận ai.

___

Chú thích:

[1]trân tang: chưa rõ nghĩa.
[2]trại bẹ: tiếng nói sái cung, sái giọng (theo Huình Tịnh Paulus Của: Sđd.)
[3]có vài chỗ trong bài nêu tên sách là Phật giáo tổng yếu, chắc do in sai, ở đây sửa lại.
[4]Đây là nhắc đến bài dịch của dịch giả Hoàng Long Phi tự Phổ Chấn ở An Nhơn, An Linh, Bến Tre, đăng báo Thần chung 2 kỳ (số ra ngày 13.6 và số ra ngày 14.6.1929).
[5]chất chánh hoặc chất chính: hỏi lại để cho được đúng (theo Đào Duy Anh: Sđd.).
[6]thập nhị nhân duyên (pratitya-samutpâda): luận điểm cơ bản của Phật giáo về tam thế luân hồi với chuỗi nhân duyên gồm 12 phần (nidâna): vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
[7]nhiễm trước: nhuốm lấy, vương lấy chẳng thể lìa;
[8]Nguyên văn chỗ nầy có ba chữ na-lạc-ca bằng chữ Hán nữa.
[9]bản gốc là “từ chữ từ câu”, ở đây sửa lại.
[10]Chỗ này bản gốc in thiếu một vế 4 chữ và một vài chữ sai. LNÂ sửa lại theo đoạn trích lại ở bài trả lời của sư Thiện Chiếu.
[11]adjectif possessif: tính từ sở hữu

Trích: Thần chung, Sài Gòn, s. 279 (24.12.1929); s.280 (26.12.1929); s.281 (27.12.1929); s.283 (29 và 30.12.1929).

Nguồn: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2004


Không làm các điều ác, thường làm các điều lành, giữ thân ý trong sạch, đó là lời Phật dạy.
Nội quy sinh hoạt của diễn đàn: 1. Thân hòa cùng chung ở. 2. Khẩu hòa không tranh cãi. 3. Ý hòa cung hoan hỷ. 4. Giới hòa cùng tu tập. 5. Kiến hòa cùng giải bày. 6. Lợi hòa cùng chia sẻ. Mong mọi người sinh hoạt trong trong tinh thần lục hòa.
- Nhấn F12 để bật hay tắt chương trình gõ tiếng Việt của diễn đàn.
http://daitangkinhvietnam.org | http://tudien.daitangkinhvietnam.org | http://diendan.daitangkinhvietnam.org
Hình đại diện của người dùng
thienminh
Bài viết: 68
Ngày: 16/06/07 20:31

Re: Phê bình về lối dịch của sách Phật học tổng yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi thienminh »

“PHẬT HỌC TỔNG YẾU ” BỊ PHÊ BÌNH LÀ PHẢI !

Phan tiên sanh !

Trước khi hầu chuyện cùng tiên sanh, xin cho phép tôi tỏ đôi lời cùng các nhà hữu tâm với xã hội :

Phật giáo lưu nhập vào nước ta đã lâu rồi, lâu cho đến có gần hai ngàn năm. Thế mà trong nước cũng vẫn chưa thấy được một vài quyển sách viết bằng quốc văn nói về Phật giáo. Tuy gần đây có quyển Phật giáo đại quan của Phạm Thượng Chi tiên sanh ra đời, về mặt văn chương thì thiệt có phần đặc sắc, nhưng về nghĩa gốc của Phật như lý niết bàn, thuyết vô ngã thì tiên sanh còn tỏ ra cái thái độ hoài nghi. Thế là từ xưa đến nay chưa có một quyển sách nào nói về Phật cho đúng !

Lương Nhậm Công tiên sanh nói rằng : “Giữa đời Lục trào, Tuỳ, Đường chính là thời đại học thuật tư tưởng của Trung Quốc rất suy sút, đó chẳng qua luận về Nho học sử, nhưng về Văn học sử thì lại thời đại toàn thạnh. Vì đời bấy giờ, những người học vấn uyên thâm, chí hạnh cao khiết đều dắt nhau vào trong phạm vi Phật giáo, nên mới có một ánh hào quang chói lọi trong lịch sử Trung Hoa”. Thế thì Phật giáo không phải không có cái giá trị đáng nghiên cứu, mà trong văn học sử của các nước Đông Á cũng cần phải có Phật giáo mới được quang vinh vậy.

Người trí thức trong nước phần nhiều không biết Phật giáo rất có quan hệ đến văn hóa ; có biết, cũng không chịu nghiên cứu ; không biết, thì chỉ ngó sơ qua cái hình thức lễ bái, rồi cho Phật cũng đồng một loại với quỷ thần, nên mới có câu : “Nhứt thiết quỷ thần tiên phật đều là cừu địch của nhơn loại”; cho Phật giáo là yếu thế, nên mới có câu “Xin mời ông Thích Ca ra ngoài để cho chúng tôi lo đóng tàu đúc súng”. Người trí thức còn vậy, huống chi kẻ tự xưng là người chấn hưng Phật giáo mà viết sách nói – “thấy Phật trong cảnh chiêm bao” và “thành Phật cũng phải ở dưới quyền chánh phủ” thì còn nói làm sao được !

Phật giáo suy đồi đến thế là cực điểm. Lỗi ấy tại ai ?

Thạnh bên kia ắt suy bên nọ, các nhà trí thức đua nhau xu hướng về chánh trị, về kinh tế, về các cõi khác, thì bên Phật học giới không người tài ba lỗi lạc là phải !

Nước Tàu kinh điển Phật giáo được hoàn bị hơn ở Ấn Độ, là vì sự nghiệp phiên dịch chẳng những có các vị cao tăng trong nước mà cũng nhờ nhiều vị cao tăng ở các nước, có người xuất gia mà cũng có người tại gia. Gần đây Phật giáo rất có vẻ hoạt động, Phật học hội hầu khắp trong nước. Phật học viện tỉnh nào cũng có, có Trung Quốc Phật giáo liên hiệp hội, có Thế giới Phật giáo liên hiệp hội, có Trung Quốc Phật giáo cư sĩ lâm, có Thế giới Phật giáo cư sĩ lâm, các nhà bác học Âu, Mỹ sang để nghiên cứu Phật học. Thái sư pháp sư đi giảng học Âu châu, nếu trước kia không có Dương Nhân Sơn, Khương Nam Hải(*), Lương Khải Siêu, các vị danh nhơn, các nhà Phật học tạo nhân thì có đâu được kết quả tốt đẹp như thế ? Và không có Phật học từ điển, Phật học đại cang, Ấn Độ triết học, Phật giáo triết học của mấy người tại gia cư sĩ trứ thuật, thì làm sao Phật giáo Trung Quốc được chói lói, rực rỡ như thế ?

Còn nước ta, trong thì chế độ tăng già quá ư hủ lậu, không có tài liệu nghiên cứu, không có học đường giáo dục, mà nhứt là đối với quốc văn cho như một thứ chữ ngoại quốc ; ngoài lại bị nhiều kẻ vô kiến thức khinh khi Phật giáo, cừu thị tăng đồ, dầu có tín ngưỡng chẳng qua là mê tín, chớ có biết Phật lý là gì đâu ! Trong nước từ xưa đến nay chưa có một quyển sách viết bằng quốc văn nói về Phật giáo cho đúng, ấy cũng tại hoàn cảnh xã hội sử nhiên(**).

Tôi, nói ra hổ thẹn, hai mươi mấy năm trường ở dưới cái chế độ tăng già hủ bại ấy, nói cho đúng, cũng như ở một quả địa cầu khác, không biết việc xã hội, việc thế giới là gì, tưởng đâu trọn đời đồng khô mục với cây cỏ. Đến khi trong nước nổi lên cái phong trào Chấn hưng Phật giáo, nhân cơ hội ấy, đi tìm khắp các tùng lâm ở Trung, Bắc không có một vị cao tăng nào gọi là đại tài đại trí đứng ra chống đỡ Phật pháp trong lúc khuynh nguy ! Người xuất gia chỉ biết có thầy Trà Am ở Thừa Thiên, thầy Bích Liên ở Bình Định, người tại gia thì chỉ biết có cụ phó bảng Huy, ông Mai Văn Ngọc Nam kỳ là những người có Phật học, nhưng chỉ lo tự giác mà thôi.

Ở Nam kỳ, đây là nói riêng phần người xuất gia. Chỉ có sư cụ Khánh Hòa là người thâm Phật học, có nghị lực có nhiệt thành, hiện đương chủ nhiệm Linh Sơn Tự, nhưng tiếc vì tuổi đã cao, sức đã yếu rồi.

Huống chi, người ra chủ trương việc trùng hưng Phật giáo không phải dễ, trong đánh đổ một cái chế độ hủ bại xưa nay, ngoài đối phó với các tôn giáo có thế lực, bên kia khoa học, bên nọ cường quyền, bốn mặt đều có quân giặc phủ vây, có ai đơn đao độc mã mà dám xông vào trong giữa chiến trường nguy hiểm ấy không ?

Xã hội yêu cầu, quốc dân nguyện vọng đương thiết tha ao ước có chủ nghĩa từ bi bác ái thiệt hiện trên thế giới bất bình nầy tuy biết rằng trong nước hiện thời chưa có một người đại tài đại trí ra đời để gánh vác cái trách nhiệm lớn lao ấy, để làm cho thỏa mãn cái lòng yêu cầu nguyện vọng ấy, nhưng nếu cứ nhút nhát rụt rè, chỉ ôm cái nhiệt tâm than vắn thở dài, mua sầu chuốc não, tưởng kết cuộc cũng không được việc gì. Bởi vậy, một mặt chúng tôi lo cho trong tăng già có trường Phật học, một mặt đem Phật học giới thiệu cùng những kẻ ưu thời, nên vừa rồi trường Phật học đã tuyên cáo thành lập, và quyển Phật học tổng yếu mới mạo hiểm mà ra đời vậy.

Theo ngu kiến tôi, trường Phật học nếu không điều chi trở ngại, thì cũng mười lăm năm nữa mới sản xuất được nhơn tài. Nhưng thời cuộc hay đổi dời, cũng không biết đâu mà tiên liệu. Vậy thời bây giờ lấy ai làm kẻ tạo nhân ?

Phật học mênh mông, có đủ các khoa học. Ai chuyên về Nhân minh, tức là khoa Luận lý học ? Ai chuyên về Duy thức, tức là khoa Tâm lý học ? Ai chuyên về Bát nhã tôn, tức là khoa Triết học ? Ai chuyên về Phật giáo sử ? Ai chuyên về Giới luật học ? Ai lo Tiểu thừa ? Ai lo Đại thừa ? Ai biên dịch Phật giáo giáo khoa thơ ? Ai biên dịch Phật học từ điển ? Than ôi !...

Phật học tổng yếu là một bức Huyết lệ thơ.

Phật học tổng yếu là một quyển sách cốt để giới thiệu Phật học cùng các nhà trí thức trong nước, muốn cho các nhà trí thức nghiên cứu Phật học đặng làm kẻ tạo nhân cho Phật học giới. Phật học tổng yếu là một quyển sách bày tỏ chỗ dị đồng giữa Phật giáo với các tôn giáo, cho các ngài muốn học Phật để phân biệt Phật giáo là Vô thần giáo, chỉ nói “Tam giới duy tâm”, chớ không phải như các tôn giáo nói võ trụ sanh ra bởi có một đấng tạo vật. Phật học tổng yếu là một quyển sách giới thiệu Phật học cho các nhà học giả, mà chưa phải là một quyển sách phổ thông. Phật học tổng yếu là một quyển sách tỏ cùng các nhà nhiệt tâm muốn nghiên cứu Phật học biết rằng muốn học Phật phải học chữ Hán, vì hiện thời chưa có thể dịch hết ra tiếng An Nam được, mà cũng có nhiều câu không thể dịch được. Xem như Nhựt Bổn là một nước đã văn minh còn để y nguyên bổn Đại-tạng mà không phiên dịch, Ấn Độ là chỗ sản xuất Phật giáo, mà nay ông hội trưởng của hội “Mana boddhi” còn viết thơ cho Dương Văn Hội cư sĩ ở Kim Lăng xin mời giùm người thâm Đại thừa Phật học của Tàu. Theo như tôi hiểu thì, về phương diện Phật học hiện thời chưa có thể thoát ly cái ách nô lệ chữ Hán được. Nếu có nhiều nhà Phật học trau dồi quốc văn một cách sốt sắng, có thoát ly được chăng nữa tưởng cũng có trên dưới một trăm năm.

Nói tóm lại, quyển Phật học tổng yếu ra đời, chẳng qua bởi lòng nhiệt thành muốn cho các nhà học giả nghiên cứu Phật học, mà học Phật nên học của Tàu. Phật học tổng yếu cũng là một quyển sách để nhắc nhở các nhà học giả, các vị ưu thời nên làm thế nào cho sớm thỏa mãn cái lòng yêu cầu của xã hội, nguyện vọng của quốc dân vậy.

Các ngài trí thức trong nước ! Tiện đây xin thưa cho các ngài biết : Các ngài chớ quá tin rằng công việc của chúng tôi làm là thành công mà không thất bại, mỗi người trong chúng tôi đều giữ đúng cái tôn chỉ từ bi bác ái cả, và chớ tưởng rằng người học Phật chừng năm bảy người là đủ, chỗ để học Phật chừng đôi ba chỗ là đủ.

Phan tiên sanh !

Tôi đã thú thiệt rằng hai mươi mấy năm trường vùi lấp trong chế độ tăng già hủ bại, không có thầy hay bạn tốt chỉ lối đưa đường nên đã thành một kẻ thất học, nếu ngày nay bắt đầu can thiệp đến xã hội mà lại không ai ngó ngàng đến nữa, thì có lẽ trọn đời thành một người bỏ đi ! Quyển Phật học tổng yếu vừa xuất bản, được cái hân hạnh có nhà học giả thương đến mà phê bình, phê bình để bổ thêm những điều khuyết điểm của tôi. Thưa tiên sanh : Rất đỗi một nhà Nho học còn biết nghe ai bảo mình có lỗi thì mừng, huống chi một người biết chút ít Phật học như tôi quyết lo rửa sạch sân si nghiệp chướng đặng ra khỏi biển trầm luân. Cho nên tôi đọc suốt ba bài phê bình, chẳng những đối với tiên sanh sẵn có một mối mỹ cảm, mà lại lạc quan đối với Phật học giới sau nầy : Từ đây những nhà học giả đã lưu tâm đến Phật học rồi ! Từ đây những sách nói về Phật giáo nhảm nhí hoang đường không dám ra đời nữa.

Nhưng trong ba bài(*) phê bình của tiên sanh có chỗ đúng, có chỗ quá ư nghiêm khắc, có chỗ ưng, cũng không khỏi có chỗ oan. Người đã gọi là người học Phật, dầu ưng dầu oan, lẽ thì không nên biện bạch. Nhưng tiên sanh đã vui lòng mà chỉ giáo cho, cái hậu ân ấy thiệt không biết lấy chi mà đền đáp, vậy lời phê bình của tiên sanh nếu có chỗ chưa đúng mà tôi giấu đi, không trình cho tiên sanh biết, chẳng là người vô nghĩa lắm ư ? Vậy xin dẫn những chỗ oan của tôi ra sau đây, xin tiên sanh nhã giám.

Khoản dùng chữ Hán. – Quyển Phật học tổng yếu là một quyển sách cốt để giới thiệu Phật học cho các nhà học giả, mà không phải là một quyển sách phổ thông. Lại là một quyển sách có ý tỏ cho những người muốn gấp học Phật biết rằng muốn học Phật phải học chữ Hán. Vì tiếng ta hiện thời chưa có thể dịch hết ý sâu xa trong nguyên văn chữ Hán được. Vì cớ đó mà tôi dùng nhiều chữ Hán. Dùng nhiều chữ Hán, theo ý tôi đối với người đã thông Hán học tưởng cũng không trở ngại gì, và những người chưa biết chữ Hán mà muốn học Phật nếu có chí cầu học, thì dầu khó đến đâu cũng không thối chí bao giờ. Tôi nói thế, không phải là ngụy biện, trong sách mấy bài chữ Hán tôi có dịch âm cả, và có chua nhiều chữ Hán, ấy đủ chứng cho cái bổn tâm của tôi vậy.

Khoản theo đúng từng chữ của nguyên văn. – Trước khi biện về khoản nầy, xin thưa cùng tiên sanh rằng : Phật học có khác hơn văn nghệ, Phật học không nê cố(**) văn tự, Phật học sở dĩ để cầu thấy tánh sáng lòng. Tánh tức là bổn tánh, lòng tức là chân tâm, bổn tánh tức là cái bổn thể không sanh không diệt vậy. Người sanh trên đời, không khác như ở trên sàn hát, cái màn hưng vong, trung, nịnh tuy có lắm lúc đổi dời, nhưng chẳng qua một cuộc giả. Đã là cuộc giả, sao lại ta khi cười khi khóc, lúc giận lúc thương ? Ấy bởi “vọng tâm” chấp trước, tại mình làm khổ cho mình ! Cho nên cái mục đích học Phật là cầu cho khỏi khổ được vui, muốn cho khỏi khổ được vui phải tìm cho thấy cái chân tâm không sanh không diệt ấy. Người học Phật, trước khi chưa thấy chân tâm cũng phải mượn đến văn tự, cũng như mượn ngón tay để chỉ mặt trăng, mượn cái nơm để bắt con cá vậy. Nếu cứ ngó ngón tay thì không bao giờ thấy được mặt trăng, cứ cố cái nơm thì không bao giờ bắt được con cá, cũng như cứ nê cố văn tự thì không sao thấy được chân tâm. Kết cuộc còn cái vọng tâm sanh diệt thì khổ cũng vẫn khổ, thế thì có ích lợi gì đâu ! Cho nên Phật thuyết pháp 45 năm chưa hề viết ra một chữ, không những không có một chữ, mà lại cũng không có thuyết pháp !

Phật nói rằng : “Nếu ai nói ta có thuyết pháp, ấy là chê ta, vì không hiểu cái sở thuyết của ta” (Nhược nhơn ngôn như lai hữu sở thuyết pháp, tức vì bằng phát bất năng giải ngã sở thuyết cố. – Kim cang kinh). Ngài nói rằng : “Không pháp nào gọi là pháp đáng nói mới kêu là nói pháp” (Vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp – Kim cang kinh). Ngài lại nói : “Các ông tỳ kheo ! Phải biết rằng ta thuyết pháp ví như chiếc bè (khi chưa qua sông phải cầu có bè), pháp còn phải bỏ, huống chi là phi pháp (Nhữ đẳng tì kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt vu giả, pháp thượng ưng xã, hà huống phi pháp – Kim cang kinh)

Ấy là Phật dạy rằng : Phải lìa hết chữ nghĩa và tiếng nói mới thấy được chân tâm.

Bởi tôi thấy trong khoản nầy nhiều đoạn tiên sanh có hơi nê cố văn tự, sợ e trở ngại về sự nghiên cứu Phật học, nên tôi nói có hơi dông dài một chút, xin tiên sanh lượng cho. Và nếu nê cố văn tự thì thế nào cũng sai lạc ý nghĩa trong văn kinh. Vậy xin dẫn một đoạn dưới đây để cùng tiên sanh bàn bạc.

Như câu kinh Niết bàn ở trang 17 : “Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ, tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ. Thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương”.

Tôi dịch : “Cha làm điều chẳng phải, con không chịu thế được, con làm điều chẳng phải, cha cũng không chịu thế được”. Nhưng sách in sót : “... Cha cũng chẳng chịu được”.

Tiên sanh nói : “Nguyên văn, trong câu sau, cũng có chữ “đại” nữa, sao dịch lại bỏ đi ?”

Nói cho phải, trong sách Phật học tổng yếu thiệt có nhiều chỗ thiếu sót và sai lầm, vì bởi sửa không kỹ. Như trang đầu sót luôn một câu : “... lân là loài mao trùng (trùng lông)”, mà trong biểu đính chánh cũng không có bỏ vào cho đủ. Vả lại biểu đính chánh cũng có chỗ sai nữa, như “kín nhiệm” mà sai là “kính nhiệm”. Nhưng câu “cha cũng không chịu được” thì trước biểu đính chánh cũng có sửa lại rồi. Thưa tiên sanh : Tôi không bao giờ dám bỏ nghĩa chữ “đại”.

Tiên sanh nói : “Nguyên văn không có ý gì là “được” thì sao trong câu dịch lại thêm chữ “được”? Tiên sanh lại nói : “Chữ “được” nghĩa là “có thể” nên khi nói “con không chịu thế được” tức là “con không có thể chịu thế”.

Thưa phải ! theo lý nhân quả, ai gây nấy chịu, cũng như không thể mượn lỗ mũi của người khác mà thở được. Dầu tiên sanh nói : “Không thể được” là “con không thể chịu thế”, thưa tiên sanh, nói như vậy cũng được. Vì cha làm quấy, dầu con có lòng thảo muốn chịu tội thế, cũng không thể chịu thế được. Cả câu “không chịu thế được” là có cái ý nghĩa nói quả quyết rằng : “Dầu có lòng thương nhau, cũng không bao giờ chịu thế cho nhau được”. Ví như câu : “Con cháu tuy chật nhà, cũng không chết thế được”, đều bỏ chữ “được” đi, thì thành con cháu bất hiếu !

Bài dịch ấy, tiên sanh sửa lại rằng : “Cha làm điều chẳng lành, con chẳng chịu thế ; con làm điều chẳng lành, cha chẳng chịu thế. Ai lành nấy được phước, ai ác nấy mang họa”.

Thưa tiên sanh ! Ba chữ “chẳng chịu thế” nó hàm có cái ý nghĩa cha con đối đãi với nhau rất là lãnh đạm vô tình, ai chết nấy chịu, không ai chịu thế cho ai. Tại chẳng chịu thế, chớ không phải muốn chịu thế mà không được. Trái lại thì là “nếu muốn chịu thế cũng được”. Thế thì nó trái hẳn với lý nhân quả rồi !

Mấy đoạn dưới như câu : “Trong đời duy có sự sanh tử là lớn hơn cả”, và “Không biết được bổn tâm, thì học đạo cũng vô ích” v.v. và “Những kẻ phàm phu dại dột, chỉ biết cải lỗi trước, mà không biết chừa lỗi sau” v.v..., tôi dịch có thêm bớt mà tiên sanh cho sự thêm bớt ấy là quan hệ, vậy nên xin thưa cùng tiên sanh rằng : Trong kinh Niết bàn Phật có dạy : “Theo kinh rõ nghĩa, chớ theo kinh không rõ nghĩa”. (Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh). Nếu không rõ nghĩa, thì dầu tới Phật cũng có thể cãi được. Phật giáo cho người tư tưởng tự do, sở dĩ khác hơn tôn giáo là ở chỗ đó. Thế thì thêm bớt mà rõ nghĩa, dầu nguyên văn có cùng không có cũng vô hại.

Trước khi cáo biệt, xin có lời trân trọng thưa cùng tiên sanh.

Ai có thiệt tâm giúp đời thì bao giờ cũng không khỏi có kẻ ghét mà lại có những hạng người ở trong vòng hắc ám trở hiềm oán cái kẻ ra tay tháo cũi sổ lồng cho, ấy mới là lạ chớ ! Chánh trị vậy, tôn giáo vậy, mà văn học cũng vậy.

Nhưng người đã biết bổn phận, không sợ ai ghét, cũng không cần ai thương, nên trước sau không bao giờ để cho sai lạc tôn chỉ.

Tiên sanh đã nói : “Trong nghề văn học rất cần có sự phê bình”, tiên sanh đã biết là “rất cần”, sao tiên sanh lại “ngại” ?

Nếu tiên sanh cứ “ngại” thì bao giờ văn học mới có vẻ quang vinh ? Mà nếu những người thiệt tâm giúp đời cũng lại ngại thì bao giờ xã hội hết bất bình, nhơn gian có chân lý ?



THIỆN CHIẾU(*)

Thần chung, Sài Gòn, s.285 (2.1.1930); s.286 (3.1.1930); s.287 (4.1.1930)




(*) Hòa thượng Thiện Chiếu, họ tên thật là Nguyễn Văn Tài (1898-1974), còn có tên Sáng, bút hiệu Xích Liên, sinh ở làng Long Hựu tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang) ; thuở nhỏ học cả Hán học và Tây học ; 8 tuổi xuất gia theo học Phật ở chùa Linh Tuyền. 1926 lên Sài Gòn học, trụ trì ở chùa Linh Sơn ; 1927 được hòa thượng Khánh Hòa (người khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ) cử ra Hà Nội liên lạc với chư tăng miền Bắc nhằm phối hợp hoạt động chấn hưng Phật giáo ; tại Hà Nội, Thiện Chiếu xúc tiếp với Nam Đồng thư xã, với Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài. 1942 bị bắt đày ra Côn Đảo. Tháng 8. 1945 trở về làm phó chủ tịch UBKCHC Gò Công, làm việc ở quân khu 7, 8, 9. Năm 1954 tập kết ra Bắc, làm việc ở ban nghiên cứu văn sử địa ; được cử đi Trung Quốc làm việc tại Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh. 1961 trở về Hà Nội, làm chuyên viên khoa triết thuộc UBKHXHViệt Nam. Mất 1974 tại Hà Nội. Thiện Chiếu là dịch giả một loạt sách Phật học: Phật học tổng yếu, Phật học vấn đáp, Phật hóa tân thanh niên, Tranh biện ; là dịch giả một số sách văn học Nga: Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (của M.Sholokhov), Tiền tuyến (kịch của A.E.Korneichuk), Tính cách Nga (truyện ngắn của A.Tolstoi), Ông già (truyện của V.Grossman)... Tháng 4. 2003 tạ Hà Nội có hội thảo “Nhà sư, chiến sĩ cộng sản Thiện Chiếu” (Theo Phúc Anh: Trở về từ cõi không // Hà Nội mới, 15/5/2003).

(*) Dương Nhân Sơn (1837-1911) người Trung Quốc, cư sĩ Phật giáo, có công lớn trong việc tổ chức in khắc trùng san các bộ kinh Phật ; Khương Nam Hải tức là Khang Hữu Vi (1858-1927) quê Nam Hải, Quảng Đông nên cũng được gọi là Nam Hải tiên sinh.

(**) sử nhiên : có lẽ dựa theo thành ngữ chữ Hán “thiên lý sử nhiên”, ý nói lẽ trời xui khiến như vậy ; “hoàn cảnh xã hội sử nhiên” có lẽ ý nói hoàn cảnh xã hội gây nên như vậy.

(*) Bài của Phan Khôi đăng 4 kỳ báo. Có lẽ Thiện Chiếu viết bài phản hồi này sau khi đọc 3 kỳ đầu nên gọi là “ba bài”.

(**) nê cố : tương tự “câu nệ”, “chấp nê”.


Không làm các điều ác, thường làm các điều lành, giữ thân ý trong sạch, đó là lời Phật dạy.
Nội quy sinh hoạt của diễn đàn: 1. Thân hòa cùng chung ở. 2. Khẩu hòa không tranh cãi. 3. Ý hòa cung hoan hỷ. 4. Giới hòa cùng tu tập. 5. Kiến hòa cùng giải bày. 6. Lợi hòa cùng chia sẻ. Mong mọi người sinh hoạt trong trong tinh thần lục hòa.
- Nhấn F12 để bật hay tắt chương trình gõ tiếng Việt của diễn đàn.
http://daitangkinhvietnam.org | http://tudien.daitangkinhvietnam.org | http://diendan.daitangkinhvietnam.org
Hình đại diện của người dùng
thienminh
Bài viết: 68
Ngày: 16/06/07 20:31

Re: Phê bình về lối dịch của sách Phật học tổng yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi thienminh »

ĐÔI LỜI CÙNG PHAN KHÔI TIÊN SANH

Về sự phê bình Phật học tổng yếu

Tôi định rồi cuộc lạc thành(*) Phật học viện thì đi ở một chỗ u tịch để tìm cái nguyên nhân thất bại và cách hành động sau nầy. Không dè tiên sanh quá yêu, phê bình sách Phật học tổng yếu, buộc tôi phải ở lại mấy ngày. Cách hai kỳ báo, không thấy tiên sanh chỉ giáo điều chi, tưởng thế là xong việc. – Không dè, cách hai tuần lễ, cái chỗ rừng sâu hang thẳm mà thoạt có tiếng “Chuông Mai” ngân đến, khiến cho tôi đương tĩnh tọa dưới gốc bồ đề phải mở mắt ra xem, thì được cái hân hạnh lại thấy tiên sanh gọi đến tên tôi nữa !

Tiên sanh đã sẵn lòng huệ cố, tuy biết rằng bài hồi đáp nầy thiệt là trễ nải nguội lạnh lắm, không còn thú vị gì ; song, miễn là được tỏ rằng tôi trước sau không bao giờ dám phụ cái hảo ý của tiên sanh là đủ vậy.

*

Thọc ngón tay xuống biển, ai dám bảo rằng không xao động cả Thái bình dương ? Cho nên tuy có một chữ “được” mà cũng phải tranh biện, là vì có lây đến giáo lý. “Con không chịu thế được, cha cũng không chịu thế được”, tiên sanh cho chữ “được” là dư, sợ sai ý kinh ; còn tôi thì lại cho nếu không có chữ “được” thì hại mất lý. Tuy tiên sanh với tôi chỗ thấy có khác nhau, nhưng ai cũng vì lý cả.

Lời nói sở dĩ để diễn lý, kinh nào cũng vậy, sách nào cũng vậy, chẳng luận Phật, Khổng, Gia, Hồi, cả các tôn giáo, các học phái trên thế giới muốn nói điều gì thì điều ấy phải cho đúng “lý” mới được. Nếu không đúng lý, thì chẳng luận lời của ông giáo chủ nào, nhà học giả nào, nguyên bổn hay dịch bổn cũng là một món “vô giá trị”, ta không phải cứ cắm đầu mà tin theo.

Chữ là xác mà lý là hồn, dịch âm sai một chữ mà tiên sanh còn không nghe, huống chi là lý ? Đã vì văn học, thì chẳng phải cứ lo trau dồi cái xác mà bỏ mất cái hồn đi. Tiên sanh vì “lý” mà biểu bỏ chữ “được” tôi cũng vì “lý” mà thêm một chữ “được” ; tiên sanh nói không chữ “được” là phải, tôi nói có chữ “được” mới phải. Nếu cứ theo cái thiên kiến của mình ai cũng giành phần phải hết, cứ chèo kéo với nhau mãi, thì biết bao giờ mới giải quyết được ? Tôi cùng tiên sanh cãi nhau chẳng qua là vì lý, vậy thì phải lấy “lý” để phân giải giùm cho chúng ta. Vậy muốn biết không chữ “được” là có lý, hay có chữ “được” là có lý thì phải tìm cho biết coi chủ ý bài ấy nói cái gì.

“Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ, tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ. Thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương”.

Thưa tiên sanh : Chủ ý bài ấy có phải giảng minh luật “nhân quả” không ? Tiên sanh cũng đã công nhận rằng bài ấy cốt chỉ giảng minh luật nhân quả. Thế nào gọi là nhân quả ? – Bởi có nguyên nhân nên mới có kết quả. Kẻ tạo nhân lành thì hưởng được quả vui, người tạo nhân dữ thì phải chịu quả khổ, không khác như trồng hột xoài được quả xoài, trồng hột mít thì được quả mít, nhân nào quả nấy, một mảy không sai vậy. Mà lại nghiệp ai nấy chịu, dầu tình chí thân như cha con cũng không chịu thế cho nhau được. Cho nên cha học, con không biết chữ được; con gầy, cha không sớt thịt cho mập được.

Tôi suy lý như vậy, nên tôi dịch rằng : “Cha làm điều chẳng phải, con không chịu thế được; con làm điều chẳng phải cha cũng không chịu thế được. Ai lành nấy được phước, ai ác nấy bị hại”.

Tiên sanh nói : Có chữ “được” sợ sai ý kinh. Thưa tiên sanh tôi không hiểu chữ “được” trong bài dịch ấy nó sai ý kinh ở chỗ nào ? Có phải có chữ “được”, ý nghĩa mới quán xuyến trước sau không ? Bài ấy chẳng qua luận lý nhân quả, còn ở trong vòng văn tự, chớ phải thoát ly văn tự mới hiểu được như câu “Rồng gầm trong cây khô” và “Trong con mắt trong sọ người chết” đâu mà tiên sanh phải nhọc lòng sợ sai ý kinh ? !

Còn tiên sanh sửa lại rằng : “Cha làm điều chẳng lành, con chẳng chịu thế ; con làm điều chẳng lành, cha chẳng chịu thế...”

Thưa tiên sanh “Cha chẳng chịu thế, con chẳng chịu thế” có phải là nó có cái ý nghĩa “Cha chẳng chịu thế cho con, con chẳng chịu thế cho cha” không ? Tôi dám chắc rằng tiên sanh không bao giờ viện được lẽ gì mà nói rằng không phải được.

Có cha con, sao không ai chịu thế cho ai ? Đã không chịu thế cho nhau, tôi không hiểu Phật nói có hai chữ “cha con” trong bài ấy để làm gì ? Nếu hai chữ “cha con” trong bài ấy không ý nghĩa gì thì thôi, nên bỏ phứt bốn câu trước đi, để hai câu sau “Ai lành nấy được phước, ai ác nấy bị hại” há chẳng rõ được lý nhân quả sao ? Cần gì phải nói : “Cha làm chẳng lành, con chẳng chịu thế ; con làm chẳng lành, cha chẳng chịu thế” ? Nghe lã chã như đờn Nam mà hát Khách vậy ? Hay là tiên sanh cứ cố chấp rằng trong bài ấy muốn có chữ “được” thì nguyên văn phải có chữ “năng” mới được, vì văn tự của Tàu, chữ “năng” vốn đã có trước khi Phật truyền sang ; vậy sao tiên sanh lại không làm ơn nói giùm luôn câu “Chẳng nên câu nệ văn một chữ mà hại mất lời trong câu ; chẳng nên câu nệ lời một câu mà hại mất ý chí của tác giả” (“Bất dĩ văn hại từ, bất dĩ từ hại chí” – Mạnh Tử) đã có trước khi tôi cùng tiên sanh tranh luận về chữ “được” cùng không “được” đây ?

Ở đời không ai khỏi lỗi lầm, có lỗi mà dám thừa nhận, ấy mới gọi là “dõng”(*). Tiên sanh là một viên lão tướng, từng kinh nghiệm trong trận bút trường văn, lại không ưa cái chủ nghĩa đế quốc, nên tôi rất tin rằng tiên sanh, – sau khi đọc hết bài nầy – có đủ can đảm dẹp chỗ thiên kiến và thủ tiêu khoản bất bình nầy.

THIỆN CHIẾU

Thần chung, Sài Gòn, s.307 (6.2.1930)


(*) lạc thành : xây dựng xong (theo Đào duy Anh : sđd.)

(*) dõng (ghi theo giọng đọc Nam Kỳ) = dũng.


Không làm các điều ác, thường làm các điều lành, giữ thân ý trong sạch, đó là lời Phật dạy.
Nội quy sinh hoạt của diễn đàn: 1. Thân hòa cùng chung ở. 2. Khẩu hòa không tranh cãi. 3. Ý hòa cung hoan hỷ. 4. Giới hòa cùng tu tập. 5. Kiến hòa cùng giải bày. 6. Lợi hòa cùng chia sẻ. Mong mọi người sinh hoạt trong trong tinh thần lục hòa.
- Nhấn F12 để bật hay tắt chương trình gõ tiếng Việt của diễn đàn.
http://daitangkinhvietnam.org | http://tudien.daitangkinhvietnam.org | http://diendan.daitangkinhvietnam.org
Hình đại diện của người dùng
thienminh
Bài viết: 68
Ngày: 16/06/07 20:31

Re: Phê bình về lối dịch của sách Phật học tổng yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi thienminh »

CẢI CHÁNH NHỮNG CHỖ SAI LẦM TRONG BÀI “MẤY LỜI THỈNH GIÁO” CỦA PHAN KHÔI TIÊN SANH

Trong bài Mấy lời thỉnh giáo của tiên sanh có đôi chỗ không đúng, tôi cũng biết tiên sanh vẫn chưa nghiên cứu Phật học, nên tôi viết bài nầy không phải chỉ cốt để biện bác những chỗ không đúng ấy, mà chính là muốn làm cho yên lòng người tín ngưỡng Phật giáo và cũng giải sự nghi hoặc cho người muốn học Phật.

Tiên sanh nói : “Sách Phật nhiều hơn sách của các tôn giáo khác”. Rồi tiên sanh đem Khổng giáo mà so sánh rằng : “Đạo của Khổng Tử, vì tại những người nối theo cắt nghĩa mỗi người sai lầm một ít, trải đời nọ sang đời kia, càng nhiều người cắt nghĩa thì càng sai, mà càng sai lại càng nhiều người cắt, vì vậy mà sách chất hàng đống. Phật giáo cũng một kiểu ấy”.

Thưa tiên sanh : Phật giáo là Phật giáo, không phải đem Khổng giáo mà luận Phật giáo được ! Phật giáo giải rõ cái vấn đề sanh tử, nên ta học Phật có thể biết được “sanh ở đâu đến, chết rồi về đâu”, chớ không phải như Khổng giáo nói rằng : “Chưa biết việc sống, đâu biết được việc chết”; Phật giáo giải được những vấn đề khó giải, chớ không phải như Khổng giáo gặp cái vấn đề khó giải thì đổ thừa cho “thiên mạng”. Các vị Bồ tát lập luận giải kinh của Phật giáo khác hẳn với những người cắt nghĩa sách của Khổng giáo ; những người cắt nghĩa sách của Khổng giáo cãi nhau về ý nghĩa trong vòng văn tự, còn các vị Bồ tát thì lập luận tranh biện nhau và triết lý ở ngoài vòng văn tự, nghĩa là không phải cãi nhau từng câu từng lời như kẻ chú giải sách của Khổng giáo vậy. Bởi vậy, tôi mới nói rằng : Phật giáo là Phật giáo, không phải đem Khổng giáo mà luận Phật giáo được !

Tại sao Phật giáo có nhiều sách hơn các tôn giáo khác ?

Bởi chúng sanh chưa thấy được chơn tướng của võ trụ (chơn tướng võ trụ tức là chơn tâm), nên cứ theo thiên kiến của mình mà vọng chấp, không khác như kẻ mù rờ voi, bởi kẻ mù không thấy được chơn thể của con voi,nên kẻ rờ nhằm lỗ tai thì chấp rằng hình con voi như cái ký, còn kẻ rờ nhằm cái đuôi thì chấp rằng hình con voi như cái chổi !

Bởi chỗ thấy thiên lệch mà vọng chấp đó, mới mống lên niệm tham sân. Bởi niệm tham mới xâu xé tranh giành nhau, bởi niệm sân mới tàn hại chém giết nhau. Đã tạo nghiệp nhân thì phải tuần hườn mà trả quả, đáng thương xót là dường nào !

Bịnh “vọng chấp” của chúng sanh không phải một chứng nên thuốc đối trị cũng phải có nhiều phương. Phật thuyết pháp 45 năm, tuỳ bịnh căn mà cho thuốc : Kẻ chấp “có” thì Phật nói “không”, người chấp “không” thì Phật nói “có”, đem “thiệt pháp” giáo hóa bậc thượng căn, dùng “quyền pháp” tế độ hàng hạ trí, kẻ thông minh thì chỉ “đốn giáo” (đường tắt thành Phật), người dung ngu thì dạy “tiệm giáo” (bước lần từng nấc thang). Bịnh “vọng chấp” có thiên sai vạn biệt, thì phương thuốc “phá chấp” cũng có vô lượng vô biên. Bởi vậy, Phật giáo mới có nhiều sách hơn các tôn giáo khác.

Tại sao mà biết rằng các vị Bồ tát lập luận tranh biện nhau về triết lý ở ngoài vòng văn tự, không phải như những người cắt nghĩa sách của Khổng giáo chỉ cãi nhau về lý nghĩa trong vòng văn tự ?

Bởi Phật thuyết pháp có đốn, tiệm, quyền, thiệt, có tiểu, đại, không, hữu các bộ, nên các vị Bồ tát ai chuyên về tiểu thừa thì lập luận để binh vực lý tiểu thừa cho được củng cố, ai chuyên về đại thừa thì lập luận để phát dương lý đại thừa cho được tăng quang, hữu bộ cũng vậy, mà không bộ cũng vậy.

Thưa tiên sanh : Tuy trong phái Tiểu thừa có tranh biện nhau với phái Đại thừa, Hữu bộ có tranh biện nhau với Không bộ, nhưng tranh biện nhau là tranh biện về triết lý, chớ không bao giờ có Tiểu thừa tranh nhau với Tiểu thừa, Đại thừa tranh nhau với Đại thừa ; không phải như những kẻ cắt nghĩa sách của Khổng giáo chỉ nệ có từng chữ từng câu trong vòng văn tự đâu !

Nhờ các phái tranh biện nhau mới hiển lộ thêm nghĩa mầu trong kinh Phật.

Tiên sanh lại cho khốn nhau là tại Kinh tạng và Luận tạng, thưa tiên sanh, ấy là một sự sai lầm đáng tiếc vậy.

*

Tiên sanh nói : “Các đệ tử chép kinh chưa chắc đã đúng như lời Phật”.

Thưa tiên sanh : Tôi đã nói trong kinh Niết bàn, Phật có dạy : “Theo kinh rõ nghĩa, chớ theo kinh không rõ nghĩa”. Thế thì ta có quyền phán đoán tự do, những lời trong kinh Phật, lời nào nói có lý thì ta theo, bằng vô lý thì thôi ; ai biểu câu chấp chi từng chữ từng câu mà phải sợ đệ tử Phật chép kinh đúng cùng không đúng ?

Tiên sanh nói : “Theo tôi tưởng (!), có lẽ Sư thâm nhiễm Khổng giáo mà không tự biết. Tức như trong khi Sư đưa hai chữ “bất hiếu” vào đây, là khi cái quan niệm về Luân thường của Khổng giáo nó nhắc cho Sư nhớ điều đó”.

Thưa tiên sanh : Bởi trong câu kinh Niết bàn có nói đến chữ “cha con” trong đó, và bởi tiên sanh bỏ chữ “được” mà nói “cha chẳng chịu thế” nên tôi mới nói đến hai chữ “bất hiếu”; không phải khi không mà tôi nói, sao tiên sanh lại cho rằng cái quan niệm luân thường của Khổng giáo nhắc cho tôi ?

Tiên sanh nói : “Phật là Phật, Khổng là Khổng, nếu đem cái nầy pha với cái kia thì mất cái bổn sắc của nó đi”.

Điều đó lại càng rối cho tiên sanh nữa. Tiên sanh nói Khổng giáo mới có luân thường, còn Phật giáo không có luân thường sao ? – Phật có lòng bác ái muốn tế độ cả chúng sanh. Chúng sanh có nhiều bịnh, nên Phật pháp cũng có nhiều phương.

Chẳng những Phật dạy cái phương pháp “ra khỏi đời” mà thôi, lại cũng dạy cái phương pháp ở đời nữa. Cho nên trong Phật giáo có chia ra ngũ thừa (năm cỗ xe) : 1. Phật thừa; 2. Bồ tát thừa; 3. Duyên giác thừa; 4. Thinh văn thừa; 5. Thiên nhơn thừa. (Trình độ của chúng sanh đến bậc nào thì cũng có cỗ xe đưa về bậc ấy).

Bốn cỗ xe trước, là pháp dạy “ra khỏi đời”, còn cỗ xe sau (Thiên nhơn thừa) là pháp dạy “ở đời”, không khác luân thường của Khổng giáo, tức là khoa luân lý của Phật giáo vậy.

Tiên sanh muốn biết tôi nói thiệt hay dối, thì tiên sanh chịu khó giở ngay cái thiên “Phật giáo luận lý chi luân lý học” và “Phật giáo thiệt tiện chi luân lý học” trong “Phật học đại cang” thì rõ.

Thưa tiên sanh : Dầu tôi có nói đến luân lý, thì cũng chỉ nói khoa luân lý của Phật giáo mà thôi, tiên sanh có sợ gì mất cái bổn sắc của Phật giáo ?

Có lửa thì có khói, tuy không thấy lửa, nhưng chỗ nào có khói thì suy lý ra biết rằng chỗ đó ắt có lửa. Ở cuối bài “Mấy lời thỉnh giáo”, tiên sanh nói “Khổng là Khổng, Phật là Phật” ấy là tiên sanh cho Khổng với Phật không phải như lửa với khói, sao ở đầu bài, tiên sanh lại đem Khổng giáo mà luận Phật giáo ? Tôi nghe tiên sanh tinh về khoa luận lý học lắm, sao để cho trước sau nó mâu thuẫn với nhau ?

Sự lý trong thiên hạ vô cùng, không phải mỗi việc mỗi biết hết được. Nhưng việc nào mình biết thì cứ chịu ngay rằng biết, còn việc nào mình chẳng biết thì cũng phải dám chịu ngay rằng chẳng biết, ấy mới thiệt là biết. Nếu cái nào mình chưa biết mà dám nói đến cái đó, thì chẳng những là có quan hệ, mà lại rất là nguy hiểm.

Thưa tiên sanh : Có phải như vậy không ?

THIỆN CHIẾU

Thần chung, Sài Gòn, s.311 (11.2.1930)

MẤY LỜI THỈNH GIÁO LẠI CÙNG SƯ THIỆN CHIẾU

Về sự phê bình Phật học tổng yếu


Tôi đọc cả ba bài đáp lại của Sư thì thấy cái khổ tâm của sư trong sự viết cuốn sách Phật học tổng yếu là dường nào. Sự đó là một vấn đề khác, đợi có dịp tôi sẽ bàn thêm ; đây xin nói về sự dịch sách. Vì tôi nhận cho sự nầy là quan hệ cho cả học giới nước ta về hiện tại và tương lai, chẳng những riêng về Phật học.

Về khoản theo đúng từng chữ của kinh văn, Sư không biểu đồng tình, có viện dẫn nhiều lẽ để cãi lại. Song những lẽ mà Sư đã bày ra đó tôi chưa dám tin là chắc, tôi còn có chỗ biện nạn lại, nên phải thỉnh giáo Sư lần nữa.

Sư nói : Phật học không nê cố văn tự, cốt chỉ để minh tâm kiến tánh mà thôi. Song khi mượn văn tự, cũng như mượn ngón tay để chỉ mặt trăng, mượn cái nơm để bắt con cá. Nói vậy là có ý tỏ ra rằng khi thấy trăng rồi thì không cần dùng ngón tay nữa, khi bắt được cá rồi thì không cần dùng cái nơm nữa, và khi minh tâm kiến tánh rồi, cũng không cần dùng văn tự nữa.

Phải, tôi vẫn biết lẽ đó. Mà tôi nghĩ : Cái lẽ đó gồm suốt cả các thứ học, chẳng luận chi một mình Phật học. Văn tự chẳng qua là cái chìa khóa để mở cái tủ tri thức, khi mở được rồi thì có ai dùng chìa khóa nữa làm chi ? Song trong khi chưa mở được, bạch Sư, phải cần dùng chìa khóa. Mà đã dùng thì chìa khóa phải đúng với ống khóa thì mới mở được.

Tôi học toán kỷ hà(*) là cốt để đo đất. Trong khi tôi học đo, về những cái đường (ligne), cái góc (angle), nghĩa nó thế nào, tôi phải hiểu cho thiệt đúng, thì sau tôi mới đo đất được. Nếu tôi hiểu sai đi thì làm thế nào cho đạt được cái mục đích của tôi ?

Nói một món học kỷ hà, mà món học nào cũng vậy cả. Phật học cũng vậy. Thoát ly văn tự, là sau khi đã thành đạo rồi kia, cũng như khi tôi học kỷ hà đã thành nghề rồi kia ; chớ còn mang cái chữ học, – Phật học – thì làm sao thoát ly được ? Mà đã không thoát ly được thì cần phải cho đúng, cho đâu ra đó.

Tôi thiệt chưa biết đến Phật học – biết được ít nhiều danh từ, tôi không dám gọi là biết, – nhưng tôi biết rằng sách của Phật là nhiều hơn sách của các tông giáo khác. Vả, “Thích-ca Mâu-ni chưa hề viết ra một chữ” thì sao có sách đâu được nhiều như vậy ? Cái lẽ ấy, tôi xin lấy sự tôi biết về các giáo khác mà suy ra.

Như đạo của Khổng Tử, vì tại những người nối theo, cắt nghĩa mỗi người sai lầm một ít, trải đời nọ sang đời kia, càng nhiều người cắt nghĩa thì càng sai, mà càng sai lại càng nhiều người cãi, vì vậy mà sách chất hàng đống. Phật giáo, tôi tưởng, cũng một kiểu ấy. Như tam tạng, trừ luật tạng không nói đến ; còn kinh tạng là lời của Phật, luận tạng là lời của các bồ tát để giải kinh, khốn nhau là tại hai tạng đó. Về kinh, các đệ tử chép chưa chắc đã đúng như lời Phật, do đó mới sanh ra luận, luận lại nhiều gấp mấy kinh. Sở dĩ sách nhiều như vậy là tại mỗi người nói một thế rồi sanh ra biện bác cùng nhau, chớ chẳng có gì lạ hết.

Đó là tôi nói cái đại khái, dầu có chỗ sai, cái đại khái cũng vẫn không ngoài lẽ ấy. Ý tôi muốn nói rằng : giả sử Khổng Tử, Thích-ca nói thế nào, người ta cứ chép thế ấy, cắt nghĩa thế ấy, thì thôi, khỏi có sự lôi thôi cho hậu học.

Lấy nguyên tiếng Phạn mà chép lời Phật còn như vậy đó huống chi mình lấy tiếng An Nam mà dịch ra, lại dịch cách vách bằng sách Tàu, chớ không dịch thẳng tiếng Phạn. Bởi vậy nếu có thêm bớt một chữ nào thì, thưa thiệt cùng Sư, tôi phải cho là quan hệ. Chẳng những quan hệ thôi, tôi còn muốn nói là nguy hiểm.

Tôi xin chủ trương cái thuyết trước của tôi mà lặp lại rằng : Hễ kinh văn nói thế nào thì phải nói theo thế ấy.

Như cậu “Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ”. Sư dịch rằng “Cha làm điều chẳng phải, con không chịu thế được”. Tôi cho chữ “được” đó là dư, sợ sai ý kinh, thì Sư nói không hại chi, và nói rằng nếu bỏ chữ “được” đi thì thành con cháu bất hiếu. Lời của Sư đó tôi lấy làm quan hệ lắm, tôi chưa dám để lọt tai.

Không phải tôi cho Sư nói quấy, nhưng tôi không biết hồi đó Phật có ý nói như Sư hay không ?

Hoặc giả hồi đó Phật lấy cái tư cách “duy ngã độc tôn” mà coi nhứt thiết loài người đều là chúng sanh hết thảy, cốt chỉ giảng minh cái luật nhân quả mà thôi, chớ không kể hiếu hay bất hiếu, từ hay bất từ. Cho nên cứ nói thẳng băng rằng “Cha làm chẳng lành, con chẳng chịu thế, con làm chẳng lành, cha chẳng chịu thế”, mà chẳng thèm nghĩ đến sự “được” hay là “không được”. Nếu ý của Phật hiệp với ý tôi dè chừng đó thì trong câu ấy không có chữ “được” là phải.

Có một điều nữa tôi lấy làm khó nghĩ. Nếu theo ý Sư, trong câu ấy phải có chữ “được”, thì sao trong nguyên văn chữ Hán, lại không nói rằng : “Tử bất năng đại thọ” ? Mà trong văn tự của Tàu, chữ “năng” vốn đã có trước khi kinh Phật truyền sang.

Theo tôi tưởng, có lẽ Sư thâm nhiễm Khổng giáo mà không tự biết. Tức như trong khi Sư đưa hai chữ “bất hiếu” vào đây, là khi cái quan niệm về luân thường của Khổng giáo nó nhắc cho Sư nhớ điều đó. Phật là Phật, Khổng là Khổng, nếu đem cái nầy pha vào cái kia thì mất cái bổn sắc của nó vậy. Bởi vậy, tôi chẳng những cho là điều quan hệ, mà cho là điều nguy hiểm. Tôi thì tôi muốn giống chi cho ra giống nấy.

Trong bài phê bình của tôi, tôi đã nói rằng tôi cho chỗ ấy là trọng hơn hết. Nay Sư lại bác ngay chỗ đó đi, thành tôi phải viết bài nầy thỉnh giáo lại

PHAN KHÔI

Thần chung, Sài Gòn, s.290 (8.1.1930)

(*) kỷ hà : tức là kỷ hà học (geométrie), nay gọi là hình học.


Không làm các điều ác, thường làm các điều lành, giữ thân ý trong sạch, đó là lời Phật dạy.
Nội quy sinh hoạt của diễn đàn: 1. Thân hòa cùng chung ở. 2. Khẩu hòa không tranh cãi. 3. Ý hòa cung hoan hỷ. 4. Giới hòa cùng tu tập. 5. Kiến hòa cùng giải bày. 6. Lợi hòa cùng chia sẻ. Mong mọi người sinh hoạt trong trong tinh thần lục hòa.
- Nhấn F12 để bật hay tắt chương trình gõ tiếng Việt của diễn đàn.
http://daitangkinhvietnam.org | http://tudien.daitangkinhvietnam.org | http://diendan.daitangkinhvietnam.org
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.89 khách