Cao tăng dị truyện.

Truyện sưu tầm và sáng tác - truyện của ngày ấy, mỗi cuộc đời là một trường thiên tiểu thuyết. Kính mời các bạn hãy ghi lại những cảm nghĩ, dòng tư tưởng của mình.
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

65. TUYỀN ÐẠI ÐẠO:

Cốc Tuyền, người Tuyền Nam, lúc nhỏ rất thông minh, nhưng ăn ở nhơ bẩn, nói năng lớn lối, thiếu khiêm nhường, không ai ưa. Ông bỏ nhà làm Sa môn, mà không giữ giới luật, làm theo ý mình, tăng chúng gai mắt nên hễ Sư vào tòng lâm là bị đuổi đi, Sư cũng chẳng bận tâm. Sư đến Phần Dương, ngài Thiện Chiêu lấy làm lạ, ngầm thọ ký. Sư lại trở về Nam, sống phóng lãng, qua lại đôi lần trong vùng Hồ Tương, đến Ðạo Ngô gặp Từ Minh. Ở Ðạo Ngô có ao, độc long ẩn dưới đó. Dù chỉ lá rụng thôi, sóng cũng dấy động, rồi mưa giông sấm sét suốt ngày. Ði qua ao này không ai dám thở. Buổi chiều, Sư cùng Từ Minh trở về. Trời thu nóng bức, Sư nắm áo Từ Minh rủ:

- Dám tắm không ?

Từ Minh giựt tay áo lại bỏ đi thẳng. Sư cởi áo nhảy xuống ao, sấm sét nổi dậy, gió tanh thổi đến, mưa như trút nước, cây cối ngã rạp. Từ Minh ngồi trong đám cỏ, nghĩ bụng Cốc Tuyền chắc chết. Lát sau mưa tạnh chợt thấy Sư trồi đầu lên thở khì.

Sau Sư trụ Nam Nhạc, hang Lại Toản. Rồi dời về am Ba Tiêu, rồi đến am Bảo Chân. Sư đề thơ trên vách Ba Tiêu rằng:

Am Ba Tiêu ta đây
Ẩn sau lớp lớp mây
Cảnh lạ quanh co chưa rảnh đếm
Trước thấy từng nhỏ ba bốn cây
Lạnh đến đốt sam khô
Ðói ăn củ khoai bự
Nay mà bỏ nó đi
Không biết ai đến ở?
(Dư thử Ba Tiêu am
U chiếm đôi vãn xứ
Bàn bàn dị cảnh vị hạ sổ
Tiên khán ải tùng tam tứ thọ
Hàn lai thiêu khô sam
Ngạ san đại tử dụ
Nhị kim khí chi khứ
Bất truy lai trụ).

Sư trụ Bảo Chân, đêm ngồi dưới ngọn Chúc Dung, bị một con trăn lớn quấn quanh mình. Sư lấy dây lưng cột ngang mình nó. Sáng ra chống gậy đi tìm, thấy dây lưng treo trên ngọn tùng, té ra tùng thành yêu. Sư thường đến huyện Hành Sơn, thấy hàng thịt đang xẻ thịt, liền đứng cạnh, điệu bộ thiểu não, chỉ thịt rồi chỉ vào miệng mình. Ðồ tể hỏi:

- Ông câm hả ?

Sư gật đầu. Ðồ tể tội nghiệp cắt một miếng thịt bỏ vào bát Sư. Sư vui vẻ đi ra, rồi ngoái vào cảm ơn. Cả chợ đều cười ồ lên, Sư vẫn thản nhiên, treo bầu rượu lớn đầu gậy vào núi. Gặp người hỏi trong bầu có gì ? Sư trả lời:

- Tương đại đạo.

Rồi làm kệ:

Ta lại quản gì trời của anh,
Quản gì đất của anh,
Khoác cái áo giấy rách,
Cứ việc nằm ngủ khò.
Mặc kệ mặt trời lên phương Ðông,
Mặt trăng lặn phương Tây,
Vinh nhục ăn thua gì đến ta.
Hưng vong chẳng dính dáng
Một cây trụ trượng,
Một bầu hồ lô.
Chạy hết núi Nam qua núi Bắc
Nuôi một đầy tớ tên Ðiều Cổ (con trâu thuần)
Ta sai lượm củi, múc nước suối,
Hoặc gọi ngồi cùng trong núi đá.

Tặng hắn bài kệ rằng:

Ta có sơn đồng tên Ðiều Cổ,
Không tụng kinh, chẳng lễ Tổ.
Biết đốn cây ngừa đông lạnh
Áo quần tùy phận rách chẳng vá.
Biết trồng rau, hay cắm khoai
Ngàn núi muôn núi đi chẳng sợ
A ha ha!! Có chỗ yên ổn nào hơn nữa?
(Ngã hựu thùy quản nễ thiên
Thùy quản nễ địa,
Trước cá phá chỉ áo
Nhất vị công đả thùy
Nhất nhâm kim ô đông thượng
Ngọc thố tây đọa,
Vinh nhục hà dự ngã
Hưng vong bất tương quan
Nhất điều trụ trượng,
Nhất hồ lô gian
Tẩu nam Sơn dữ Bắc Sơn
Súc nhất nô danh Ðiều Cổ
Tự linh thập tân cấp giản
Hoặc hô đối tọa nham thạch gian

Tặng chi dĩ kệ viết:

Ngã hữu sơn đồng danh Ðiều Cổ
Bất tụng kinh, bất lễ Tổ
Giải bàn cốt đốt ngữ đông hàn
Tuỳ phận y thường phá bất bổ
Hội tài sơ, năng chủng dụ
Thiên sơn vạn sơn khứ vô cụ
A ha ha!
Hữu thậm thảo xứ ỷ?)

Có thượng tọa đến tham vấn hỏi:

- Am chủ ở đâu ?

Sư hỏi:

- Ai đó ?

Ðáp:

- Tăng hành khước.

Hỏi:

- Ðến làm gì ?

- Lễ bái am chủ.

- Vừa lúc am chủ không có nhà.

- Chính là Ngài mà!

Sư bảo:

- Ðã nói không có nhà mà còn nói cái gì là ngài với ngày...

Rồi vác gậy đuổi ra. Ngày kế ông lại đến, cũng bị đuổi ra. Một hôm lại đến, Sư nắm đứng lại hỏi:

- Chỗ ta ở đây, đầy phẩn tiểu của cọp beo qua lại. Con quỷ này ba lần đến, hai lần đi, ông muốn gì?

Tăng thưa:

- Người ta bảo am chủ từng thân gặp Phần Dương, nên tôi đến tìm.

Sư hớn hở cởi áo nói:

- Ông bảo ta đã gặp Phần Dương, xem có gì kỳ đặc không ?

Sau Sư gặp Từ Minh, làm kệ rằng:

Xa nhau đã nửa năm,
Biết còn ai chuyện thiền với tôi!
Tương Sơn một dãy vời
Ông nuôi đồ chúng, tôi vùi giấc say.
(Tương biệt nhi kim hựu bán niên
Bất tri thủy cộng đối dàm thiền!
Nhất ban tú sắc Tương Sơn lý
Nhữ tự khuông đồ, ngã tự miên).

Tự Minh cười mà thôi, rồi sai Nam Công (Huệ Nam) lại gặp Sư. Hai bên trò chuyện, Nam Công kinh hãi nói:

- Khắp trong năm châu mới có được đạo nhân méo này chăng?

Khoảng niên hiệu Gia Hựu, Sư vì người sàm báng nên đang ở Kinh Do, Thanh Tằng bị bắt giam vào ngục ở Xâm Châu. Trời nóng nực, Sư phải gánh đất, qua ngã tư đường. Sư buông gánh xuống nói:

Sáng nay 6 tháng 6
Cốc Tuyền bị bỏ cuộc
Không phải lên thiên đường
Ắt là xuống địa ngục.
(Kim triêu lục nguyệt lục
Cốc Tuyền bị chí khúc
Bất thị thướng thiên đường
Tiện thị nhập địa ngục).

Nói xong cười nhẹ, thản nhiên thoát xác. Trà tỳ xá lợi đếm không nổi. Người đất Xâm dựng khám thờ. Sư thọ 94 tuổi.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

66. ÐỒ ÐỘC SÁCH:

Sư tên Trí Sách, họ Trần ở Thiên Thai, tự hiệu là Ðồ Ðộc Nham Chủ. Sư thông minh đỉnh ngộ khác thường, phong cách cao vời, có chí xuất trần. Năm mười sáu tuổi, Sư cạo tóc, học tập kinh luật, thông suốt nghĩa lý hơn hẳn mọi người. Năm mười chín tuổi, Sư đến chùa Quốc Thanh, yết kiến ngài Tịch Thất Quang, hốt nhiên được tỉnh ngộ. Ngài Tịch Thất hứa khả cho Sư và nói với các Trưởng lão trong tòng lâm rằng không ai vượt qua nổi Sư. Ngài Vô Thị ở chùa Dục Vương, ngài Ðại Viên ở chùa Vạn Thọ là những bậc danh đức một thời đều kính phục Sư. Ðại Viên nói:

- Thượng nhơn Trí Sách là người "không dũa gọt mà đẹp, không cần đỡ mà thẳng".

Khi Sư từ giã, Ðại Viên đưa ra cửa, vỗ lưng Sư nói:

- Bảo sở gần đây, thành này chẳng thực.

Sư gật đầu. Sư đến Dự Chương yết kiến ngài Ðiển Ngưu, Vân Cư ở Dạo Do, đường bị tuyết lấp dầy, Sư phải ở lại bốn mươi hai ngày. Một hôm nghe tiếng bảng trưa. Sư thoát nhiên đại ngộ. Ngài Ðiển Ngưu ấn khả rằng:

- Ông thật xuất cách, siêu vượt Phật Tổ, ngày sau dựng lập tông môn, chỉ cần một con lân như thế là đủ rồi. Sư Chơn Tịnh nếu còn, thấy ông cũng bái phục.

Ðiển Ngưu cơ biện cao vút, chẳng ai chạm nổi mũi nhọn này. Sư cùng Ngài bình luận kim cổ như gió cuốn suối tuôn, người nghe hết lòng khâm phục.

Sư từ biệt Ðiển Ngưu, cất am ở phía Tây sông Hoài. Khi ngài Ðại Viên dời về Ðại Khê, Sư được mời làm Ðệ nhất tòa. Sư hay đến phương trượng thăm hỏi, có hôm thấy Ðại Viên buồn bã gục đầu chẳng nói, Sư hỏi:

- Sao Thầy buồn vậy ?

Ðại Viên nói:

- Chúng tuy đông đảo như hội Tuyết Phong, Quy Sơn mà toàn là những người nói chuyện trời đất, thành ra không có người kế thế. Ý ông thế nào?

Sư thưa:

- Tham học chỉ sợ không có gốc. Nếu có gốc rồi thì thuyết pháp cho tượng đất cũng bằng các bậc cao sơn khắp nơi.

Ðại Viên than:

- Con ta tri thức hơn người. Vị rượu ngon, canh ngọt không phải hạng tầm thường biết được.

Sư quay về phương Ðông, phân tòa ở chùa Quốc Thanh. Ngài Thử Am Nguyên Phương ở chùa Hộ Quốc nói với Sư rằng:

- Ông trở về đây như ngọn Tam Sơn (ba ngọn núi) to lớn, hay như ngọn hải triều.

Sư xuất thế ở chùa Phổ Trạch tại Hoàng Nham, vì ngài Ðiển Ngưu mà thắp hương. Sau trải qua các nơi như Thái Bình ở Thai Châu, Tường Phủ ở Cát Châu, Ðẳng Từ ở Việt Châu và Ðại Năng Nhơn, Sư đến chỗ nào đạo pháp chỗ ấy hưng thạnh. Cuối cùng Sư trở về Hộ Quốc Hoa Tạng, đến ở Kính Sơn. Tuy đã già, Sư vẫn cố gắng hành Tổ đạo, chúng đông hơn ngàn người. Sắp tịch, Sư gọi môn nhơn đến dặn dò hậu sự, rồi nói:

- Các ông làm văn tế cho ta nghe!

Sư sửa áo ngồi nghe, đến chỗ "Thượng hưởng". Sư trợn mắt cười. Qua hai ngày sau, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi, sáu mươi tuổi hạ. Môn nhân xây tháp thờ toàn thân Sư ở chân núi Ðông Võng. Sư tánh tình ngay thẳng, cư xử nói nín nghiêm túc như thế, đặc biệt không thích giao du phù phiếm, kính mộ người lành, bằng không thì dù thân thích cũng tuyệt nhiên không tiếp xúc. Sư thuyết pháp độ người, quang minh lỗi lạc nổi tiếng một thời. Người ngưỡng vọng Sư mà hướng về như mây ùn, sóng bủa. Họ mong được gần gũi, nói cười một lần với Sư, cũng lấy làm hân hạnh.

Thực là bến bờ trong đời mạt pháp, rất hiếm hoi vậy!


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

67. THÁI ÚY LỮ HUỆ KHANH Thời NGŨ TỔ PHÁP DIỄN:

Thường quán pháp giới Hoa Nghiêm. Nhân ngày rảnh rỗi, dạo núi Ngũ Ðài. Chợt mây mù bốn phía nổi lên, gió giông, sấm chớp, tiếng mưa chấn động núi rừng. Khanh khiếp sợ. Giây lát, trời mưa hơi ngớt, thấy một Ðồng tử áo vá, trùm tóc mà đến, tay cầm kinh đến hỏi:

- Quan nhân tìm gì ở đây?

- Mong gặp Ðại sĩ.

- Muốn gặp làm gì?

- Thường xem kinh Hoa Nghiêm, ý chỉ rất sâu rộng. Tôi muốn mong Ðại sĩ giảng dạy diệu giải. Ngõ hầu kinh điển được lưu hành, người có đại tâm được khai ngộ.

- Diệu ý của chư Phật rất giản dị minh bạch. Bậc Tiên Ðức chú giải có thể hiểu, như một phẩm Thập Ðịa, văn giải thích chẳng quá vài trang giấy. Ngày nay người ta chú giải loạn xạ gần trăm quyển, càng cách xa ý Thánh. Thật có thể nói phá nát đại đạo.

- Ðồng tử mặt mũi như thế mà dám quở trách tiền bối sao?

Ðồng tử cười nói:

- Quan nhân lầm rồi. Ở đây một ngọn cây, một cọng cỏ đều là cảnh giới Văn Thù. Ngay chỗ xúc sự hàng ngày của ông không bị mê mờ, đó thật là Văn Thù.

Khanh liền xuống lễ bái, vừa đứng dậy. Ðồng tử hiện thân Ðại sĩ, cưỡi sư tử ẩn hiện trong mây mà tan.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

68. NAM AN VÂN PHONG tự VIÊN:

Ðạo Viên, người Nam Hùng, tánh tình thuần hậu. Thuở trẻ Sư đi du phương, tuy tham vấn nhiều nơi mà vẫn chưa thấu triệt. Sau Sư nghe danh Thiền sư Nam ở am Tích Thúy núi Hoàng Bá đến nương.

Một hôm, Sư đang ngồi yên dưới bảng, nghe hai ông tăng đưa ra nhân duyên Bách Trượng Dã Hồ.

Một tăng nói:

- Chỉ như "không mờ nhân quả" cũng chưa thoát khỏi thân dã hồ.

Tăng kia lên tiếng:

- Thế thì "Chẳng rơi nhân quả" cũng từng đọa vào thân dã hồ sao ?

Ðạo Viên sợ hãi, lạ lùng, bất giác đứng dậy khỏi am. Sư đi qua khe suối hốt nhiên đại ngộ. Gặp Nam Công, Sư trình bày mọi sự, nói chưa xong lệ đã tràn đầy má. Nam Công bảo hầu bên giường, Sư vùi xuống ngủ, thức dậy làm kệ:

Chẳng rơi, chẳng mờ
Chẳng tục vốn không úy kỵ
Trượng phu chí khí như vua
Ðâu chịu túi che, mền đậy.
Một cây lang lật mặc tung hoành
Chó rừng nhảy vào bầy sư tử.
(Bất lạc, bất muội
Tăng tục bốn vô kỵ húy
Trượng phu khí trụ như vương
Tranh thọ nang tàng bị cái
Nhất điều làng lật nhậm tung hoành.
Dã hồ khiêu nhập kim mao đội).

Nam Công cười to. Về sau, Sư lại làm bài kệ "gió, phướn" như sau:

Chẳng phải gió hề chẳng phải phướn
Mây trắng như xưa che núi xanh
Năm đến lão già đà hết sức
Trong lúc lăng xăng trộm chút nhàn.
(Bất thị phong hề bất thị phan,
Bạch vân y cựu phú thanh san
Niên lai lão đại hồn vô lực
Thu đắc mang trung ta tử nhàn).

Lão nhân Vân Am thường sớ giải hai bài kệ này, hết lời khen ngợi, bảo rằng cơ phong của Sư không kém ngài Anh Thiệu Vũ. Sau Sư xuất thế ở chùa Ðại Dữu Vân phong. Không biết cuối đời Sư ra sao.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

69. THƯỢNG TỌA THÁI NGUYÊN:

Thượng tọa Thái Nguyên Phù, lúc đầu ở chùa Quang Hiếu Dương Châu. Sư giảng kinh Niết Bàn, hôm ấy có Thiền giả bị tuyết cản trở phải ở lại vùng này, nhân vậy đến nghe Sư giảng, đến chỗ "Tam nhân Phật tánh, tam đức Pháp thân". Sư bàn rộng về diệu lý Pháp thân. Vị thiền giả phá ra cười. Sư giảng xong, mời Thiền giả uống trà và thưa:

- Tôi vốn chí hẹp hòi, cứ y văn mà giải nghĩa. May nhờ Ngài thấy được mà cười. Mong Ngài chỉ dạy.

Thiền giả nói:

- Sự thật tôi cười vì tọa chủ không biết Pháp thân.

Sư thưa:

- Tôi hiểu như thế có chỗ nào không đúng ?

Thiền giả nói:

- Mời Tọa chủ nói lại một lượt đi!

Sư bảo:

- Lý Pháp thân như bầu thái hư, dọc suốt ba đời, ngang trùm mười phương, cuốn gọn tám cực, bao quát âm dương, tùy duyên cơ cảm, không đâu chẳng khắp.

Thiền chủ nói:

- Không phải tôi bảo Thầy nói không đúng. Nhưng đó chỉ nói được bên cạnh Pháp thân, chứ thực chưa hề biết Pháp thân.

Sư nói:

- Ðã thế, xin Thiền đức cho tôi được nghe.

- Nhưng liệu Tọa chủ có chịu tin chăng ?

- Tôi đâu dám chẳng tin.

Thiền giả nói:

- Tọa chủ thử ngưng giảng một tuần, đóng cửa ngồi yên, thu nhiếp tâm niệm, các duyên thiện ác một lúc buông hết.

Sư theo lời khuyên, từ đầu hôm đến canh năm, nghe tiếng đánh trống, hốt nhiên khế ngộ. Sư liền đến gõ cửa Thiền giả. Thiền giả hỏi:

- Ai đó ?

Sư thưa:

- Tôi đây!

Thiền giả quát:

- Tôi bảo ông chuyên trì đại giáo, thay Phật thuyết pháp, sao giờ giữa đêm lại nằm say sưa giữa đường vậy ?

Sư thưa:

- Thiền đức! Từ trước đến giờ, tôi giảng kinh đều lấy lỗ mũi của cha mẹ sanh ra. Từ nay về sau, tôi trọn không dám thế nữa.

Thiền giả nói:

- Ông đi đi! Bữa khác gặp!

Sư bèn bãi giảng, đi khắp các nơi, danh vang khắp chốn. Sư dạo khắp vùng Chiết Giang, lên pháp hội Kính Sơn. Một hôm Sư đến trước đại Phật điện. Có tăng hỏi:

- Thượng toạ đã từng đến Ngũ Ðài chưa ?

- Rồi.

- Có thấy Ngài Văn Thù chăng?

- Thấy.

- Thấy Ngài ở đâu ?

- Thấy trước điện Phật ở Kính Sơn.

Vị tăng này sau đến Mân Châu, kể lại cho Tuyết Phong, Tuyết Phong nói:

- Sao chẳng bảo ông ta lại đây!

Sư nghe được liền đến. Vừa đến chân núi, Sư dừng nghỉ ở nhà nghỉ (giải viện), lấy cam chia cho mọi người. Trường Khánh hỏi:

- Ðem từ đâu đến?

Sư đáp:

- Từ ngoài núi.

- Lặn lội xa xôi, gánh được đến đây không phải dễ.

Sư kêu lên:

- Cam, cam!

Ngày hôm sau Sư lên núi, Tuyết Phong hay tin bèn nhóm chúng. Sư lên pháp đường quay nhìn Tuyết Phong, rồi nhìn xuống tri sự. Ngày mai mới lên lễ bái, thưa:

- Hôm qua con xúc phạm Hòa thượng.

Ngài Tuyết Phong nói:

- Biết là việc quanh co thì thôi.

Một hôm, Tuyết Phong thấy Sư liền chỉ mặt trời, Sư phất tay mà đi. Tuyết Phong nói:

- Ông không chấp nhận ta sao?

Sư nói:

- Hòa thượng lắc đầu, con vẫy đuôi. Có chỗ nào con không chấp nhận đâu ?

Tuyết Phong nói:

- Rốt ráo cũng không kiêng tránh.

Một hôm chúng tăng vãn tham, Tuyết Phong nằm ngủ trong phòng. Sư bảo:

- Trong khắp năm châu, may có lão Hòa thượng này đáng nể chút ít.

Tuyết Phong liền ngồi dậy đi ra. Ngài thường hỏi Sư:

- Nghe nói Lâm Tế có ba câu phải không?

- Dạ phải.

- Câu thứ nhất ra sao?

Sư đưa mắt nhìn Ngài. Tuyết Phong nói:

- Ðây vẫn còn là câu thứ hai. Thế nào là câu thứ nhất?

Sư xoa tay mà lui ra.

Từ đó, Tuyết Phong biết Sư là bậc đại pháp khí, vào thất ấn giải cho Sư. Sư nhờ đó khế hợp với đạo, bèn ở lại đây, trông coi nhà tắm.

Một hôm Huyền Sa lên thăm Tuyết Phong. Tuyết Phong nói:

- Ở đây có một con chuột già, đang ở trong nhà tắm.

Huyền Sa nói:

- Ðợi tôi khám nghiệm cho Hòa thượng!

Nói xong, Ngài đi xuống nhà tắm, gặp Sư đang xách nước, Huyền Sa nói:

- A! Gặp được Thượng tọa đây!

Sư nói:

- Ðã gặp nhau rồi.

Huyền Sa nói:

- Gặp nhau ở kiếp nào?

Sư nói:

- Nói mớ làm chi?

Huyền Sa bỏ về phương trượng, trình lại Tuyết Phong, nói:

- Tôi đã khám phá xong.

Tuyết Phong hỏi:

- Khám phá ra sao?

Huyền Sa kể lại, Tuyết Phong bảo:

- Ông thua rồi!

Cổ Sơn hỏi Sư:

- Lúc cha mẹ sanh, cái lỗ mũi ở chỗ nào?

Sư bảo:

- Lão huynh nói trước đi!

Cổ Sơn nói:

- Như đời nay vậy. Còn ông nói sao?

Sư không chấp nhận. Cổ Sơn hỏi:

- Chứ làm sao?

Sư bảo:

- Ðưa giùm cái quạt lại đây!

Cổ Sơn đưa quạt rồi hỏi lại. Sư phe phẩy quạt không đáp. Cổ Sơn mờ mịt, đấm Sư một đấm. Sau Cổ Sơn nhận lời mời của vua về kinh. Tuyết Phong đưa ra cửa, cùng đến pháp đường mới nói:

- Một mũi tên Thánh sắp bắn thẳng vào thành vua!

Sư nói:

- Ông ta chưa được đâu!

Tuyết Phong nói:

- Ông ta thấu triệt rồi.

Sư nói:

- Không tin, để tôi đi khám nghiệm cho.

Rồi đuổi theo đến giữa đường, hỏi:

- Sư huynh đi đâu vậy?

- Vào thành vua.

- Lỡ khi gặp ba quân vây hãm thì sao?

- Tự có con đường thông khác.

- Vậy là đã bỏ cung mất điện rồi.

Cổ Sơn nói:

- Có chỗ nào mà không tôn quý?

Sư bèn phất áo trở về. Tuyết Phong hỏi thăm. Sư nói:

- Mũi tên ấy bị bẻ gẫy giữa đường rồí!

Rồi kể lại chuyện trên. Tuyết Phong nói:

- Ông bị thua rồi! Ông ta nói được đấy!

Sư nói:

- Lão già này máu lạnh mà cũng còn chút tình cố hương.

Sư đứng trước kho, có người hỏi:

- Thế nào là chạm mắt tức Bồ đề?

Sư đá con chó một cái, chó kêu ăng ẳng bỏ chạy. Tăng không hiểu, Sư bảo:

- Con chó nhỏ không tiêu được một đạp!

Bảo Phước đang xẻ dưa thấy Sư đến. Bảo Phước nói:

- Nói được thì cho ông ăn!

Sư nói:

- Ðưa đây!

Bảo Phước đưa Sư một miếng, Sư cầm lấy bỏ đi. Sư không xuất thế, mọi người gọi Sư là Thượng tọa Thái Nguyên Phù. Sau Sư về Duy Dương, Thượng thư họ Trần lưu lại cúng dường. Một hôm Sư bảo Thượng thư rằng:

- Mai tôi sẽ giảng một biến kinh Ðại Niết Bàn để báo đáp tình của Thượng thư.

Ðúng hẹn, Thượng thư thiết trai. Sau khi trà nước xong, Sư thăng tòa, làm thinh hồi lâu, đập thước xuống bàn một một cái, nói:

- Tôi nghe như vầy.

Rồi gọi:

- Thượng thư!

- Dạ.

Sư nói:

- Nhất thời Phật tại.

Và tịch luôn.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

70. ÐẠI TĨNH - TIỂU TĨNH:

Thượng tọa Tĩnh ở chùa Quốc Thanh. Nhơn Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:

- Bọn các ông nếu có thể một đời như đưa ma mẹ, ta bảo đảm các ông sẽ tham cứu đến nơi đến chốn.

Sư bèn hỏi:

- Chỉ như trong kinh nói: "Không được đem tâm sở tri đo lường tri kiến vô thượng của Như Lai", lại là sao?

Huyền Sa nói:

- Ông cho rằng tham cứu được triệt để tâm sở tri, lại có thể đo lường được chăng?

Sư theo đó tin nhập (nhận được). Sau Sư trụ Thiên Thai hơn ba mươi năm không xuống núi, thông suốt tam học, giữ hạnh độc cư. Ngoài lúc thiền tịch, Sư thường xem Long Tạng, mọi người xa gần đều kính trọng Sư, gọi Sư là Thượng tọa Ðại Tĩnh. Có người hỏi:

- Ðệ tử mỗi lần ngồi thiền ban đêm, tâm niệm cứ bay nhảy, chưa biết phải nhiếp phục thế nào, xin Thầy thương xót chỉ dạy.

Sư đáp:

- Ông nên đem tâm bay nhảy tham cứu lại chỗ bay nhảy, sẽ thấy nó không chỗ nơi, lúc ấy tâm bay nhảy đâu còn! Rồi trở lại xem xét cái tâm tham cứu, tâm năng cứu bèn yên. Trí năng chiếu đã không, cảnh sở duyên cũng lặng lẽ. Lặng mà không lặng, vì chẳng có người năng lặng. Chiếu mà không chiếu vì không có cảnh bị chiếu. Cảnh và trí đều lặng, tâm tự nhiên an, ngoài không theo nhánh nhóc, trong không trụ vào định, hai đường đều dứt, một tánh an vui. Ðây cũng là yếu đạo về nguồn vậy.

Sư nhân thấy nghĩa huyễn hóa trong kinh bèn làm một bài kệ, để hỏi người học:

Nếu bảo các pháp đều huyễn có
Tạo các tội ác đâu có lỗi
Tại sao nghiệp tạo lại chẳng tiêu
Mà mượn lời Phật đem dạy dỗ.
(Nhược đạo pháp giai như huyễn hữu
Tạo chư quá ác ưng vô cữu
Vân hà sở tác nghiệp bất vong
Nhi tạ Phật từ hưng tiếp dụ?)

Lúc ấy có Thượng tọa Tiểu Tĩnh đáp rằng:

Nhân huyễn gây huyễn, huyễn xoay vần
Nghiệp huyễn hay vời quả báo huyễn
Chẳng rõ huyễn sanh các huyễn khổ
Biết rõ như huyễn, huyễn vô vi.
(Huyễn nhân hưng huyễn, huyễn luân vi
Huyễn nghiệp năng chiêu huyễn sở tri
Bất liễu huyễn sanh chư huyễn khổ
Giác tri như huyễn, huyễn vô vi).

Hai Thượng tọa Tĩnh cùng chết ở núi này. Ngày nay ở chùa Quốc Thanh còn có dấu tích.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

71. TĂNG ÐÔNG TÙNG:

Chẳng ai biết Sư là người như thế nào, chỉ biết Sư cơ biến khôn lường, đối đáp với ai như có cảm ứng, người nghe ngờ vực, về sau đều linh nghiệm. Nhạc Vũ Mục thường đem binh qua hỏi Sư rằng:

- Tiếng róc rách đâu đây?
(Hà xứ hưởng quyên quyên?)

Sư tiếp đó trả lời:

- Nối trúc suối trong xài
(Tiếp trúc dẫn thanh tuyền).

Nhạc bảo:

- Xuân hạ thường như thế.
(Xuân hạ thường như thử).

Sư trả lời:

- Thu Ðông cũng vậy thôi.
(Thu đông diệc tự nhiên).

Nhạc lấy làm lạ. Trước đó, Sư trồng khoai, rồi lấy ngói gạch chồng chất lên che lại, không cho ai thấy. Ðến lúc Nhạc đi qua, Sư mời để khao quân, rồi móc ngói gạch ra, moi khoai nấu canh, đủ cho quân ăn. Nhạc càng thêm lạ lùng. Sư lại biếu Nhạc miến, để tương ở dưới. Ðợi Nhạc đòi mới đưa cho và nói:

- Muốn ăn, khuấy đều lên, có tương.

Nhạc không hiểu, đề thơ lên vách mà đi. Sau gặp họa, mới hối hả đã không theo lời Sư.
Tần Cối cho là Sư thường cố vấn Nhạc, bèn sai Lý Cát đến giết Sư. Sư biết trước, viết một bài thơ:

Vội vàng tom góp cà sa rách,
Chuông trống lâu đài chẳng đoái hoài,
Mây trắng phất tay về động cũ,
Trăng trong quảy gậy đến ven trời.
Ngọn tùng thương hạc vừa làm tổ,
Bên rào nhớ cụm hoa năm rồi.
Phải đem mèo chó theo mình chạy,
Chớ để lưu lạc vào nhà người.
(Cấp mang thu thập phá cà sa,
Chung cổ lâu đài mạc quản tha,
Tụ phất bạch vân quy cổ động,
Trượng thiêu minh nguyệt đáo thiên nha.
Khả lân từng đảnh tân sào hạc,
Du ức ly biên cựu chủng hoa.
Hảo bả khuyển miêu tùy đới khứ,
Mạc giáo lưu lạc tha nhân gia).

Sư lại lấy một tượng Phật đặt giữa cầu phía Tây, đề thơ lên vách:

Lý Cát từ đông đến
Ta hướng tây chạy dài
Không nhờ Phật lực lớn
Có lẽ làm trò hôi.
(Lý Cát từng đông lai
Ngã hướng tay đầu tẩu
Bất thị Phật lực đại
Cơ hồ tác tràng xú).

Rồi trốn vào núi, cách am cũ không đến hai dặm. Lý Cát đến nơi, trông thấy thì muốn đuổi theo. Thấy tượng Phật, định dời đi. Ai ngờ, thoáng chốc biến thành cả ngàn vị Phật. Lý Cát luống cuống không biết làm sao bèn tán thán rồi trở về. Sau Sư ngồi tịch tại nơi ở ẩn. Cây cầu đặt tượng được gọi là cầu ngàn Phật.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

72. TỀ TĂNG VIỄN:

Tề Tăng Viễn trụ chùa Tiết ở Lương Châu, giao du vơi bọn ăn chơi, chẳng giữ luật hạnh. Một đêm mộng thấy thần nhân đến mắng rằng:

- Ông là người xuất gia, sao lại làm những việc xấu ác như thế, lấy gương soi mặt xem!

Tỉnh dậy, Sư đến vũng nước nhìn, thấy bên mắt có vệt đen, cho là vết bẩn, lấy tay chùi. Ai ngờ lông mi rụng theo. Sư kinh hãi, từ đó tự trách lỗi mình, thành tâm cải hối. Sư thường mặc áo xấu, mang giày rách, ăn ngày một bữa, sớm tối chí thành vừa sám hối, vừa khóc sướt mướt.

Hơn một tháng sau, lại mộng thấy vị thần hôm trước, vẻ mặt tươi cười bảo Sư:

- Biết lỗi có thể sửa được, đó là người trí. Nay ta tha cho ông đó!

Sư vừa sợ vừa mừng, mồ hôi tuôn khắp người. Trên mặt hai hàng mi mọc lại. Sư đích thân trải qua hai quả báo, tin biết nhân quả ba đời chẳng hư dối. Từ đó thành tâm phụng trì giáo pháp, không hề lui sụt. Sau Sư trở thành một vị danh tăng.

73. SƯ PHỔ MINH:


Sư Phổ Minh tự là Tịch Chiếu, ở am Diệu Thường, Gia Thiên. Từ lúc cạo đầu, thọ cụ túc giới, Sư ngày ngày tụng kinh Pháp Hoa không ngừng, muôn việc thế gian không hề bận tâm. Sư vào núi Cổ Hàng đóng cửa đọc tụng, tụng xong ngồi tĩnh tọa mà thôi. Rắn, chuột, chim chóc ban ngày đùa giỡn trước mặt Sư. Gặp khách đến gõ cửa, chúng đều bỏ chạy và bay đi. Nếu chạy không kịp, Sư lấy tay ôm hết vào lòng, lấy y che lại. Khách về, chúng lại nhảy ra đùa giỡn như cũ.

Một hôm có người bệnh đến, Sư lấy tay xoa đỉnh đầu, người đó liền hết bệnh, bèn lạy Sư xin làm đệ tử. Ðược ít lâu, Sư bảo đệ tử:

- Ngày mười tám tháng năm ta thị tịch.

Ðệ tử thưa:

- Tháng năm không được tốt.

Sư nói:

- Thế thì tháng tám vậy.

Sư dặn dò đệ tử rồi trở về Gia Thiện. Tháng tám, đệ tử đến tìm Sư, gặp Sư đang quét sân, Sư cười:

- Ông không đến thì ta quên mất!

Sư sai đánh chuông họp chúng, viết kệ:

Cái lão già này,
Tuyệt không tính toán
Thiền chẳng biết tham
Kinh chẳng biết xem
Một đời vụng về vô dụng
Dấu vết bờ núi rặng tùng
Tĩnh như bàn thạch Thái Sơn.
Ðộng như sấm rền điện chớp.
(Giá cá lão hán,
Toàn vô tư toán
Thiền bất hội tham
Kinh bất hội khán.
Sinh bình bá chuyết vô năng
Hối tích thanh tùng nham bạn.
Tĩnh như bàn thạch Thái Sơn
Ðông nhược lôi oanh xế điện).

Rồi ném viết, ngồi ngay mà tịch. Trà tỳ, ánh lửa năm màu xông lên cao, hương lạ suốt đêm không tan. Lưỡi Sư không bị cháy, gõ vào có tiếng. Sư tịch hơn một tuần, ở Cổ Hàng người ta còn thấy ánh sáng tỏa trên trời cao.

Sư đi ở tự tại, thật là người trì tụng có kết quả.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

74. THIỀN SƯ PHÁP KHÁNH:

Thiền sư Pháp Khánh ở chùa Ðại Giác, phủ Hàm Bình. Sư ban đầu trụ ở chùa Phổ Chiếu, Tứ Châu. Sau dời đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, rồi lên phương Bắc, và đến ở Ðông Kinh. Một hôm thị giả Sư đọc ngữ lục của Ðộng Sơn, đến chỗ thiết trai ngu si. Thị giả bảo:

- Cổ nhân thật kỳ lạ!

Sư nói:

- Khi ta chết rồi, ông gọi thử xem. Nếu ta sống lại, là cũng có đạo lực vậy.

Sau biết trước giờ chết, làm bài tụng:

Năm nay mồng năm tháng năm
Tứ đại sắp rời chủ cũ
Xương trắng theo gió bay vèo
Khỏi chiếm đất đai thí chủ.
(Kim niên ngũ gnuyệt sơ ngũ
Tứ đại tương ly bổn chủ
Bạch cốt đương phong dương khước
Miễn chiếm đàn na địa thổ).

Sư đem vật dụng giao hết cho thị giả, cúng trai soạn cho tăng chúng. Vừa nghe tiếng chuông đầu hôm, Sư ngồi tịch. Thị giả nhớ lại việc cũ, bèn đến kêu. Sư mở mắt ứng tiếng nói:

- Thế nào?

Thị giả thưa:

- Hòa thượng tại sao lại mình trần chân trụi mà đi?

Sư bảo:

- Lúc mới sanh lại có những gì?

Thị giả ép Sư mặc áo. Sư bảo:

- Ðể lại cho người sau dùng.

Thị giả bảo:

- Ngay lúc ấy thế nào?

Sư nói:

- Cũng chỉ như thế.

Rồi Sư viết thêm bài kệ:

Bảy mươi ba năm như điện chớp
Lên đường vì anh thông một tuyến
Trâu sắt nhảy dựng qua Tân La
Ðập phá hư không bảy tầm mảnh.
(Thất thập tam niên như xế điện
Lâm hành vị quân thông nhất tuyến
Thiết Ngưu bột phá quá Tân La
Trãng phá hư không thất bát phiến).

Sư thọ 73 tuổi, tịch ngày 5 tháng 5 niên hiệu Hoàng Thống năm thứ ba (1143) nhà Tống.

75. ÐỘ:

Huyện Hoàng mai phía Ðông tỉnh Hồ Bắc, có lưu truyền một câu truyện như vầy: "Tương truyền, Tứ Tổ Ðạo Tín, truyền pháp ở Hoàng Mai. Có cư sĩ Trương Hoai Hoài ờ làng Trương Ðộ, trồng tùng ở núi Hoàng Mai sau chùa Tứ Tổ suốt sáu năm. Ðược gọi là Tài Tùng Ðạo Giả".

Vào năm bảy mươi lăm tuổi, vị đạo nhân này đến Tổ Ðạo Tín cầu pháp, mong được y bát và đại pháp. Tứ Tổ trầm tư một lúc rồi nói:

- Tuổi của ông đã cao như thế, có thể gánh vác gia nghiệp của Như Lai sao? Chẳng bằng đổi kiếp hãy trở lại.

Tài Tùng Ðạo Giả đảnh lễ cáo từ. Tứ Tổ gọi lại, ban cho một bài kệ:

Trên Chu gia trang gặp cô gái,
Pháp y, thiền trượng ôm trong lòng
Hóa thành đào tiên chui vào bụng.
Sông đục theo dòng bỏ xác thân.
(Chu gia trang thượng ngộ quần sai {thoa}
Pháp y, thiền trượng quải tâm hoài
Vu hóa tiên đào đầu nhập phúc.
Trọc hà phó thủy thoát thi hài).

Sau khi từ giã Tứ Tổ mà đi, Tài Tùng Ðạo từ núi Phá Ngạch hướng về Nam, đi khoảng ba mươi dặm, thấy mặt trời lặn, trời đã hoàng hôn, gặp một thiếu nữ đang giặt áo và rửa chén bát bên bờ sông, bèn đến vái chào và hỏi thăm đây là đâu. Thiếu nữ đáp:

- Ðây là Chu gia trang, đất này tên là Trạc Cảng.

Tài Tùng Ðạo Giả nghe nói xong, liền nhảy xuống sông tự vận. Thần hộ pháp liền đem hồn phách của Tài Tùng Ðạo Giả hóa làm trái đào tiên, bỏ vào bát cơm mà thiếu nữ đang rửa.

Thiếu nữa tên Chu Phụng Thư, là con của Chu viên ngoại, thấy đào tiên mười phần ngon lành hấp dẫn, liền ăn ngay, chẳng ngờ từ đây có thai. Việc này vợ chồng viên ngoại sau khi biết được, cho rằng con gái không chồng mà chữa, làm bại hoại môn phong, nên nổi trận lôi đình, trục xuất Phụng Thư ra khỏi nhà. Phụng Thư có miệng khó thốt nên lời, đành phải xin ăn qua ngày. Không bao lâu cô sanh một đứa con, đời sống của hai mẹ con càng thêm khốn quẫn. Ðúa bé vì thiếu áo, thiếu cơm, từ bé thân thể đã mười phần ốm yếu, đến bảy tuổi mà chưa biết nói. Người mẹ đặt tên là Á Ðồng (bé Câm).

Ðời Tùy Dương Ðế niên hiệu Ðại Nghiệp thứ năm (609), gặp mùa gặt lúa, người mẹ dẫn Á Ðông đi xin ăn trở về quê, qua nông thôn lượm mót những hạt lúa rơi trên đất. Người làng chê cười người mẹ, Á Ðồng lớn tiếng hét thôi, trách mắng người làng không được vô lý. Lần đầu tiên Á Ðông mở miệng nói, người mẹ vui mừng nước rơi như mưa. Rồi dắt đứa bé về quê Trạc Cảng. Nhân đây, Trạc Cảng đời xưa, hiện tại có tên là Tân Khai Khẩu, ghi việc Á Ðông mở miệng lần đầu.

Người mẹ dắt Á Ðông về quê nhà xin ăn. Ngày nọ đến chùa Tứ Tổ, người trong chùa thấy mẹ con quần áo lam lũ, rất chán ghét, định đuổi ra khỏi cửa, vừa may Tứ Tổ Ðạo Tín từ trong điện bước ra, thấy Á Ðồng thông tuệ khả ái, bèn nói:

- Ðáng tiếc con tuổi còn nhỏ quá, nếu không thì có thể theo ta xuất gia làm tăng.

Á Ðồng nghe xong nói:

- Lúc con già đến Sư chê con già, nhỏ đến lại chê con nhỏ.

Tứ Tổ sực nhớ chuyện cũ, biết đây là Tài Tùng Ðạo Giả, đổi đời trở lại, bèn thuật rõ cho người mẹ, rồi giữ Á Ðồng lại với mình, xuống tóc đặt pháp danh là Hoằng Nhẫn. Á Ðồng rời mẹ, theo Tứ Tổ Ðạo Tín học tập Phật pháp, về sau quả nhiên hoằng dương Phật pháp to lớn, thành Ngũ Tỗ thiền tông.

Vả lại chẳng cần truyền thuyết dân gian chân thật nhiều hay ít. "Ðường Kỳ Châu Ðông Sơn Hoằng Nhẫn Truyện" của Thích Tán Ninh ghi rằng: "Hoằng Nhẫn bảy tuổi, học pháp với ngài Ðạo Tín, tánh tình trung hậu, thường bị đồng bạn trêu cợt mà lặng thinh chẳng đáp, chỉ siêng năng làm việc, làm lụng hăng hái". Về sau Huyền Trách, đệ tử ngài Hoằng Nhẫn viết "Lăng Già Nhân Vật Chí", lập truyện ngài Hoằng Nhẫn, miêu tả Ngài là "hoài bão trinh thuần, ít nói chuyện thị phi, không buồn để ý cảnh có – không, bốn oai nghi đều là đạo tràng, ba nghiệp đều là Phật sự", "Sống không trau chuốt văn chương, mà nghĩa phù hợp với lý huyền", bảo trì thiền phong chân chất của Tứ Tổ Ðạo tín.

Chùa Tứ Tổ còn gọi là chùa Chính Giác, hoặc là nhân đất mà đặt tên chùa Song Phong, nằm ở lưng núi Song Phong, cách thành huyện Hoàng Mai 15 km về phía Tây. Núi Song Phong còn gọi là Tây Sơn, hoặc núi Phá Ngạch. Nhìn xa, hai ngọn núi này như hai lưỡi kiếm báu, vút thẳng lên mây. Nhìn gần lại giống như mọt giá bút, thật là núi non xanh đẹp, khí thế hùng vĩ.

Ðời Ðường năm đầu tiên, Tứ Tổ Ðạo Tín lúc truyền pháp ở đây, quy mô của chùa rất rộng lớn. Trương Hựu thi nhân đời Ðường, lúc dạo núi Song Phong, có làm một bài thơ, mô tả chùa Tứ Tổ rất sinh động:

Trăng sáng như nước, chùa đầu núi.
Ngước mặt nhìn trời, đá cũng đi.
Ðêm vắng hiên sâu lời người bặt,
Một cảnh tùng lau, tiếng hạc về.
(Nguyệt minh như thủy sơn đầu tự.
Ngưỡng diện khán thiên thạch dã hành.
Dạ tĩnh thâm lang nhân ngữ định.
Nhất chi tùng động hạc lai thanh).

Nhưng chùa Tứ Tổ hoang phế đã lâu, chẳng trở lại phong quang ngày cũ. Gần đây vì nhu cầu tham quan, mới bắt đầu chỉnh trang. Chỉ có tháp Từ Vân vẫn còn, sừng sững đứng trên sườn núi phía Tây Bắc của chùa. Theo sách Ngũ Ðăng Hội Nguyên có ghi:

"Tứ Tổ Ðạo Tín vào ngày mồng 4 tháng 9 nhuận năm Tân Hợi (651), đời Ðường Cao Tông niên hiệu Vĩnh huy, chợt dạy môn nhân rằng:

- Tất cả các pháp, thảy đều giải thoát, mỗi người các ông hãy tự hộ niệm, lưu hóa vị lai.

Nói xong ngồi yên mà tịch, thọ 72 tuổi".

Ðồ chúng dựng tháp thờ phụng Tứ Tổ, nên gọi là tháp Chân Thân. Theo một ông già hơn 80 tuổi ở đất ấy nói, thì tháp này chưa bị phá hoại, trong tháp là chân thân của Tứ Tổ.

Tháp Từ Vân, vốn tên là tháp Tỳ Lô, cao 5m, làm bằng gạch xanh, kết cấu theo lối gỗ, tầng dưới là toà Ðại Tu Di, trên bốn vách có chạm trổ các thứ đồ án hoa chim. Vua Ðường Ðại Tông ban thụy hiệu cho tháp là "Tháp của Ðại Y Thiền sư Từ Vân", nên lại có tên là tháp Từ Vân.

Chùa Ngũ Tổ ở Ðông Sơn, cách huyện Hoàng Mai 16 km về phía Bắc, nên có tên chùa là Ðông Sơn. Theo lời ghi chép thì Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, bảy tuổi ở Tây Sơn, theo Tứ Tổ học thiền. Sau khi đắc pháp, bắt đầu giảng kinh thuyết pháp ở Ðông Thiền Tự, phía Tây thành Hoàng Mai, sau vì đạo tràng nhỏ hẹp, bèn xây cất chùa Ðông Sơn ở Ðông Sơn, từ đây pháp tịch hưng thạnh, người cầu pháp tấp nập trên đường. Chùa Ngũ Tổ Ðông Sơn, xây dựng vào đời Ðường, niên hiệu Hàm Hanh (670-673), đến đời Minh, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619) được xây cất lại. Vào đời Thanh, niên hiệu Hàm Phong (1851-1886), bị binh lửa thiêu hủy, lại trùng tu lần nữa. Năm Dân Quốc thứ hai mươi bảy (1938), bị phi cơ Nhật Bản oanh tạc, Ðại Hùng Bảo Ðiện bị san bằng. Trong việc chỉnh tu chính ngay trước mắt, không cách gì tìm lại được phong quang ngày trước.

Trong chùa Ngũ Tổ có điện Ma Thành, hiện đổi thành phòng triển lãm, triển lãm những văn vật đào được ở Hoàng Mai bao năm qua. Tương truyền vào đời Minh, có một Hòa thượng ở chùa Ngũ Tổ xuống núi hóa duyên, không xin vật thực, không cần tiền bạc, chỉ cần ngói gạch xây dựng đại điện, thân sĩ và dân chúng nơi đó thấy vậy cảm động, rồi rủ nhau gánh đá, vác ngói lên chùa Ngũ Tổ. Ngày khánh thànhh chùa, để kỷ niệm dân chúng Ma Thành có tinh thần hộ trì Phật pháp nên đặt tên là điện Ma Thành.

Lại có điện Thánh Mẫu, thờ mẹ của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, bà Chu Thái phu nhân. Theo truyền thuyết, mẹ của Ngũ Tổ, lúc trẻ vì không chồng mà mang thai, không được cha mẹclàng xóm chấp nhận, nên phải mang Ngũ Tổ đi xin ăn qua ngày. Sau tuổi già, lại nương Ngũ Tổ mà sống, Ngũ Tổ để mẹ ở trong chùa, mỗi ngày gánh nước, vác củi, nấu cơm cho chúng, chịu đủ cực nhọc, Ngũ Tổ không chút thương tiếc. Không bao lâu bà vãng sanh. Sau khi bà chết, Ngũ Tổ liệm chôn sơ sài, khiến chúng trong chùa bất mãn, cho Ngũ Tổ là người bất hiếu, hoàn toàn không nhớ đến sự cực khổ mà mẹ Ngài phải chịu suốt đời vì mình, nên rủ nhau đòi đi, không muốn theo Ngũ Tổ nữa. Ngay lúc ấy, Chu Thái phu nhân chợt hiện trên không trung, nói kệ:

Quý Sư chẳng nên lui sụt tâm đạo
Con tôi đã vì tôi lo xong đời trước
Nghiệp chướng nhiều kiếp đã trừ sạch
Bồ đề như xưa chứng toàn thân.
(Chu sư bất tất thối đạo tâm
Ngô nhi vị ngã liễu tiền nhân
Lũ thế nghiệp chướng tất tanh trừ
Bồ đề y cựu chứng toàn thân).

Lúc này, đại chúng mới biết Ngũ Tổ vì hóa độ cho mẹ, đã khổ tâm mà làm thế, bèn rủ nhau góp tài sản dựng lên điện Thánh Mẫu, thờ mẹ hiền một đời. Ðiện này đến nay vẫn còn, tượng của Chu Thái phu nhân đã sớm bị phá hoại, hiện đã có tượng mới, để người cúng kiến.

Trong điện Chân Thân thờ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, có một bức đối rất đáng tôn sùng, không biết thủ bút của ai, vào đời nào.

Vế trên là:

Phật pháp hữu nhân, Phật pháp hữu duyên.
Hữu nhân, hữu duyên, giai thành Phật quả.

Vế dưới:

Tổ truyền nhất y, Tổ truyền nhất bát
Nhất y, nhất bát, nãi thị Tổ Sư.

Lúc đi thăm các chùa ở Ðại Lục, tôi rất nhiều cảm khái. Vì bị người phá hoại, cổ tích khó tìm; vì sự điêu linh của tăng tài, phần nhiều bị đơn vị văn vật quản lý. Trong chùa xưa, tiếng trống chiều hồi chuông sớm vắng tiếng, chẳng biết bao giờ huệ mạng lại được tiếp tục, chánh pháp lại trùng hưng!

(Chu Chí Mẫn - Dịch theo báo Phổ Môn)

76. CHÂN TƯỚNG:

Thiền sư Cảnh Hư, một đêm dẫn một cô gái về chùa, rồi đưa cô vào phòng mình, đóng cửa lại, cùng ăn ngủ với cô trong phòng, không cho ai quấy rối.

Ðồ đệ Mãn Không trong lòng rất bấn an, bèn làm gan đến tìm Thiền sư Cảnh Hư. Vừa đến trước cửa, rõ ràng thấy cô gái tóc xõa bờ vai đang nằm trên giường, dáng thon thả thướt tha, sau lưng cũng trắng trẻo mịn màng, mà Thiền sư lại ngồi bên giường mân mê thân thiếu nữ.

Nhìn tận mắt, trong lòng ông giận tức bội phần, không nhịn được liền to tiếng hỏi:

- Sư phụ! Thầy làm như thế lại cho là Bậc nhân thiên sư phạm sao? Thầy có xứng đáng với Phật Tổ, đại chúng mười phương không?

Thiền sư Cảnh Hư dừng tay lại, quay mình nhẹ nhàng từ tốn đáp:

- Ta sao lại không thể mô phạm cho đại chúng?

Mãn Không lấy tay chỉ cô gái trên giường, lớn tiếng nói:

- Thầy nhìn đó!

Thiền sư cũng ôn tồn nói:

- Ngươi xem đi!

Lúc thầy trò nói chuyện, cô gái trên giường đã từ từ quay mình lại. Chỉ thấy cô gái này có bộ mặt, lỗ mũi, lông mi đều vặn vẹo một đống rất đáng sợ, miệng cũng bị thối rữa méo mó hơn một nữa, đang ngước nhìn họ dở khóc dở cười.

Té ra cô gái nằm trên giường là một cô gái hủi. Lúc ấy, Thiền sư Cảnh Hư lấy thuốc trong tay đưa ra trước mặt đồ đệ, thản nhiên nói:

- Ðúng vậy, bây giờ ngươi đến thật đúng lúc!

Ðồ đệ lúc này mới đại ngộ, vội vã quỳ xuống, xin thầy tha thứ.

(Vương Ngọc Bội – Trích dịch Tạp chí Phổ Môn Ðài Bắc)


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

77. ƯU BA CÚC ÐA:

Duyên khởi Vua A Dục tạo tháp.

Quốc vương Tần Ðầu Bà La, vua nước Ba Liên Phất Ấp, sanh người con tên A Dục (Vô Ưu), thân hình thô xấu, khó coi. Khi vua láng giềng là Hằng Hưu Thi La làm phản, trong các người con, vua chỉ chọn A Dục đi chinh phạt nhưng cấp binh giáp hư nát và vài chục quân. Tùy tùng lo lắng thì A Dục cười nói:- Nếu ta có mạng làm vua thì tự nhiên sẽ có người đến giúp.

Vừa nói xong, binh giáp dưới đất bỗng vọt lên. A Dục liền đem quân đi đánh giặc. Dân chúng nước kia nghe trên không trung có tiếng truyền:

- Vương từ A Dục sẽ làm vua cõi này, các ngươi chớ dấy nghịch.

Do đó, các nước đều được bình định đến sát bờ biển. Lúc ấy, vua cha ngọa bệnh, quần thần bèn phò A Dục đến, muốn lập làm vua. Vua Tần Ðầu Bà La nghe được chẳng vui liền băng hà. A Dục nghĩ thầm:

- Ta xứng đáng làm vua thì chư Thiên tự nhiên sẽ làm lễ quán đảnh cho ta, lấy lụa trắng quấn đầu.

Nghĩ xong có thiết luân bay đến, A Dục làm vua Diêm Phù Ðề thống lãnh một thiên hạ. Vua theo phép tắc chôn cha rồi tức vị, A Dật Lâu Ðà làm đại thần. Khi ấy quần thần tự đem thẻ đến lập công, sanh tâm cao ngạo. Vua biết ý liền ra lệnh chặt những cây có hoa quả và trồng gai góc. Ra lệnh ba lần mà quần thần không theo, vua liền cầm gươm giết hết. A Dật Lâu Ðà khuyên vua: Nên lập người đao phủ. Khi đó có một người hung ác tên Lê Tử, tự khoe khả năng. Vua bèn lập một căn nhà chỉ mở một cửa, trong bày cách thức trị tội giống như địa ngục. Ðao phủ tâu vua:

- Nếu ai bước chân vào đây thì không cho ra.

Vua bằng lòng.

Một hôm có con một thương gia, chán khổ thế gian, xuất gia học đạo, rồi đi du hành qua các nước, lần lượt khất thực và bước lầm vào căn nhà ấy. Vị sa môn trông thấy trong nhà có xe lửa, lò than ... sợ hãi, dựng tóc gáy vội vàng quay ra, nhưng bị đao phủ chận lại và đón bắt. Vị Tỳ kheo trong lòng thương tiếc hối hận, mắt đẫm lệ van nài được gia hạn sống thêm một tháng để tu nhưng đao phủ không cho. Nằn nì cho đến còn bảy ngày thì ông ta bằng lòng. Tỳ kheo bèn nổ lực tinh tấn, tọa thiền, ngưng tâm. Ðến ngày thứ bảy, thì gặp lúc vua đem cung nữ tống vào giao cho đao phủ. Ðao phủ bèn cô ta bỏ vào cối, lấy chày giã, phút chốc thịt nát xương tan. Tỳ kheo trông thấy chán ghét cùng cực biết rằng thân mình chẳng còn bao lâu cũng sẽ như thế; ông dứt hết mọi kiết sử thành bậc A La Hán. Khi ấy, đao phủ bào ngài rằng:

- Kỳ hạn đã hết.

Tỳ kheo đáp:

- Tâm tôi được giải thoát, đã đoạn trừ hết các hữu. Nay thân hình này chẳng còn tiếc nuối.

Ðao phủ liền nắm Tỳ kheo quăng vào chảo dầu sắt, sai người đốt lửa. Lửa chẳng nóng. Ông ta liền tự tay đốt lửa phừng phừng lên. Rồi mở nắp chảo, thấy vị Tỳ kheo kia đang ngồi trên hoa sen. Ông ta thấy việc lạ liền báo nhà vua. Vua liền dẫn mọi người đến xem. Tỳ kheo bay lên không trung như cánh nhạn chúa rồi làm đủ phép biến hóa, hướng về nhà vua nói kệ:

Tôi là đệ tử Phật
Ðược các lậu đã dứt
Sanh tử khủng bố lớn
Nay tôi đã thoát được.

Vua A Dục nghe xong, sanh lòng kính tín đối với Phật, bạch Tỳ kheo rằng:

- Lúc Phật chưa diệt độ, có thọ ký điều gì chăng?

Tỳ kheo đáp:

- Phật thọ ký: "Sau khi ta diệt độ hơn một trăm năm, ở nước Ba Liên Phất Ấp có ba ức nhà. Vua nước ấy tên A Dục, sẽ làm Chuyển Luân Vương cõi Diêm Phù, dùng chánh pháp cai tri, sau lại phân chia xá lợi của ta, lập 84,000 tháp khắp cõi Diêm Phù Ðề". Nay vua tạo địa ngục này, giết hại vô lượng. Nên vâng theo lời Phật thọ ký, y pháp tu hành.

Vua A Dục chắp tay làm lễ:

- Tôi mắc tội lớn, cúi mong Phật tử cho tôi sám hối, chớ trách móc sự ngu si của tôi.

Tỳ kheo độ vua A Dục xong theo hư không mà đi. Khi ấy, vua muốn bước ra khỏi căn nhà, đao phủ chặn lại. Vua nói:

- Ngươi muốn giết ta chăng?

- Ðúng thế.

Vua bảo:

- Ai vào đây trước?

- Tôi.

Vua nói:

- Nếu vậy, người phải chết trước. Rồi sai tả hữu bắt đao phủ bỏ trong bồn keo, lấy lửa đốt và sai phá địa ngục này, khiến mọi người nhẹ nhõm. Vua đến thành Vương Xá đem xá lợi trong tháp Phật làm 84,000 hòm vàng, bạc, lưu ly, pha lê, lại làm bình báu, sai các quỷ thần tạo 84,000 tháp. Tôn giả Da Xá duỗi tay phóng 84,000 tia sáng, sai quỷ "mau lẹ" đặt khắp thôn xóm, thành ấp ở Diêm Phù Ðề cứ mỗi ức nhà đặt một tháp. Ở nước Chấn Ðán (Trung Hoa) có 19 tháp.

Xưa, Thế Tôn cùng các tỳ kheo đi theo thôn xóm khất thực, giữa đường gặp hai đứa bé, một tên Xà Da, một tên Tỳ Xà Da đang nghịch cát chơi. Từ xa trông thấy Thế Tôn, đầy đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm. Xà Da nghĩ thầm:

- Ta nên đem bột miến cúng Phật.

Rồi bền lấy tay vốc cát bỏ vào bình bát của Thế Tôn. Tỳ Xà Da cũng chắp tay tùy hỷ. Chú bé phát nguyện:

- Do công đức căn lành bố thí này xin được làm vua một thiên hạ, và ngay đời này được cúng dường chư Phật.

Thế Tôn mỉm cười bảo A Nan:

- Sau khi ta diệt độ một trăm năm. Ðứa bé này ở nước Ba Liên Phất Ấp làm Chuyển Luân Vương thống lãnh một thiên hạ, họ Khổng Tước, tên A Dục, dùng chánh pháp trị dân. Rồi lại phân phát xá lợi của ta, tạo 84,000 tháp. A Nan, ông đem cát trong bát này rải chỗ kinh hành của Như Lai. A Nan vâng theo lời Phật dạy.

Vua A DỤC tham lễ ƯU BA CÚC ÐA


Nước Ba Liên Phất Ấp có Thượng tọa tên Da Xá, vua A Dục rất kính lễ, lập tịnh xá Kê Tước, thỉnh Da Xá trụ trì. Ðến khi ấy, lại đến Kê Tước bạch Da Xá rằng:

- Có Tỳ kheo nào được Phật thọ ký để làm Phật sự không? Tôi sẽ đến đấy cúng dường, cung kính.

Da Xá đáp:

- Lúc Phật Bát Niết Bàn, du hành đến nước Ma Thâu La, bải ngài A Nan: "Sau khi ta Bát Niết Bàn một trăm năm, sẽ có con trưởng giả tên Ưu Ba Cúc Ða xuất gia học đạo, hiệu là Vô Tướng Phật.

Vua hỏi:

- Vậy đã xuất thế chưa?

Ðáp:

- Ðã xuất thế rồi, đang ở trong núi Ưu Bàn Trà.

Vua nghe xong liền muốn đến đó mới sai sứ giả báo trước. Ngài Ưu Ba Cúc Ða nghĩ, nếu vua đến thì thị tùng đi theo sẽ sát hại vô số côn trùng. Nên đáp sứ giả:

- Tôi sẽ tự đến chỗ vua.

Ưu Ba Cúc Ða đi đến vương cung, vua rất vui mừng đến trước Tôn giả cúi lạy, quì gối, chắp tay thưa:

- Nay con thống lãnh cõi Diêm Phù Ðề, làm Chuyển Luân Vương cũng chẳng vui bằng gặp Tôn giả, như được gặp Phật, sung sướng vô cùng. Ðệ tử Như Lai có khả năng như thế.

Vua lại hỏi:

- Tôn giả nhan mạo đoan chánh còn tôi hình dung thô xấu. Vì sao vậy?

Ngài Ưu Ba Cúc Ða nói kệ:

Lúc tôi hành bố thí
Tâm sạch, tài vật tốt
Chẳng như vua bố thí
Ðem cát cúng cho Phật.

Vua lại bạch:

- Xin Tôn giả chỉ cho chỗ Phật thuyết pháp, du hành và Phật thọ ký chỗ tháp các đại đệ tử nên lễ bái cúng dường.

Ưu Ba Cúc Ða đáp:

- Lành thay, lành thay!

Và dẫn vua đến các nơi ấy, chỉ từng chỗ một. Vua cúng dường xong, đến tháp A Nan, Tôn giả nói:

- Vị này là thị giả Phật, đa văn bậc nhất, tuyển tập kinh Phật.

Vua bèn truyền đem trăm ức trân bảo cúng dường tháp này và bảo quần thần rằng:

- Thân thể của Như Lai, tánh pháp thanh tịnh, Ngài đều có thể phụng trì, nên cúng dường nhiều hơn. Ngọn đèn chánh pháp thường còn ở đời, tiêu diệt sự ngu si tăm tối này, đều do từ Ngài mà ra, nên ta cúng dường nhiều hơn.

Vua lại đến dưới cây Bồ đề, tay bưng lò hương, hướng bốn phương làm lễ mong các bậc đệ tử hiền thánh của Như Lai ở các phương đều đến tụ hội. Khi ấy có ba vạn A La Hán tề tựu. Vua thấy tại tòa thứ nhất không có người, bèn hỏi lý do. Tôn giả Hải Ý nói:

- Ðây là chỗ dành cho ngài Tân Ðầu Lô. Vị này đã đích thân gặp Phật. Vua hỏi:

- Nay ở đâu?

Hải Ý nói:

- Hãy đợi chốc lát.

Nói xong ngài Tân Ðầu Lô từ hư không hạ xuống. Vua mời đến tòa ngồi và đảnh lễ. Ngài chẳng thèm nhìn. Vua bèn hỏi:

- Con nghe nói Tôn giả thân thấy Phật đến phải chăng?

Ngài Tân Ðầu Lô lấy tay vén lông mi lên hỏi:

- Hội chăng?

Vua đáp:

- Chẳng hội.

- Long vương ao A Nậu Ðạt từng thỉnh Phật thọ trai, lúc ấy tôi cũng dự trong số đó.

Ưu Ba Cúc Ða nhân một hôm đến nhà một lão Tỳ kheo ni vừa vào cửa liền đụng bể bát. Tỳ kheo ni nói:

- Lục quần Tỳ kheo hạnh rất thô, mấy lần đến nhà tôi, cũng chưa hề như vậy. Tôn giả nối vị Tổ sao hạnh thô thế!

Cúc Ða bèn thối đi.

Có người chấp thân kiến, cầu ngài Ưu Ba Cúc Ða độ cho. Ngài bảo:

- Pháp cầu độ cần phải tin lời ta, không được trái lời ta dạy.

Người ấy đáp:

- Ðã đến với Thầy, cố nhiên phải vâng lời.

Ngài bèn hóa ra một cây cao vút bên triền núi hiểm trở, bảo người ấy leo lên cây. Rồi dưới gốc cây, hóa ra một hầm lớn, sâu rộng ngàn khuỷu. Ngài bảo ông ta buông chân, ông ta vâng lời buông hai chân. Ngài khiến buông một tay. Ông ta đáp:

- Nếu buông tay nữa, rớt xuống hầm chết.

Ngài nói:

- Trước đã giao ước thọ giáo, sao lại trái ý ta?

Khi ấy người kia sự yêu mến thân liền tiêu diệt, ông ta buông tay rơi xuống. Chẳng còn thấy cây, thấy hầm, bèn chứng đạo quả.

78. PHỤC ÐÀ NAN ÐỀ:

Gặp Nan Sanh (Hiếp Tôn giả). Ngày xuất gia, ánh sáng lành chiếu chỗ ngồi có hai mươi mốt viên xá lợi hiện lên.

79. HIẾP TÔN GIẢ:


Phía Bắc Thiên Trúc có Vô Trước xiển dương tông giáo, em là Thiên Thân. Ban đầu người em theo Tiểu thừa, làm luận năm trăm bộ. Vô Trước thấy em căn duyên sắp thuần thục, bèn giả bệnh kêu đến. Khi gần tới, Ngài sai một đệ tử đi rước. Ðêm cùng ngủ trong quán trọ, đệ tử tụng kệ:

Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhất thế Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo.

Thiên Thân nghe, hoát nhiên khai ngộ, hối hận tội đã bài xích Ðại thừa khi xưa đều do lưỡi tạo. Liền ngồi dậy lấy dao bén định cắt lưỡi.

Ngài Vô Trước biết được, duỗi cánh tay, nắm lại dỗ ràng:

- Em vì ngộ Ðại thừa vì thời tiết đến, xưa dùng lưỡi hủy báng, nay nên dùng lưỡi tán thán. Nếu cắt lưỡi đi, thì còn lợi gì?

Thiên Thân bèn thôi, đội sao mà đi. Ðến chỗ ngài Vô Trước, lắng nghe từ chỉ rồi tạo luận Ðại thừa năm trăm bộ. Người đời gọi là Luận Sư Ngàn Bộ.

Một hôm Vô Trước nhập Pháp Quang định, ban đêm lên cung trời Ðâu Suất thỉnh vấn Bồ tát Di Lặc về nghĩa kinh Kim Cang. Ngài Di Lặc bèn thuyết tám mươi bài tụng, ngài Vô Trước phân mười tám trụ xứ, tạo luận hai quyển. Thiên Thân ước đoán hai mươi bảy nghi, tạo ba quyển luận. Thiên Thân lại giảng Bà Sa Luận cho chúng, đem bài giảng mỗi ngày làm một bài tụng nhiếp hết nghĩa. Lại đi khắp các nước, các luận sư các nơi không thể hiểu nổi. Do đó Ngài lại tự tạo trường hàng để giải thích bài tụng tức Câu Xá Luận.

Một hôm Thiên Thân từ nội cung của đức Di Lặc xuống. Vô Trước hỏi rằng:

- Nhân gian bốn trăm năm, trời kia chỉ có một ngày đêm. Ðức Di Lặc ở trong một thời (giờ) thành tựu cho năm trăm ức Thiên tử chứng Vô sanh pháp nhẫn, chưa rõ thuyết pháp gì?

Thiên Thân nói:

- Cũng chỉ thuyết pháp này. Chỉ là Phạm âm thanh nhã khiến người ưa nghe.

80. PHÚ NA DẠ XA:


Tông Cảnh Lục nói: "Tây Thiên trong núi Vân Ðà Sơn có một La Hán tên Phú Lâu Na, Mã Minh đến gặp thấy ngồi yên trong rừng, chí khí cao vời không sanh lường được, Mã Minh bảo:

- Sa Môn thuyết pháp. Tôi có chỗ sáng tỏ muốn khuất phục ông. Tôi nếu không hơn sẽ chặt đầu tạ lễ.

La Hán làm thinh, mặt không lộ vẻ thua hay thắng; Mã Minh đến gõ mấy cái cũng không trả lời. Mã Minh bèn lùi suy nghĩ:

- Ta thua rồi! Ông ta đã thắng ta. Ông ta lặng thinh không nói, ta không thể khuất phục được. Ta dùng lời nói, tuy như lời có thể khuất phục mà tự ta chưa thể thoát khỏi lời. Thật đáng xấu hổ.

Ngài bèn xin xuất gia.

Thuyết này cùng Truyền Ðăng không đồng.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

81. MÃ MINH:

Dạ Xa bảo chúng: "Ðại sĩ này xưa là vua nước Tỳ Xá Lợi, vì nước ấy có một loại người khỏa thân, như ngựa lộ hình. Vua vận thần thông, phân thân làm tằm, những người ấy được áo mặc. Sau Ngài sanh vào Ấn Ðộ, Mã nhân cảm luyến kêu thương, nên gọi là Mã Minh, sau thuyết pháp dẹp các dị luận".

Có một ngoại đạo đến đòi luận nghĩa, nhóm các quốc vương, đại thần và bốn chúng tụ họp tại luận trường.

Mã Minh nói:

- Nghĩa của ông lấy gì làm tông?

Ngoại đạo đáp:

- Hễ có ngôn thuyết, tôi đều có thể phá.

Mã Minh bèn chỉ quốc vương nói:

- Hiện nay đất nước khang ninh, quốc vương trường thọ. Mời ông phá đi!

Ngoại đạo khuất phục.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Huệ Hiền
Bài viết: 1447
Ngày: 31/05/10 18:35
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Kiên Giang - Việt Nam

Re: Cao tăng dị truyện.

Bài viết chưa xem gửi bởi Huệ Hiền »

82. LONG THỌ:

Ngài được phó tháp, trong 90 ngày tụng thông kinh sách ở Diêm Phù Ðề, lại nghĩ:

- Kinh Phật cõi đời tuy diệu mà cú nghĩa chưa hết, ta nên phu diễn thêm để khai ngộ người sau.

Ngài liền dùng thần lực đến Long cung mở rương bảy báu lấy kinh điển Phương Ðẳng trong 90 ngày thông hiểu rất nhiều. Long Vương nói:

- Ngài xem kinh hết chưa ?

Ngài đáp:

- Kinh của ông vô lượng chẳng coi hết được. Chỗ tôi đạt đủ gấp 10 lần ở Diêm Phù.

Long Vương nói:

- Các kinh trên trời Ðao Lợi hơn đây gấp trăm ngàn ức lần.

Ngài ở Long Cung tu hành, thâm nhập vô sanh. Rồng đưa Ngài ra khỏi cung, từ đây về sau Ngài hoằng dương Phật pháp rộng lớn, tạo các luận Ðại vô úy ... mấy mươi vạn kệ (Trung Quán Luận là một phẩm, Ðại Trí Ðộ Luận).

Kinh nói:

Sau khi Phật Niết Bàn,
Ðời vị lai sẽ có
Tỳ kheo Nam Thiên Trúc
Có hiệu là Long Thọ
Hay phá tông Hữu – Vô
Hiển pháp Ðại thừa ta
Ðắc sơ hoan hỷ địa
Vãng sanh An Dưỡng Quốc.

Ngài vào Long cung xem tạng kinh, thấy kinh Hoa Nghiêm có 3 bản.

Bản thượng có 13 thế giới vi trần số kệ, 1 tứ thiên hạ vi trần số phẩm.

Bản trung có 498,800 bài kệ, 1,200 phẩm.

Bản hạ có 100,000 bài kệ, 48 phẩm.

Bản thượng chỉ có Phật mới biết được.

Bản trung chỉ có Bồ tát trụ địa mới biết được. Ngài bèn ghi chép bản hạ, trở về Ấn Ðộ. Ấn Ðộ truyền đến Trung Hoa 80 quyển kinh, 39 phẩm. Phẩm chia ra làm bảy chỗ, chín hội.

Hội 1: Ở Bồ Ðề đạo tràng thuyết 6 phẩm, 11 quyển, ngài Phổ Hiền làm hội chủ.

Hội 2: Ở điện Phổ Quang Minh thuyết 6 phẩm, 4 quyển, ngài Văn Thù làm hội chủ.

Hội 3: Ở trời Ðao Lợi, thuyết 6 phẩm, 3 quyển, Pháp Huệ làm hội chủ.

Hội 4: Ở trời Dạ Ma, thuyết 4 phẩm, 3 quyển, Công Ðức làm hội chủ.

Hội 5. Ở trời Ðâu Suất, thuyết 3 phẩm, 12 quyển, Kim Cang Tràng làm hội chủ.

Hội 6: Ở trời Tha Hóa, thuyết 1 phẩm, Kim Cang Tạng làm hội chủ.

Hội 7: Lại ở điện Phổ Quang Minh, thuyết 11 phẩm, 13 quyển. Phổ Hiền và Như Lai. Phẩm Phổ Hiền nói về nhân bình đẳng, phẩm Như Lai Xuất Hiện nói về quả bình đẳng.

Hội 8: Ba lần ở Phổ Quang Minh Ðiện, thuyết 1 phẩm, 7 quyển. Cũng ngài Phổ Hiền làm hội chủ.

Hội 9: Trong rừng Thệ Ða thuyết 1 phẩm, 21 quyển, thì Như Lai cùng Thiện hữu.

Ðây là bản hạ, phần trước 3 vạn 6 ngàn kệ. Còn 6 vạn 4 ngàn kệ, 9 phẩm ở Ấn Ðộ.


Cổ thi Phật Tổ để một phong
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng
Người đời tu miệng, lòng không sửa
Bần Tăng lòng sửa, miệng thì không.


- Tế Điên Hòa Thượng -
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.34 khách