CHƯƠNG V
SỰ KỲ DIỆU CỦA CÂY BỒ ĐỀ LINH THIÊNG
(Trích sách đã dẫn ở trên, trang 115-136)
SỰ KỲ DIỆU CỦA CÂY BỒ ĐỀ LINH THIÊNG
(Trích sách đã dẫn ở trên, trang 115-136)
1. Tại sao chiêm bái cây Bồ Đề?:
Trong kinh Jataka ghi: Khi đức Phật ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, có nhiều người lui tới lễ bái. Khi đức Phật đi hoằng pháp nơi khác, thì tịnh xá trở nên vắng vẻ, ít người đến cúng dường chư Tăng. Cho nên ông Cấp Cô Độc cảm thấy buồn, trình bày cho Ngài A Nan biết rõ việc ấy. Rồi ông tỏ ý muốn xây dựng một cái gì tiêu biểu, để các Phật tử đến chiêm bái khi vắng đức Phật. Ngài A Nan liền đem điều này, trình bạch lên đức Phật. Ngài dạy:
- Có ba hình thức kiến trúc, để tưởng nhớ lâu dài đến giáo pháp một vị Phật. Đó là Bảo Tháp hoặc Đền Thờ, Đài kỷ niệm và Thánh địa:
- (1) Bảo Tháp hay đền thờ, để thờ các di thể kim thân, xá lợi hay tro quý, sau khi lễ trà tỳ kim thân đức Phật.
(2) Đài kỷ niệm để lưu giữ những vật dụng, của đức Phật đã dùng ít nhất một lần như: Bình bát, lá y, hay cội Bồ Đề (nguyên trước gọi là cây Pippala. Khi Ngài đắc quả Vô Thượng Bồ Đề, nên được gọi là cây Bồ Đề)...
(3) Thánh địa nơi đức Phật xuất hiện, hoặc ngự tại đó sinh hoạt, thuyết pháp, nhập Niết bàn v.v...
Lúc đó, Ngài Đại Mục Kiền Liên, hiểu được thâm ý của ông Cấp Cô Độc. Liền dùng thần thông, đến mé rừng Uruvela, thuộc khu Khổ Hạnh Lâm bên dòng sông Ni Liên, chiết một nhánh cây Bồ Đề. Đó là Bồ Đề Đạo Tràng ở nước Magadha (Ma kiệt Đà) thuộc Vương Xá thành của vua Tần Bà Ta La, nơi Bồ Tát Thành Phật. Tức là Đạo Tràng Bồ Đề này, tôi đang đề cập đến. Ngài đem về Tịnh Xá Kỳ Viên thành Xá Vệ, vương quốc của vua Ba Tư Nặc. Ông Cấp Cô Độc vô cùng mừng rỡ trước sự chứng kiến của đức Phật, chư Thánh chúng, với hiện diện của vua Ba Tư Nặc và nhiều người.
Ngài A Nan, muốn tôn trọng thẫm quyền lãnh thổ của vua Ba Tư Nặc. Nên Ngài đón nhánh cây Bồ Đề trên tay Ngài Ma Ha Mục Kiền Liên, đưa cho vua trồng. Nhưng vua Ba Tư Nặc khiêm nhường, liền đưa nhánh cây Bồ Đề cho ông Cấp Cô Độc nói rằng: "Kính bạch đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng. Trẫm chỉ là người đứng đầu trong vương quốc thuộc thế gian. Còn về phương diện đạo, một cư sĩ gương mẫu cao quý nhất, chính là ông Cấp Cô Độc trưởng Giả, thật xứng đáng trồng cây Bồ Đề này".
Cây Bồ Đề được trồng tại cổng chính của Kỳ Viên Tịnh Xá. Lạ thay khi trồng cây Bồ Đề xuống, được tưới bằng sữa thơm, được che mát, cây Bồ Đề liền vụt lớn cao hơn ba thước với những nhánh mới thành bóng mát. Ngay đêm đó, đức Phật đã ngồi Thiền suốt đêm tại cây Bồ Đề này, khiến cây Bồ Đề mau tăng trưởng và trở thành linh thiêng. Cây Bồ Đề này cũng gọi là cây Bồ Đề A Nan, vì Ngài A Nan đứng ra tổ chức, giúp cho các Phật tử khi vắng Phật ở đây, có nơi tưởng nhớ chiêm bái.
2. Quốc Vương Tích Lan xin thỉnh nhánh Bồ Đề:
Vua Mahãvamsa vương quốc Tích Lan, nhớ đến lời vị Trưởng Lão Thánh Tăng Mahinda, nguyên là Thái tử của vua Asoka: "Cần phải thỉnh về nhánh cây Đại Bồ Đề và vị Ni Trưởng Samghamitta, nguyên là công chúa của vua Asoka". Sau khi vua bàn với các vị đại thần, vua cử người cháu trai là quan đại thần tên Mahaari T.Tha, qua Ấn Độ gặp vị Đại vương Asoka, xin thỉnh nhánh cây Bồ Đề đem về. Mahaari T.Tha cầu xin một điều là: "Thần sẽ thỉnh được, nhưng cầu thỉnh bệ hạ, sau khi thần hoàn tất nhiệm vụ, thần xin Bệ hạ cho phép thần xuất gia". Nhà vua liền thuận và cho chuẩn bị ngày khởi hành.
Mahaari T.Tha lên đường vào ngày thứ hai của tháng Assayuja thuộc tháng chín Ấn độ. Với sự nhiệt tâm và nương nhờ thần lực của Trưởng Lão Thánh Tăng, vị này là hoàng tử của vua A Dục, sau khi xuất gia đắc Thánh quả truyền Phật Giáo qua Tích Lan. Mahaari T.Tha vượt đại dương, đến Vương quốc Ấn cùng ngày.
Khi Mahaari T.Tha trình thông điệp của vuaMahãvamsa lên vua Dhammasoka (Thiện Kiến A Dục tức là vua Asoka). Nhà vua rất băn khoăn lo lắng. Vì cây Bồ Đề là biểu tượng thiêng liêng quan trọng. Không ai có thể dùng đao kiếm, làm tổn thương đến cây Bồ Đề. Vị quan Đại thần, là Mahaadeva trình tấu: "Xin Bệ Hạ nên làm lễ cúng dường Chư Tăng, rồi thỉnh thị ý kiến các Ngài".
Hôm sau, nhà vua cúng dường Chư Tăng xong, thỉnh thị ý kiến các vị Trưởng lão: "Có nên gởi một nhánh cây Bồ Đề đến Tích Lan không?". Ngài Trưởng Lão Moggaliputta đáp: "Nên gởi nhánh cây Bồ Đề đến Tích Lan". Vị Trưởng lão kể lại năm đại nguyện của đức Phật:
- (1) Muốn chánh pháp lưu truyền rộng.
(2) Muốn chư Tăng hoằng pháp mọi nơi.
(3) Muốn các thánh vật được truyền bá rộng rãi khắp nhân gian...
(4) Muốn mọi nơi đều có chùa hay tu viện và đầy đủ Tăng Già.
(5) Muốn các tu viện đều có ngày cho Phật tử tu học.
Vua với bốn binh chủng và ngàn vị Trưởng lão Tăng hướng dẫn những chúng Tỳ kheo đến cây Bồ Đề làm lễ. Các loại hoa thơm được rải, các loại nhạc được cử lên cúng dường cây Bồ Đề. Tất cả mọi người đứng vây quanh cây Bồ Đề làm lễ. Nhà vua đưa hai tay lên đầu chắp lại nguyện cầu, bình vàng được đặt trên một ghế cẩn vàng ở phía trước. Nhiệm mầu thay, cành cây Bồ Đề bên hướng Nam, các nhánh lớn nhỏ đều biến mất. Chỉ còn lại một cái lõi đưa ra, với nhánh cây dài bốn gang tay.
Cái ghế được đặt cao đến nhánh cây ấy, nhà vua lấy cây viết vàng vẽ một vòng quanh nhánh đó. Lạy quanh cây Bồ Đề và thuận nhiễu ba vòng. Nhà vua chắp hai tay đưa cao, khấn nguyện điều mong ước, xin nhánh Bồ Đề đó rơi vào bình. Thật là linh thiêng kỳ diệu thay, nhánh cây Bồ Đề ấy tự tách ra rồi lơ lửng trên bình trong một phút. Sau đó tự cắm vào bình đất thơm, rồi đâm xuyên ra ngoài bình mười rễ chính ở dưới và hàng trăm rễ phụ, đan lại như cái lưới. Lúc bấy giờ Chư Tăng, vua quan, mọi người chứng kiến tận mắt sự nhiệm mầu này. Tất cả đều vui mừng đảnh lễ. Ngay lúc ấy đại địa rung chuyển, ánh sáng chói lòa một vùng, nhạc trên không trung do chư Thiên trổi lên cúng dường. Cây Bồ Đề đưọc thỉnh về Tích Lan, Cử hành lễ thật long trọng, trong sự hân hoan của mọi người. Rồi trồng tại Thủ đô Anuradhapuru Tích Lan lúc bấy giờ. Hiện tại cây vẫn còn tươi tốt, hùng vĩ, vững vàng ở trong thành phố cựu Thủ Đô này.
Cây Bồ Đề tại Tháp Đại Giác hiện nay, được chiết từ cành cây hướng Bắc của cây Bồ Đề nguyên thủy này.
3. Lịch sử cây Bồ Đề tại Bảo Tháp bị hủy diệt:
Cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, bị phá hủy chặt đốt đầu tiên là do vua Asoka. Vì ông là người Ấn Giáo, rất ghét Phật Giáo.
- (1) Sơ lược về cuộc đời Đại Vương Asoka:
Lúc vua Asoka lên trị vì, người ta gọi là Ác vương. Khi vua cha là Bindusara băng hà, ông là Phó vương vùng Tây Bắc Ấn, đem quân về giết sạch 99 người em khác mẹ. Chỉ chừa người em cùng mẹ là Tissa, rồi lên ngôi vua trước TL. 329 năm (sau đức Phật nhập Niết Bàn hơn 200 năm). Vì các quan không phục và dân chúng oán ghét, cho nên mãi sáu năm sau ông mới làm lễ đăng quang. Kinh đô lúc bấy giờ là Pâtaliputrâ (Thành đô Hoa Thị). Khi lên ngôi ông rất háo chiến và hay sát hại người, Cho nên bấy giờ dân gọi ông là Ác vương. Ông đem quân đánh chiếm nhiều nước như Ganja, Thàna, Pùri, Mysore, Hyderabad, Bhopal, Bihar, Nepal, Afghanistan, Kasmir... Đến khi đánh chiếm đến xứ Kalinga, bây giờ là tiểu bang Orissa. Chỉ trong cuộc chiến này, hàng trăm ngàn người bị giết. 150,000 người bị bắt làm tù binh khổ sai. Cảnh thê lương tang tóc tràn lan khắp nơi, con mất cha, vợ mất chồng, dân chúng khóc gào chấn động đến tim gan ông. Khi ngựa ông bước xuống dòng suối, thấy nước đầy máu đỏ tanh hôi và thây người còn hôi thối ngổn ngang. Ông ân hận thề không làm đổ máu ai nữa. Ông ghê tởm chiến tranh, ông ghê tởm chinh phục bằng gươm giáo. Vì bánh xe ông đi, đã tắm máu đào trên chục vạn xác chết vô tội!
Ông là người theo Ấn Giáo, hay nghe lời các Giáo sĩ Bà la môn, khi cúng tế giết hại loài vật rất nhiều, để cúng tế thần linh. Trải qua thời gian sau, gặp được một vị Thánh Tăng Samudda. Nguyên vua Asoka còn là Ác vương, có cho làm cảnh Địa ngục Bồng Lai để gạt người vào đó, bắt hành hình như cảnh địa ngục. Thầy Sa Di Samudda mới tu, không biết đó là cảnh địa ngục trần gian. Nhân đi ngang qua cảnh Địa ngục Bồng Lai, thấy cảnh đẹp như cõi Tiên, có hoa, có cây bóng mát. Vì mệt mỏi, Thầy dừng chân, ngồi trên băng đá cạnh gốc cây nghỉ mệt. Bọn ngục tốt liền chạy ra bắt thầy, đem vào địa ngục trần gian để hành hình. Thầy liền xin trưởng ngục cho Thầy trở ra, vì Thầy không biết. Nhưng hắn nói: "Ai đã vào đây thì không trở ra được, chỉ có con đường duy nhất là chết bằng nhiều cách như cối xay, cối giả, chảo dầu sôi, cưa cắt dọc thân, ôm cột đồng nung đỏ v..v..." Thầy Samuddha liền khẩn khoản: "Thưa quan Giám ngục, tôi tu hành chưa bao lâu còn nhiều kém cõi. Phật dạy thân người vốn quý, nếu mất khó phục hồi lại được. Cho nên, tôi xin quan Giám ngục cho tôi được hoãn lại bảy ngày nữa, để tôi tu hành thêm rồi hành hình cũng không muộn". Giám ngục Ginka nghe xong bằng lòng. Cảnh chết đang chờ, Thầy quyết tâm thiền quán và nhập định, đắc được đạo quả A la Hán.
Đến ngày thứ tám, Giám ngục kêu ngục tốt bỏ Thầy Sa Di Samudda vào chảo dầu, rồi nổi lửa lên đốt. Nhưng chảo dầu không sôi mà vẫn thấy Thầy ngồi Thiền với dung sắc tươi tốt và hoan hỷ. Hay được tin lạ chưa từng có, vua Asoka bước vào ngục tốt để xem hư thực. Bổng Thầy Samudda bay bổng ngồi trên không trung. Vua kinh hãi nghĩ rằng: "Thầy Tỳ kheo này cũng thân xác như ta, sao lại có phép mầu như thế?" Vua Asoka liền yêu cầu Thầy giải thích rõ những phép mầu này. Ngài thuyết cho vua Asoka nghe một thời pháp, làm chấn động tinh thần vua, đi sâu vào tâm thức vua. Vua bừng tỉnh hồi đầu phục thiện và quy y Tam Bảo. Thầy kể về tiền thân vua lúc hơn 200 năm trước, đức Phật đã ấn ký cho vua, và cho biết vua sẽ dựng 84,000 Bảo Tháp thờ Xá Lợi Phật, hỗ trợ công việc hoằng dương Chánh Pháp. Rồi khuyên vua nên bỏ ác làm các việc lành, để tạo nhiều công đức cõi Thiên cung. Khi nghe rõ như vậy, Asoka thành tâm sám hối và nguyện trọn đời quy y Tam Bảo, phụng sự đạo pháp và phụng sự toàn dân trong vương quốc. Từ đó về sau vua trở thành một Phật tử nhiệt tâm và thuần thành. Lúc đó dân chúng gọi vua là Thánh vương Asoka.
- (2) Tiền thân vua Asoka:
Lúc đang đi, đức Phật và tôn giả A Nan, thấy cạnh bên đường có hai cậu bé tên là Jaya dòng dõi quý phái, và một cậu tên Vijaya gia đình trung lưu. Hai cậu bé đang chăm chú làm một đô thị bằng đất, đầy đủ nhà lầu, cung điện, kho tàng và thành phố dân cư. Jaya ngẩng đầu lên, thấy đức Phật đang dẫn chúng tỳ kheo đi đến. Java liền lấy một cái thành bằng đất ấy, cung kính quỳ xuống dâng lên cúng dường đức Phật. rồi dùng kệ tán thán công đức Phật:
- Môt vầng hào quang vàng rực rỡ
Bao phủ kim thân Đức Từ Bi vô lượng
Tự Ngài ngộ đạo không Thầy chỉ dạy
Con xin đem hết lòng thành kính
Dâng thành vua này lên đức Như Lai
Bậc Tối Thượng cha lành của Trời và người.
- (3) Cây Bồ Đề bị vua Asoka hủy diệt lần thứ nhất:
- (4) Cây Bồ Đề bị hủy diệt lần thứ hai:
- (5). Cây Bồ Đề Bị hủy diệt lần thứ ba:
May thay, khoảng hai tháng sau. Vua Purnavarana của Ma Kiệt Đà, vị vua cuối cùng dòng A Dục nghe tin cây Bồ Đề bị hủy diệt. Ông đau khổ vật mình xuống đất, cất tiếng thê thảm than rằng: "Mặt trời trí tuệ đã lặn từ lâu, thế gian không còn gì ngoài cây Bồ đề, đang làm bóng mát che chở nhân gian, làm tiêu tan phiền não. Nay cũng bị người hủy diệt, thì còn năng lực nào cung cấp nguồn sống tâm linh cho thế nhân". Nhà vua đã dùng sữa của hàng ngàn con bò khỏe tốt, thành tâm cầu nguyện tưới vào gốc cây dưới lớp tro tàn. Sự mầu nhiệm, cảm thông được nỗi đau thương của người con Phật. Nên chỉ qua một đêm, cây Bồ Đề sống lại và mọc cao hơn 10 feet. Nhằm bảo vệ cây Bồ Đề kỳ diệu, vua cho xây bức tường bao bọc chung quanh cây, cao 24 feet.
Bấy giờ có một người Bà la môn, chỉ tin tưởng vào thần linh Shiva. Ông nghe thần Shiva hay hiện ra trên Tuyết sơn, ông rủ người em cùng lên Tuyết sơn cầu nguyện. Vua Trời Đế Thích Vasava hiện ra nói:"Những người cầu nguyện muốn kết quả, phải tạo công đức lớn. Nếu ngươi mong cầu mà không tạo công đức, thì ta không thỏa mãn lời cầu nguyện của ngươi".
Người Bà la môn hỏi:
- Con phải làm công đức nào, để Ngài đáp ứng lời cầu nguyện của con?
- Người phải thành tâm làm công đức lớn, hãy đến cây Bồ Đề, nơi Bồ Tát thành tựu Phật quả, Ngài là Đấng Từ Phụ của Tam giới. Ngươi lập tức về xây một Tu Viện gần cội Bồ Đề, xây một hồ nước lớn, cúng dường mọi thứ cho các Tăng sĩ ở tu. Lúc đó, ta sẽ cho ngươi thỏa mãn các lời cầu nguyện.
Người Bà la môn về làm y theo lời dạy, rồi được toại nguyện và hay đến đây cúng dường tu viện ở đây.
- (6) Cây Bồ Đề bị huỷ diệt lần thứ tư:
Nhưng cây Bồ Đề vẫn mọc lại thời gian sau. Đến thế kỷ thứ bảy vua Adittiya Sena lên ngôi, Ngài Huyền Trang đến đây chiêm bái ghi: "Tôi đã đến chiêm bái Thánh Địa Bồ Đề Đạo Tràng nhiều lần. Cây Bồ Đề vẫn tươi xanh bền bĩ, trước những sóng gió biến thiên của nhiều triều đại và thiên tai".
- (7) Bị hủy diệt lần thứ năm:
- (8) Thiên tai phá hủy lần thứ sáu:
- (9) Cây Bồ Đề bị hủy diệt lần thứ bảy:
Đến khi Đại Tăng Anagarika Dhammapada, người thành lập Hội Maha Bodhi trên thế giới. Đến viếng Bồ Đề Đạo Tràng năm 1891 thấy cảnh điêu tàn, Ngài phát nguyện phục hồi. Sau đó ba nhánh Bồ Đề, được chiết từ cây Bồ Đề Tích Lan, ở cựu Thủ Đô Anuradhapura đem qua Ấn Độ. Một trồng ở Lumbini bên kia hồ nước, một trồng nơi Phật chuyển Pháp Luân ở Lộc Uyển trước chùa Miến Điện, một trồng tại Bồ Đề Đạo Tràng. Nguyên cây Bồ Đề này, được vua A Dục chiết từ cây Bồ Đề Mẹ ở Bồ Đề Đạo Tràng ngày xưa. Sai công chúa là Tỳ kheo Ni Sanghamitta, đem qua Tích Lan tặng. Cây Bồ Đề sum sê vĩ đại cho mãi đến nay.
Còn cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng bây giờ khoảng hơn 50 tuổi, cũng chiết từ cây Bồ Đề Tích Lan. Cùng da, cùng máu thịt, cùng gốc, trở lại gốc cũ nền xưa.
Cây Bồ Đề hiện nay, ngoài hàng rào tường cao, bao khuôn viên rộng lớn toàn khu. Còn có hàng rào bằng đá vuông bao bọc chung quanh Đại Tháp với cây Bồ Đề. Ngoài ra, cây Bồ đề với Tòa Kim Cang, còn được bảo vệ bởi hàng rào bằng đá bao quanh với khung cửa sắt. Hàng rào này, các Phật tử bên Nguyên Thủy hay lấy vàng lá phết vào cúng dường cây Bồ Đề. Dưới gốc cây Bồ Đề luôn có hoa phủ, do các đoàn Phật giáo đến cúng dường. Muốn vào trong hàng rào, phải hỏi vị Trụ Trì Ban Điều Hành bảo vệ Tháp. Hoặc chờ đến lúc 7 giờ tối, có mở cửa rào. Nên theo vị Thầy Trưởng đoàn vào lễ bái. Còn ban ngày bình thường, thì chỉ lễ bái bên ngoài rào của cây Bồ Đề.
(Trang 135)
Cây Bồ Đề về đêm với hàng rào được dán vàng lá.