Thập đại đệ tử Phật

Truyện sưu tầm và sáng tác - truyện của ngày ấy, mỗi cuộc đời là một trường thiên tiểu thuyết. Kính mời các bạn hãy ghi lại những cảm nghĩ, dòng tư tưởng của mình.
Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thập đại đệ tử Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Toát yếu 6: Tôn giả LA HẦU LA MẬT HẠNH ĐỆ NHẤT

1- CẬU BÉ HẠNH PHÚC
Đức Phật của chúng ta khi còn là thái tử của vương thành Ca-tỳ-la, đã kết hôn với công chúa Da-du-đà-la thành Câu-lợi. Vào năm thái tử và công chúa mười chín tuổi, sanh hạ La-hầu-la.

...Nhưng thái tử xuất gia thành Phật, thân phụ đổi thành lão sư, về sau độ La-hầu-la thành Thánh quả. Đó mới thật ông cha đệ nhất của thiên hạ.

La-hầu-la là con của bậc đại thánh, được nuôi dưỡng trong tình thương cao rộng như trời đất, là một cậu bé hạnh phúc nhất đời.

2- CHÚ BÉ KHÔNG BIẾT MẶT CHA
Đức Thế Tôn thành đạo được ba năm, từ nước Ma-kiệt-đà phương Nam về thăm cố hương. Trên từ vua Tịnh Phạn, dưới đến nhân dân dòng họ Thích, đều ra ngoài thành nghinh đón Phật, chỉ có Da-Du-đà-la và La-hầu-la không tham dự trong hàng người ấy.

...Chỉ có mười tuổi, đã chịu nguyện đem phụ thân của riêng mình hiến cho chúng sanh làm đấng cha lành, thật là một cậu bé chẳng tầm thường.

3- SA-DI ĐẦU TIÊN
Đức Thế Tôn ở tạm trong hoàng cung vài ngày, và phen này, trong cung điện vắng bóng cung nữ, chẳng có yến tiệc rượu chè, chỉ có một ngàn vị Tỳ-kheo theo Phật. Cung điện hoàng gia tạm thời trở thành Tăng phòng tinh xá.

Đức Phật nói xong, gọi Mục-kiền-liên cạo tóc cho cậu bé, dạy lễ bái Xá-lợi-phất làm thầy, truyền giới Sa-di cho La-hầu-la, đó là khởi nguyên của chúng Sa-di.
La-hầu-la vốn là tất cả hoài bảo của bà Da-du-đà-la, bây giờ đã gia nhập Tăng đoàn, đó cũng là dụng ý của đức Phật. Khi còn là Thái tử hạ sanh La-hầu-la, Ngài đã rời bỏ ngôi vị ra đi và đắc thành Phật quả, thì vương vị mai sau của nước Ca-tỳ-la-vệ nhất định sẽ về tay La-hầu-la. Nhưng chủ trương của đức Phật, để cho một đứa bé con làm chủ cả bàn dân thiên hạ là chuyện không thể được, cho nên thừa cơ hội, Ngài phương tiện cho con xuất gia.

La-hầu-la xuất gia là một điều đau buồn cho bà Da-du. Cậu bé là nguồn hy vọng của bà, bà thương quý cậu hơn cả thân mình. Thái tử đã ra đi, bây giờ con yêu cũng lìa bỏ, đối với bà thật là trời sầu đất thảm. Chúng ta cũng có thể đồng ý với bà Da-du trách đức Phật nhẫn tâm, để cho bà chịu nhiều đau khổ quá đáng. Nhưng chơn lý và nhân tình là hai lối trái ngược nhau rất xa, phải hàng phục được tình cảm yếu đuối của thế nhân, mới khế hợp được với chơn lý pháp tánh vậy.

4- TUỔI TRẺ NGHỊCH NGỢM
La-hầu-la xuất gia làm Sa-di rồi, vương phi Da-du cũng đành chịu, không biết làm sao hơn. Vua Tịnh Phạn thông cảm cho nỗi khổ tâm của bà, bèn đến tìm Phật, yêu cầu một điểm:

- Bạch Thế Tôn! Mong rằng Ngài quy định từ nay về sau, các người trẻ tuổi muốn xuất gia phải được sự đồng ý cho phép của cha mẹ.

Đức Phật hoan hỷ nhận lời.

Da-du-đà-la chẳng còn hứng thú gì trên cõi đời này, tất cả đều khô héo. Về sau, Di mẫu của Phật là phu nhân Kiều-đàm-di xuất gia làm Tỳ-kheo ni, Da-du cũng theo đoàn người nữ họ Thích đến Tỳ-xá-ly xuất gia. Ban đầu, bà không cảm thấy chút gì an lạc khi sống trong Tăng đoàn vắng lặng. Nhưng nhờ đức Thế Tôn cảm hóa, chẳng bao lâu, bà được khai ngộ, khôi phục lại niềm vui, cùng sinh hoạt bình thường, an ổn tự tại trong Phật pháp. Bà rất vui mừng, rất cảm kích đức Thế Tôn. Đức Phật cũng hoan hỷ, đến lúc ấy Ngài mới hết trách nhiệm với bà.

Con nhà giàu có, thế lực thì hay ỷ lại vào tiền của và địa vị của cha mẹ, ưa làm chuyện bậy bạ. La-hầu-la vốn là cháu vua Tịnh Phạn, con Phật, tuy xuất gia trong Tăng đoàn bình đẳng nhưng vẫn là con nít, chắc cũng được nhiều người sủng ái, nên theo ý tôi, cậu bé có những tập khí kiêu mạn, cũng là tâm lý chung.

La-hầu-la gạt mọi người một lần, hai lần, thiên hạ còn bị lầm, nhưng sau vài lần mọi người đều biết, và tiếng đồn La-hầu-la nói dối, chọc ghẹo người đến tai Phật. Đức Thế Tôn không vui chút nào. Một hôm Ngài đích thân đến rừng Ôn Tuyền, răn dạy La-hầu-la một phen.

5- LỜI RĂN CỦA PHẬT
Hôm ấy, đức Thế Tôn đến chỗ ở của La-hầu-la, với dáng hết sức oai nghiêm. La-hầu-la không ngờ vội chỉnh y ra nghinh đón Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân. Đức Phật không nói một lời, rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu bảo La-hầu-la:

- Này La-hầu-la! Thứ nước dơ bẩn này có đem uống được không?...
- La-hầu-la! Ông lấy cái chậu này đựng cơm được không?...
- La-hầu-la! Ông sợ cái chậu này bị đá bể không?...

Đức Thế Tôn dùng hết tình hết lý, khẩn thiết, nghiêm trang răn dạy, mỗi lời mỗi câu đều in sâu vào tâm La-hầu-la, chú bé phát nguyện từ nay sẽ sửa đổi.

Như hạt lúa chúng ta tuy xay giã thành hạt gạo, nhưng còn dính bụi cám, phải vo chà sạch sẽ thì gạo trắng mới ra gạo trắng. La-hầu-la tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưng phải có pháp thủy của đức Thế Tôn tẩy rửa một phen mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được.

6- SA-DI CÓ THỂ Ở CHUNG VỚI TỲ-KHEO
Khi đức Thế Tôn ở tại vườn Cù-sư-la, La-hầu-la cũng ở đó với Sa-di Quân-đầu, cũng theo sư phụ Xá-lợi-phất hầu Phật nghe pháp...

Trẻ con tuổi nhỏ, cắt ái từ thân, vào trong Tăng đoàn, cần phải được các Tỳ-kheo lớn chiếu cố đến. Vì nhân duyên đó, đức Phật bèn quy định cho các Sa-di, có thể ngủ chung phòng với Tỳ-kheo hai đêm. Tình thương của đức Phật, chỗ vi tế nhất đều lưu ý đến.

Xưa nay, sư phụ thâu đệ tử phải có trách nhiệm dạy dỗ. Thầy của La-hầu-la là Xá-lợi-phất, thường bận giúp Phật hoằng hóa bên ngoài, ít có dịp ngó ngàng đến La-hầu-la. Nhưng từ khi sự kiện ấy xảy ra, Xá-lợi-phất thường gọi La-hầu-la đến ở một phòng với Tôn giả.

7- ĐỨC NHẪN NHỤC
Từ khi được đức Phật chỉ dạy, và lại thường được ở bên cạnh sư phụ Xá-lợi-phất, nhận được sự hướng dẫn của thầy, La-hầu-la tu tiến rất nhanh.

Khi đức Phật giảng kinh, Xá-lợi-phất đều dẫn La-hầu-la đi nghe. Khi Xá-lợi-phất tịnh tọa, La-hầu-la cũng tịnh tọa một bên, khi đi thuyết pháp giáo hóa, Xá-lợi-phất cũng dắt theo bên mình, dạy cho La-hầu-la những kinh nghiệm vì pháp, vì mọi người. Mỗi ngày khất thực xong, La-hầu-la lại theo sau Xá-lợi-phất, trong Tăng đoàn Tôn giả được xem như đức Phật thứ hai, thật là ân sư tôn quý của La-hầu-la.

Do nhân duyên La-hầu-la bị kẻ côn đồ vô cớ hành hung lỗ đầu, mà trong lúc tuổi trẻ máu nóng lại có thể nhẫn chịu như một ông thánh, khiến sư phụ rất an tâm, đức Phật cũng mừng thầm và dẫn khởi đến đoạn thuyết pháp trên. Xá-lợi-phất nghe xong vô cùng cảm động, La-hầu-la cũng rơi lệ, lại càng cảm kích hơn.

8- LỊCH TRÌNH CHỨNG NGỘ
La-hầu-la đối với chuyện bị chiếm phòng, tự nguyện nhượng bộ, trên đường đi bị kẻ ác đánh trọng thương đều có thể nhẫn được, tu dưỡng cẩn mật như vậy, chỉ còn một đoạn nữa là được khai ngộ.

La-hầu-la thông minh khéo léo, tinh tấn tu hành, khi còn Sa-di ưa chọc ghẹo thiên hạ hôm nay đã trở thành một thầy Sa-môn nghi biểu trang nghiêm. Vào năm hai mươi tuổi, đức Phật hứa khả cho thọ giới Tỳ-kheo.

Đức Thế Tôn khất thực trở về đến chỗ La-hầu-la đang tọa thiền, lại chỉ dạy thêm:

- Nên dùng sức đồng thể đại bi, lòng từ vô duyên để đối xử với người và sự việc, tâm lượng rỗng rang có thể dung nạp tất cả chúng sanh, mới có thể diệt ác, đếm hơi thở quán tâm, có thể đạt được giải thoát.

La-hầu-la từ tòa đứng dậy, đảnh lễ đức Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Phiền não con đã hết, con đã chứng ngộ xong.

Đức Phật hoan hỷ, còn hơn sự hoan hỷ của La-hầu-la, Ngài khen ngợi:

- Trong các đệ tử ta, Tỳ-kheo La-hầu-la là Mật hạnh đệ nhất .

9- CHẾ ĐỘ HIẾN CÚNG TINH XÁ
Sau khi La-hầu-la khai ngộ, địa vị trong giáo đoàn càng được đề cao, nhất là hàng tín chúng tại gia, có biệt nhãn đối với Tôn giả. Một điều không thể phủ nhận, trong hàng Tỳ-kheo, La-hầu-la được cúng dường nhiều nhất.

Phật dạy:
- La-hầu-la! Trong pháp ta, việc của Tăng đoàn thì hàng tín đồ tại gia không thể quản lý. Tín chúng phát tâm cúng dường tinh xá, không phải vì đó mà tự do can dự thao túng. Ông nên bảo cho ông trưởng giả ấy, hỏi ông ta cúng dường tinh xá với mục đích gì? Nếu thật là bố thí cho Tăng già, vật đã bố thí không còn là của mình. Như nếu ông ta muốn quản lý, nói cho ông ấy biết tinh xá không phải là nhà khách. Tinh xá do Tăng trụ trì, phần cư sĩ hộ pháp thì được, quản lý thì không được.

10- NHẬP DIỆT
La-hầu-la nhập diệt khi nào, cũng như năm tháng đản sanh của Tôn giả, có hai truyền thuyết. Có thuyết nói, thái tử Tất-đạt-đa năm mười chín tuổi hạ sanh La-hầu-la. Có thuyết lại nói đến năm Ngài hai mươi lăm tuổi mới hạ sanh La-hầu-la. Về năm diệt cũng có hai thuyết, một thuyết nói Tôn giả nhập Niết-bàn trước đức Phật vài năm, thuyết khác nói, khi đức Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả còn quỳ bên giường.

Ấn Độ là một nước không mấy chú trọng về lịch sử, còn Trung Hoa chúng ta cũng không ít nhà phiên dịch phóng đại và tưởng tượng huyễn hoặc. Những sự tích lặt vặt về cuộc đời đức Thế Tôn và các vị Thánh đệ tử được ghi chép trong kinh điển, thật cũng có ít nhiều cắt xén.

Căn cứ theo ký sử có thể khảo cứu qua kinh điển, thì Tỳ-kheo ni Da-du-đà-la, mẫu thân của La-hầu-la nhập diệt vào năm bảy mươi tám tuổi, và La-hầu-la nhập diệt được kể là sớm hơn.

Vào một buổi chiều, Da-du-đà-la đã suy tư đến rất nhiều sự việc. Bà nghĩ Kiều-đàm-di, Liên Hoa Sắc đều đã nhập Niết-bàn, La-hầu-la cũng nhập Niết-bàn. Ta sanh đồng một năm với đức Phật, năm nay ta đã bảy mươi tám tuổi, nghe nói đức Phật sẽ nhập Niết-bàn vào năm tám mươi tuổi. Nghĩ đến chuyện ta nhập diệt đồng một lúc với Ngài, tuy hiện tại đối với đức Phật chỉ có pháp tình mà không có tình riêng gì khác, nhưng chuyện ấy là một điều bất kính, chi bằng ta nhập diệt sớm là tốt hơn.

Da-du-đà-la được đức Phật hứa khả, hướng về Phật đảnh lễ cảm tạ xong, bèn hiện thần thông bay lên hư không mà đi. Và đêm đó bà ở trong phòng nhập định Niết-bàn.

Căn cứ vào ký sự nhập diệt của Da-du-đà-la thì La-hầu-la đã nhập diệt trước cả bà và đức Phật. Và theo đó, tính tuổi của Tôn giả không quá sáu mươi. Đại khái Tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng.

Đương nhiên, đối với một vị thánh thì xem cái chết, dù sớm hay muộn cũng là chuyện thường. Bỏ sắc thân hư huyễn giả dối này, đem sanh mạng an trụ trong lý thể pháp tánh, chuyện ấy không có gì phải buồn, trái lại đó là một sự hạnh phúc.

La-hầu-la vào năm hai mươi tuổi đã khai ngộ chứng quả, cái mục đích tối hậu của đời người đã đạt được thì khi nhập diệt nhất định là an nhiên vi tiếu mà ra đi.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thập đại đệ tử Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Toát yếu 7: ĐẠI CA DIẾP ĐẦU ĐÀ ĐỆ NHẤT
1- DƯỚI CÂY SANH VĨ NHÂN
Nếu như hai ngàn năm trăm năm trước, có người giữ gìn nhục thân sống đến hôm nay, thì đó là tôn giả Đại Ca-diếp, Đầu-đà đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.

Hai ngàn năm trăm năm trước, tại thôn làng Ma-ha Sa-la-dà cách thủ đô Vương Xá nước Ma-kiệt không xa, có một nhà hào phú trưởng giả dòng Bà-la-môn tên Ni-câu-lư-đà-kiệt-ba, tiếng đồn tài sản của ông có thể sánh với vua Tần-bà-sa-la đương thời.

Tôn giả Đại Ca-diếp đã xuất sanh trong gia đình hào phú ấy.

Nói về lúc đản sanh Tôn giả, có những điềm lành không khác với điềm lành đản sanh Phật-đà là mấy. Ngày mẫu thân Tôn giả lâm bồn, chính là lúc bà đang dạo chơi trong đình viện, bỗng cảm thấy mệt mỏi, bà đến ngồi dưới bóng cây đại thọ Tất-bát-la nghỉ ngơi, lúc ấy chẳng biết thiên y từ đâu bay tới, và Đại Ca-diếp cất tiếng khóc chào đời.

Đại Ca-diếp, cha mẹ đặt tên vốn gọi là Tất-bát-la-da-na, lấy ý sanh dưới gốc cây. Đại Ca-diếp tướng hảo đầy đủ không thua kém ba mươi hai tướng của đức Phật. Gia đình đại phú hào chỉ có một quý tử, sự nuôi dưỡng và thương yêu của cha mẹ thật không thể nói hết. Nội số nhũ mẫu đã hết bốn bà, còn số người hầu hạ chăm sóc chơi đùa lại rất nhiều.

Khi Đại Ca-diếp lên tám tuổi, đã được học các giới điều Bà-la-môn, và theo thầy học tập các thứ, từ pháp tế lễ, thi họa, toán thuật, văn học, ngũ minh, bốn bộ Phệ Đà, cho đến xem thiên văn, đoán âm dương kiết hung, đất động sấm nổ, âm nhạc ca vũ v.v… do sức thông minh của Ca-diếp, không có môn nào không thấu hiểu triệt để.

Duy có một điều rất lạ, ngay từ nhỏ Ca-diếp không giống các trẻ con khác, đối với dục lạc thế gian không ưa, chẳng thích tình âu yếm, chán ghét bất tịnh, thường ưa ở một mình xa đám đông, ngay cả cha mẹ, xa cách cũng không nhớ đến.

2- NGƯỜI VỢ KHÔNG CHUNG GIƯỜNG
Canh một rồi canh hai, canh ba, canh bốn, canh năm đã dứt, trời dần sáng mà cả hai không nói một lời nào. Cho đến lúc lâu, ánh nắng xuyên vào phòng, Ca-diếp mới mở lời:

- Xin hỏi nàng có tâm sự gì chăng?

Diệu Hiền châu mày, ngồi làm thinh.

- Có điều gì nàng cứ nói, chúng ta cùng thương lượng.

Diệu Hiền lại ứa nước mắt, mà cũng chẳng trả lời.

- Thế này là thế nào? Tại sao nàng khóc?

Ca-diếp hỏi tới, có vẻ giận.

Ca-diếp hỏi đôi ba phen, Diệu Hiền không dừng được, mới thở dài đáp nhỏ:

- Chàng phá hoại chí nguyện của tôi. Tôi xưa nay rất ghét ngũ dục, muốn tu phạm hạnh thanh tịnh. Ba má tôi bị mê hoặc bởi sự giàu sang của chàng, khiến nguyện vọng của tôi bị lở dở.

Đại Ca-diếp nghe nói rất mừng. Chàng liền nói cho Diệu Hiền biết, mình cũng rất ghét ái nhiễm, ưa tu hạnh thanh tịnh. Đây thật là khéo hợp ý trời, chúng ta có thể làm theo chí nguyện của mình.

Do đó hai người cùng ước định, trong phòng kê hai cái giường, trên danh nghĩa là phu thê mà không ngủ chung giường.

3- MƯỜI HAI NĂM THỦ ƯỚC
Câu chuyện ngủ riêng giường, lọt đến tai cha mẹ Ca-diếp. Hai ông bà bèn vào phòng xem xét, thấy hai giường kê hai nơi thật chẳng cao hứng tí nào, bèn rầy:

- Hai con là vợ chồng mới cưới mà trong phòng kê riêng hai giường thật chẳng nên. Ta sẽ gọi người đến dẹp bớt một cái.

Ca-diếp chẳng dám cãi lời, nhưng càng giữ vững lời hứa, càng cương quyết lập chí, chàng nói với Diệu Hiền:

- Không lo chuyện ấy. Còn một cái giường thì chúng ta thay phiên nhau ngủ. Đầu hôm đến giữa đêm thì nàng ngủ, tôi đi kinh hành tu niệm trong phòng, đến gần sáng thì nàng thức dậy, tôi ngủ, nàng có thể đi kinh hành hoặc ngồi thiền.

4- XUẤT GIA HỌC ĐẠO
Hội hợp ắt biệt ly, có sanh ắt có tử, đó là đạo lý nhất định của thế gian. Song thân Đại Ca-diếp lần lượt qua đời.

Sau đó không lâu, ngày nọ Diệu Hiền sai gia nhân ép dầu mè, trong dầu mè có rất nhiều con bọ nhỏ lúc nhúc cựa quậy, nàng nghe gia nhân bàn tán với nhau:

- Ép chết bao nhiêu con vật nhỏ này không biết sau này chịu quả báo đáng sợ thế nào? Nhưng thật ra đó không phải là lỗi của chúng ta mà là mệnh lệnh của nữ chủ.

Diệu Hiền nghe qua những lời ấy cảm thấy ghê sợ, lập tức bảo họ ngừng ép dầu, một mình lui vào phòng đóng cửa lại tịnh tọa tư duy.

Đại Ca-diếp bèn nói với Diệu Hiền:

- Nói gì thì nói, tôi sẽ rời bỏ cái nhà này để đi xa học đạo. Ở nhà thiệt chẳng khác ở trong chốn lao ngục, bao nhiêu thứ ràng buộc, khổ não đủ điều. Ở trong gia đình tạo nghiệp không có hồi kết thúc, tôi sẽ ra đi để tìm cho ra chơn lý của kiếp người. Tu hành trong chốn rừng núi như là lui tới trong chốn hư không, không có chút trở ngại. Tạm thời tôi đi trước tìm thầy hỏi đạo, nàng ở lại nhà đợi khi nào tôi gặp được bậc thầy hiền minh, tôi sẽ trở về dẫn nàng cùng xuất gia. Chúng ta sẽ đem hết tài sản cứu tế cho các người nghèo cùng cơ khổ, và chia cho các gia nhân. Nàng hãy đợi, nhất định tôi sẽ mang tin tốt đẹp trở về.
Diệu Hiền nghe xong, rất kính phục chí nguyện của trượng phu, cùng cảm kích mối quan tâm của chàng. Chuyện xuất gia tu đạo này vốn là nguyện ước từ lâu của hai vợ chồng, vì còn cha mẹ mà phải qua hơn mười năm chờ đợi.

Hôm nay, Đại Ca-diếp đi xuất gia tu hành, trong tâm tình thật hoan hỷ, thật không thể nói hết.

5- LÀM ĐỆ TỬ ĐỨC PHẬT
Lúc ấy Đại Ca-diếp đã ba mươi tuổi. Theo truyền thuyết, ngày chàng rời nhà tìm đạo cũng chính là ngày đức Phật ngồi dưới cội cây Bồ-đề, trên tòa Kim Cương thấy sao mai mọc và thành Đẳng chánh giác.

- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc đại sư của con, xin tiếp độ cho con – Đại Ca-diếp được quy y, từ nay Đại Ca-diếp là đệ tử Phật!

Đức Phật biết lúc này lòng tin của Đại Ca-diếp đã chắc chắn, liền bảo:

- Này Đại Ca-diếp! Ông chính thật là đệ tử của ta. Ta chính là lão sư của ông. Trên thế gian này, như người nào chưa chứng quả vị Chánh giác, không dám nhận ông làm đệ tử. Ông hãy theo ta.

Đức Phật từ từ đứng dậy, đi về tinh xá Trúc Lâm. Đại Ca-diếp theo sau chân Ngài, vừa cung kính vừa cảm động, vừa mừng vui đến rơi lệ.

Đức Phật ngoái lại nhìn Đại Ca-diếp sau mới nói:

- Ta nghe nói về ông đã lâu, ta biết thế nào ông cũng đến cầu đạo với ta. Hôm nay là ngày ông được tiếp độ, Phật pháp lưu truyền về sau cần ông rất nhiều, vì chúng sanh và vì chính mình, ông nên thận trọng!

Về đến Trúc Lâm, đức Phật làm lễ thế độ cho Đại Ca-diếp, và nói pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên, với oai đức tướng hảo của Thế Tôn, với từ ân thân thiết của Thế Tôn, có thể nói rằng bầu không khí chứng ngộ đã bao trùm Đại Ca-diếp. Lời dạy của Phật như đám mưa rơi trên thửa ruộng khô khao, tám ngày sau ông khai ngộ.

6- CỨU ĐỘ HIỀN THÊ

Đại Ca-diếp xuất gia một năm sau, là đức Phật thành đạo năm thứ ba. Đức Phật nhận lời thỉnh của phụ vương, cùng các Tỳ-kheo trở về cố thành Ca-tỳ-la, Đại Ca-diếp cũng có mặt trong ấy. Sau đó, Phật trở về tinh xá Kỳ Viên nước Xá-vệ. Trong số những hoàng tộc theo Phật xuất gia, có cả Kiều-đàm-di di mẫu cũng được xuất gia và thành lập giáo đoàn Tỳ-kheo ni.

Do đó, Đại Ca-diếp nhớ đến lời hứa với Diệu Hiền, vì trước đó người nữ không được xuất gia nên Tôn giả không dám xin đức Phật. Bây giờ đã có giáo đoàn Tỳ-kheo ni, chính là lúc thực hiện lời giao kết với Diệu Hiền. Đại Ca-diếp từ khi rời nhà học đạo đã cách ba, bốn năm. Trong ba, bốn năm ấy chẳng biết tình hình của Diệu Hiền thế nào? Tôn giả bèn an tĩnh nhập định quan sát, mới biết Diệu Hiền đang theo làm đệ tử một phái ngoại đạo bên bờ sông Hằng.

Thế gian đầy thị phi ác độc. Một vị Thánh thanh tịnh như Đại Ca-diếp, mà còn có người khiêu khích đồn đãi, thiệt là ai nghe cũng bất bình.

Về sau Phật khen ngợi bà:
- Trong chúng Tỳ-kheo ni, không ai có thể sánh với Tỳ-kheo ni Diệu Hiền về mặt Túc mệnh thông!

Tôn giả Đại Ca-diếp rất hoan hỷ, đối với ân tình của thế gian, Ngài chẳng lưu lại chút mảy may

7- XÁ LỢI PHẤT PHỎNG VẤN

Đại Ca-diếp liền trả lời:

- Đức Như Lai đã hết sạch ái chấp, tâm không còn phiền não, vĩnh viễn giải thoát, sự chứng ngộ của Ngài rộng lớn sâu xa, không thể dùng tứ cú của mê tình để hỏi, cũng không thể dùng ngôn từ để đáp. Chỉ vì vấn đề ấy không nên hỏi nên Ngài không giải đáp.

Xá-lợi-phất nghe câu trả lời, thật là thích thú, cáo từ và trở về động mình tu tập.

Trong hàng đại đệ tử, các vị thường chỉ dạy nhắc nhở nhau, cùng hỏi cùng nghiên cứu, vấn đáp qua lại để bàn soạn sự học, cho nên câu chuyện hỏi đáp của hai vị tôn giả chẳng có gì lạ, nhưng đối với vấn đề khúc mắc như Xá-lợi-phất nêu ra mà có thể tùy tiện giải đáp, mới thấy là sức tu đạo của Đại Ca-diếp cao xa đến mức nào!

8- ĐỘ BÀ LÃO NGHÈO SANH CÕI TRỜI

- Này bà lão! Đã khởi tâm bố thí thì không phải người nghèo, người biết hổ thẹn cũng đã mặc pháp y. Bà đã có hai món bảo bối hiếm có ấy, nên chắc chắn không còn nghèo. Hãy xem những người giàu có đầy tiền của châu báu trên thế gian này, không biết bố thí, không biết hổ thẹn, đó mới thật là người ngu, người bần vậy.

Bà lão nghèo nghe lời chỉ dạy, vui mừng phấn khởi, tâm đầy hỷ lạc, đầy hy vọng về tương lai, bà quên thân mình ô uế bưng chút nước cơm đựng trong mẻ sành đem cúng dường Tôn giả. Tôn giả cũng cung cung kính kính tiếp nhận, và để cho bà khỏi nghi ngờ, Tôn giả liền uống cạn miếng nước cơm. Bà lão thấy thế vui mừng vô hạn.

9- QUAN SÁT TÌNH HÌNH TÍN CHÚNG

Tôn giả không tính toán cho đời sống riêng mình, cho nơi cư trú của mình, chỉ bận lo mang niềm vui Phật pháp đến cho người, đợi cho tất cả đều tin tưởng hiểu biết chân lý của đức Phật xong, tôn giả liền rời thành Khoáng Dã đi nơi khác.

Lấy cái họa của giáo đoàn làm cái họa của mình, hoàn thành việc đáng làm rồi liền lui gót, không mong cầu cho mình mà chỉ làm việc vì Phật pháp, cái tư cách và chí nguyện cao cả của bậc thánh ấy thật đáng cho chúng ta khâm phục.

10- A-NAN TẶNG BÁT

Trong lúc Phật sắp ban hành điều luật này, A-nan được cúng một cái bát nước Tô-ma rất quý, A-nan định đem tặng Đại Ca-diếp, nhưng tôn giả Đại Ca-diếp còn bận du hóa nước ngoài, không có mặt ở thành Xá-vệ. Nếu y theo giới luật không được chứa bát dư thì A-nan không thể để lại mà kịp tặng cho Đại Ca-diếp. A-nan chỉ còn cách đem ý ấy lên bạch Phật. Phật hỏi:

- Còn mấy ngày nữa Ca-diếp mới về lại Xá-vệ?

- Bạch Thế Tôn! Khoảng mười ngày trở lại tôn giả mới về đến.

Đức Phật bèn triệu tập đại chúng, giảng dạy pháp Đầu-đà chơn chánh, và khen ngợi Đại Ca-diếp vâng giữ hạnh Đầu-đà không sái phạm mảy may, dạy Lục Quần Tỳ-kheo nên noi theo hạnh của Tôn giả mà tu tập. Và sau cùng, vì sự tình A-nan đã trình bày, đức Thế Tôn đặc biệt sửa đổi giới điều này, cho phép được chứa bát dư trong mười hôm.

Theo dõi sự kiện này, chúng ta có thể biết địa vị của tôn giả Đại Ca-diếp đối với tâm tưởng của đức Phật, và trong giáo đoàn rất cao vậy.

11- ƯA TU KHỔ HẠNH

Đại Ca-diếp một bề ưa thích tu tập khổ hạnh Đầu-đà. Nói về sự tu tập của Tôn giả, từ trẻ cho đến tuổi già, không kể tình hình ra sao, hoặc là mọi người ân cần nói thế nào, Tôn giả không hề từ bỏ khổ hạnh.

Phàm người tu khổ hạnh Đầu-đà phải đủ mười hạnh:

1- Cầu chọn nơi vắng vẻ.
2- Chỉ sống bằng cách khất thực.
3- Thường ở một chỗ.
4- Ngày ăn một bữa.
5- Khất thực không chọn lựa.
6- Chỉ có ba y, bình bát, toạ cụ.
7- Thường ngồi tư duy.
8- Thường tịnh tọa chỗ trống.
9- Mặc y phấn tảo.
10- Thường ở nơi gò mả.

12- ĐỨC PHẬT CHIA NỬA TÒA
Tôn giả niên lạp càng ngày càng cao, đối với việc khổ hạnh đầu-đà càng lúc càng tinh cần.

Một hôm, đức Phật không thể nhìn thấy Tôn giả tuổi cao tác lớn mà cứ sống dầu dãi nắng mưa, ngày đêm phong sương như vậy, nên muốn khuyên Tôn giả bớt khổ hạnh.

Đức Phật và Đại Ca-diếp, tuy là hai mà tâm chỉ một, thầy trò thông cảm nhau. Đức Phật đãi Ca-diếp như khách, như bằng hữu, nhưng tôn giả không quên lễ nghĩa, dùng tư cách đồ đệ mà đáp lại, khiến cho mối tương giao sư đệ càng thêm thâm sâu nồng hậu.

Chúng ta nghe nói đến đức Phật hoặc các vị La-hán, đều tưởng tượng rằng các vị ấy lạnh lùng nghiêm nghị như cây khô, đá lạnh, đối với thế gian chẳng lưu chút tình cảm nào. Thật ra không phải thế. Các vị ấy đã biến đổi nhơn tình tạp nhiễm thành một thứ tình cảm tự nhiên cao thượng, gọi đó là từ bi. Hạt giống từ bi nẩy mầm từ cây Trí tuệ, như đá nam châm thu hút chúng sanh, khiến chúng sanh sớm chiều gần gũi tiếp cận được nhân cách cao thượng ấm áp ấy, liền sửa đổi tập khí của mình.

13- NỐI TIẾP Y BÁT CỦA ĐỨC PHẬT
Ngày tháng thoi đưa, nhanh như điện chớp, ứng thân hóa độ thế gian của đức Thế Tôn đã mãn duyên, vào năm tám mươi tuổi, Ngài báo tin sẽ nhập Niết-bàn.

Cũng năm ấy, trước tiên là Mục-kiền-liên tuẫn nạn, sau đến Xá-lợi-phất hồi hương nhập diệt, hiện tại đức Thế Tôn lại sắp nhập Niết-bàn, trong Tăng đoàn đâu đâu cũng thấy vẻ sầu thảm. Vì sự lưu truyền của chánh pháp và lãnh đạo Tăng đoàn, đức Thế Tôn đã sớm chú ý chọn người tiếp nối. Hiện nay trong Tăng đoàn, tôn giả Đại Ca-diếp già nua, và A-nan tuổi trẻ được coi như là những nhân vật có thể kế thừa Thế Tôn. Nhất là tôn giả Đại Ca-diếp. Ở trên hội Linh Sơn đức Thế Tôn đã ngầm trao “Chánh pháp nhãn tạng. Niêm hoa vi tiếu” là điển tích tối sơ của Thiền tông

...Tâm tư của Tôn giả rất thâm trầm. Lúc ấy kim quan của đức Phật an trí tại chùa Thiên Phủ. Hàng đệ tử vây quanh buồn bã khóc than, và chuẩn bị tưới dầu thơm, sắp củi lửa để làm lễ trà tỳ, nhưng đốt hoài không cháy. Bảy ngày sau, Đại Ca-diếp về đến, từ trong kim quan đức Phật ló hai chân ra, tôn giả trông thấy không cầm được nước mắt, chắp tay đảnh lễ thưa rằng:

- Đức Thế Tôn từ bi! Bậc cứu thế vĩ đại. Xin an tâm, chúng con sẽ đi theo bước chân của Ngài!

Đại Ca-diếp nói xong, đức Phật thâu hai chân vào. Và lúc ấy, giữa những tiếng khóc than kinh động của chúng đệ tử, đức Phật dùng “Tam muội chân hỏa” tự trà tỳ kim thân.

Từ đây trách nhiệm lưu truyền đại pháp, đã do tôn giả Đại Ca-diếp đảm đương.

14- KẾT TẬP TAM TẠNG THÁNH ĐIỂN
Phật diệt độ khoảng chín mươi ngày sau, các Tỳ-kheo mở hội nghị kết tập pháp điển.

Ban đầu, Đại Ca-diếp cũng một phen khổ tâm khi chọn vị trí kết tập. Tinh xá Trúc Lâm thì quá rộng, ở đấy lại không có nhiều các Tỳ-kheo ly dục chứng quả cư trú. Sau cùng Tôn giả chọn một thạch động trong vùng núi phía Đông Nam của thành Vương Xá, tên gọi là động Tất-ba-la-diên.

Trong rừng núi tịch tịnh, hang động rộng rãi, chính là một cảnh thoát trần trong những cảnh ngoài vòng trần ai. Năm trăm vị A-la-hán đều suy cử tôn giả Đại Ca-diếp, A-nan-đà, A-na-luật, Ưu-ba-ly, Phú-lâu-na làm bậc thượng thủ. Song tôn giả Đại Ca-diếp với tư cách chủ tọa đã cử tội A-nan trước đại chúng, quở trách A-nan chưa chứng Thánh quả, mỗi tội bỏ xuống một thẻ, sáu tội sáu thẻ, oai nghiêm như đức Phật, A-nan dù kiêu khí ngất trời nhưng trước mặt Tôn giả cũng chẳng dám phản kháng, chỉ một bề nhận lỗi...

Tác phong của Tôn giả là bảo thủ. Tôn giả không giống tinh thần tiến bộ và tích cực của Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên. Phật giáo ngày nay có khuynh hướng thối ẩn, cư trú rừng núi bảo thủ chú trọng khổ hạnh, đã chịu ảnh hưởng của tôn giả Đại Ca-diếp rất nhiều, điều này là sự thực không thể phủ nhận.

Tôn giả Đại Ca-diếp không có thần thông quảng đại, nhưng đối với bất cứ điều khó khăn nào đều có thể kiên nhẫn, an nhiên mà vượt qua. Đem ánh sáng chân lý của đức Phật cao vọi như Thái Sơn chiếu khắp đại địa, lưu truyền đến đời vị lai vô cùng, đầy đủ tư cách ấy thì trong Tăng đoàn đương thời không có ai sánh bằng Tôn giả.

Ngày kết tập thứ hai trở đi, A-nan tụng kinh, Ưu-ba-ly tụng luật, Phú-lâu-na luận nghị. Đó là sự nghiệp thiêng liêng lớn lao của cuộc kết tập tam tạng lần thứ nhất, đã thuận hòa hoàn thành như thế.

Chúng ta được thừa hưởng cam lồ pháp thủy của đức Phật, chúng ta có kho tàng Thánh điển mênh mông như đại hải kia, chúng ta phải cảm tạ tôn giả Đại Ca-diếp!

15- LONG HOA TAM HỘI NGUYỆN TƯƠNG PHÙNG
Hai mươi, ba mươi năm sau lần kết tập ấy, Đại Ca-diếp bỗng nhiên khởi ý nghĩ yếm thế. Ngài nghĩ “Đức Thế Tôn là bậc đại sư của ta, ân sâu như đại hải, đối xử với ta tình như cha mẹ yêu con, ta đã vì đời sau mà lưu truyền đại pháp, có thể tính là báo đáp được ân Phật một phần trong muôn phần. Hiện nay, ta đã già yếu, thân thể lão hủ này còn luyến tiếc gì, tốt hơn ta nên nhập Niết-bàn”.

Lúc ấy Ngài đã hơn một trăm tuổi.

Ngài liền đến nơi A-nan đang du hóa, phó chúc pháp tạng, yêu cầu A-nan tiếp nối sứ mạng, và sau đó bay lên hư không đến tại các nơi có tháp thờ Xá-lợi của Phật, hết thảy tám chỗ, cúng dường lễ bái.

Tôn giả trở về thành Vương Xá, định đến cáo từ vua A-xà-thế, nhưng quân hầu bảo vua còn đang ngủ. Tôn giả bèn rời thành, đến núi Kê Túc phía Tây Nam, cách đó tám dặm. Ngọn núi này có ba đỉnh cao chót vót, hình dáng như chân con gà. Phân nửa núi trở lên là rừng cây rậm rạp, phân nửa núi trở xuống là thảm cỏ trải dài.

Khi Tôn giả đến dưới chân núi, thì ba đỉnh núi từ từ tách ra thành một nơi tọa thiền bên trong rất đẹp. Tôn giả liền lấy cỏ trải tòa mà ngồi và tự nói: “Hôm nay ta sẽ dùng sức thần giữ gìn nhục thân này, dùng y phấn tảo che phủ trên mình, để đến sáu mươi bảy ức năm sau, Bồ-tát Di-lặc giáng sanh thành Phật, ta sẽ đến bái kiến Ngài, giúp Ngài giáo hóa chúng sanh.” Nói xong, ba ngọn núi khép lại như cũ, giấu kín tung tích Tôn giả.

Vua A-xà-thế nghe tin Tôn giả nhập diệt, rất đỗi bi thương! Lập tức đến gặp tôn giả A-nan, yêu cầu cùng vua đi đến núi Kê Túc. Khi hai người vừa đến nơi, ba ngọn núi lại tách ra, cả hai cùng thấy Tôn giả Đại Ca-diếp đoan tọa nhập định trong đó, trên thân phủ đầy hoa Mạn-đà-la. Nhà vua cùng A-nan cúng dường lễ bái rồi lui ra. Núi tự nhiên khép lại. Ngoái lại nhìn rừng núi tịch tịnh, để sáu mươi bảy ức năm sau, tôn giả Đại Ca-diếp đã trường kỳ giữ gìn y bát của đức Phật, ở tại núi này đợi đức Di-lặc Tôn Phật đến thăm, lại trao y bát ấy cho Ngài. Phong độ lưu truyền giáo hóa ấy, cả hai đều khâm phục vạn phần.

Câu chuyện diễm lệ, huyền ảo này có ghi chép nhiều trong kinh điển. Từ đó, chúng ta có thể nhận ra tư cách vĩ đại của tôn giả, qua ngàn vạn kiếp không lu mờ!

Có người nói: Tinh thần của các bậc vĩ nhân đã hòa cùng tạo hóa, thâm nhập vào chỗ trí áo của trời đất, mà sinh mạng trường tồn với thời gian vô tận. Từ cố sự của tôn giả Đại Ca-diếp, chúng ta có thể thấy sinh mệnh của tôn giả đã vô cùng vô tận, và như thế, giáo pháp của đức Phật nói ra cũng lưu truyền vô cùng vô tận vậy.

Một đời của tôn giả Đại Ca-diếp thật huy hoàng lộng lẫy. Từ lúc sanh ra dưới gốc cây, đến đúc tượng vàng chọn vợ, mười hai năm danh nghĩa phu thê, cho đến khi quy y với Phật bên tháp Đa Tử, xuất thân là con nhà giàu mà kham nhẫn tu tập khổ hạnh, niêm hoa vi tiếu trên hội Linh Sơn, nối tiếp chánh pháp của Phật, nhiếp giữ đại pháp cho đến hơn trăm tuổi, không hề buông lơi một bước, phản đối A-nan tham dự kết tập mà đến khi A-nan khai ngộ chứng quả lại nguyện đem Phật pháp giao phó cho A-nan kế thừa. Đó thật là cuộc đời của một nhân vật vĩ đại, đáng cho chúng ta hộ niệm, học tập.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thập đại đệ tử Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Toát yếu 8: CA CHIÊN DIÊN LUẬN NGHỊ ĐỆ NHẤT

1- THI TÀI DIỄN GIẢNG VỚI ANH
Tại thôn Di Hầu, nước A-bàn-đề (Avanti) miền Nam Ấn, có một gia đình giàu có dòng Bà-la-môn, được dân chúng toàn thôn kính nể.

Tôn giả Ca-chiên-diên vốn tên gọi là Na-la-đà, con thứ hai của quốc sư Ca-chiên-diên. Ca-chiên-diên là họ, về sau Tôn giả nổi tiếng nên mọi người dùng họ để thay tên gọi.

2- LỜI CHỈ GIÁO CỦA CỮU PHỤ
Tiên A-tư-đà là cậu ruột của Ca-chiên-diên, trưởng huynh của mẫu thân chàng. Ông là vị tiên nhơn bác học thần thông của Ấn Độ đương thời. Khi đức Thế Tôn đản sanh làm Thái tử, ông đã nhận lời mời của vua Tịnh Phạn, đến nội cung xem tướng Thái tử. Xem tướng xong, ông nói với vua Tịnh Phạn:

- Đại vương! Vị Thái tử hiền minh này tương lai nhất định sẽ xuất gia học đạo, và thành tựu quả Phật. Thật đáng tiếc cho tôi đã già quá rồi, không kịp đợi Ngài thành Phật, tôi đã qua đời. Tuy không thể lãnh thọ giáo lý của Ngài, nhưng tôi sẽ dạy đệ tử tôi theo Ngài học đạo.

Ngày nọ, A-tư-đà dắt Ca-chiên-diên xuống núi, đến vườn Lộc Dã nước Ba-la-nại, xây cất một ngôi tịnh thất và an trụ luôn ở đó. Tịnh thất hoàn thành, A-tư-đà bảo Ca-chiên-diên mỗi ngày cầu đảo ba lần, cầu cho đức Đại giác Phật-đà mau đến ngày chứng quả. A-tư-đà lại bảo cháu:

- Ca-chiên-diên! Theo ta tính quẻ dự đoán, đức Phật chẳng bao lâu sẽ thành đạo. Sau đó nhất định sẽ đến Lộc Dã Uyển mà quay bánh xe pháp trước nhất. Ta chỉ biết được như thế, còn đức Phật giác ngộ chân lý gì, e rằng ta không có phước để biết điều ấy. Con nên nhớ kỹ điều này, đức Phật thành đạo rồi, con phải mau mau đi tìm Ngài cầu đạo và tu học đó nhé!

Ít lâu sau, A-tư-đà chấm dứt thọ mạng, từ giã cõi đời. Ca-chiên-diên không còn thầy, từ đó phát huy học vấn và tài năng. Cha là quốc sư, cậu ruột là đại tiên A-tư-đà, tuy Ca-chiên-diên không hề nghĩ tới điều này nhưng quần chúng trọng vọng nhàø học giả không để đâu cho hết. Đáng tiếc, Ca-chiên-diên bị chìm trong danh văn lợi dưỡng, quên đi di ngôn của cậu là phải đi cầu đạo với đức Phật.

3- BÀI KỆ THẦN BÍ
Ca-chiên-diên tự cho mình đã đắc đạo, xứng đáng cho người đời cúng dường, đâu cần mong đợi đức Phật xuất thế làm gì. Do đó, vị thầy thân thiết qua đời không lâu, ông chẳng còn cầu đảo để sớm gặp Phật-đà.

Thời gian sau, tại miền đất hoang gần thành Ba-la-nại, người ta đào bới được nhiều di tích của một cổ thành mấy ngàn năm trước. Trong ấy có một tấm bia đá trên mặt khắc một lối chữ mà chẳng ai biết là thứ chữ gì. Dường như đó là một bài kệ, nhưng không ai đọc ra. Thiên hạ đồn rằng: Ai mà đọc được tấm bia đá đó, chắc chắn vị đó là một bậc đại giác mới hiểu được như vậy.
Ai là vua trong các vị vua?
Ai là thánh trong các bậc thánh?
Thế nào là người ngu?
Thế nào là bậc trí?
Làm sao để lìa cấu uế?
Làm sao để đạt được Niết-bàn?
Ai là kẻ chìm trong biển sanh tử?
Ai là người tiêu diêu nơi cõi nước giải thoát?
4- THỈNH GIÁO ĐỨC PHẬT
Ca-chiên-diên đã hứa chắc với nhà vua, trở về khảo cứu triệt để, thiệt là cái ý chỉ của bài kệ chẳng thể dùng trí tưởng mà truy tầm cho được. Phen này chỉ có một bậc đại giác ngộ mới có thể giải đáp được thôi.

...Đức Thế Tôn chẳng cần suy nghĩ, như đại chung vừa chạm nhẹ đã vang tiếng, Ngài dùng kệ đáp lại rằng:
Vua trong các vua là vua cõi trời thứ sáu.
Thánh trong các thánh là đức Phật đại giác.
Bị vô minh nhiễm ô gọi là kẻ ngu
Hay diệt hết các phiền não là bậc trí.
Tu đạo, trừ tham, sân, si tức là lìa cấu uế.
Hoàn thành giới định huệ tức chứng Niết-bàn.
Người chấp trước nơi ngã pháp chìm trong biển sanh tử
Người chứng được pháp tánh duyên khởi dạo chơi trong cõi giải thoát
.

5- KHUYÊN NIỆM TAM BẢO
Ca-chiên-diên thiên tư thông tuệ, rốt cuộc bị Trí tuệ cao siêu và nhân cách vĩ đại của đức Phật cảm hóa, trở thành một đệ tử được khai ngộ và chứng quả trong Tăng đoàn. Ca-chiên-diên rất vui mừng, chẳng những tự mình từ đây được cứu độ, mà còn làm toại nguyện ngày xưa của cậu mình là A-tư-đà.

... - Ông hãy xưng niệm Tam bảo, để nương nhờ oai đức Tam bảo khiến tâm ông được thanh tịnh, bệnh tình cũng thuyên giảm đi.

- Bạch Tôn giả! Chúng con quy y Tam bảo là mong ủng hộ Tam bảo, tịnh hóa nhân gian. Chúng con đã hiến dâng tất cả tài vật của chính mình, thì không nên trở lại cầu mong nơi Tam bảo.

- Thật ra là như vậy, thế gian vô thường không thể cầu xin Tam bảo cho được thường trụ, thân thể bệnh hoạn không thể cầu Tam bảo cho mạnh luôn. Tín ngưỡng là hy sinh cá nhân nhỏ hẹp để thành tựu đại ngã. Đàn việt có chút ít bệnh khổ, chúng tôi có thể đến thuyết pháp không cần phiền đến Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu sức người không có cách giải cứu, thành tâm cầu nguyện Tam bảo, thì từ quang phổ chiếu, ông làm như vậy chẳng có lỗi chi.

Bát Thành nghe tôn giả nói, mỗi ngày đều một lòng nhất tâm xưng niệm Tam bảo, căn bệnh bất trị của ông dần dần thuyên giảm.

Điều đó, tuy Phật pháp rộng lớn vô biên, nhưng cũng là do Ca-chiên-diên lưu tâm đến người bệnh, dùng nước cam lồ từ bi của Phật pháp trị liệu cho nỗi khổ của chúng sanh.

6- TUYÊN NÓI PHÁP BÌNH ĐẲNG
Ca-chiên-diên có khi tu học bên đức Phật, có khi một mình đi vân du giáo hóa các nơi. Phương pháp giáo hóa của Ca-chiên-diên và Phú-lâu-na có chỗ bất đồng. Khi Phú-lâu-na thuyết pháp thường là tập hợïp ngàn vạn thính chúng đến nghe, còn tôn giả Ca-chiên-diên thì thích thuyết pháp riêng từng người.

Từng người, từng người một, đối diện mà giảng dạy, đó là lối thuyết pháp thân thiết nhất, khiến chân lý dễ dàng thâm nhập trong tâm người nghe. Quả thật chẳng lầm, không kể là ai ai, chỉ cần nghe Ca-chiên-diên nói vài câu liền có ấn tượng đẹp và niềm tin nơi lời nói của Tôn giả.

- Tôn giả! Tôi nghe nói Ngài vốn dòng dõi Bà-la-môn, đó là một chủng tộc cao quý nhất, còn Phật-đà dòng Sát-đế-lợi, mà nay Ngài trở lại quy y với ông ta, làm đệ tử ông ta, thiệt là chẳng ép uổng lắm sao?

... - Này đại vương! Ngày xưa tôi là Bà-la-môn tôi cũng nghĩ như đại vương. Nhưng sau khi nghe Phật-đà giáo thị, tôi mới biết đó là nhận thức sai lầm. Trong xã hội chia ra giai cấp Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phệ-xà, Thủ-đà-la các chủng tộc không đồng. Còn trên nghề nghiệp thì có tôn giáo, chánh trị, thương nghiệp, nông công phân loại. Điều ấy không sai, nhưng do đó mà chia cách ra, giải thích về dòng dõi có hơn kém, thiệt là phi pháp. Người trong dòng dõi nào cũng có thiện có ác. Hiện tại trong chủng tộc Bà-la-môn nhiều người làm những điều ác như sát sanh, tà dâm, tà kiến, lại nói rằng là người tôn quý ư? Người tôn quý hay hạ tiện không phải do dòng họ, người tu đạo làm lành, giác ngộ chứng quả, thì chẳng kể thuộc chủng tộc nào đều là bậc tôn quý, là bậc nhất, là thanh tịnh cả.

Dưới lời thuyết giáo ấy, vua Ma-thâu-la chợt giác ngộ, nhà vua tự nói:

- À! Thì ra đó là lỗi của ta. Trong đất nước này, nhà tù chỉ nhốt toàn chủng tộc Thủ-đà-la, còn Bà-la-môn phạm pháp thì không sao cả. Hèn gì, xã hội hỗn loạn, nhân dân ta thán bất bình.

7- LUẬN VỀ TƯ CÁCH BẬC TRƯỞNG THƯỢNG
Ca-chiên-diên theo đức Phật, tuyên bố chủ trương “Bình đẳng giữa bốn chủng tộc”. Điều ấy khiến nhiều Bà-la-môn không chịu được. Hễ gặp cơ hội họ liền tìm Ca-chiên-diên chất vấn, họ nghĩ rằng “Không triệt hạ Ca-chiên-diên thì các Bà-la-môn từ nay không cất đầu lên nổi”.

- Tôi thấy cử chỉ và lời nói của ông thô tháo như thế, tôi mới nói ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta kính trọng. Đừng kể là Bà-la-môn, dầu cho tám, chín chục tuổi, tóc bạc răng rụng mà không chân chánh tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được phiền não, tham sân tật đố, người đó chỉ đáng gọi là thiếu niên. Như các người tuổi trẻ hai mươi quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã thoát khỏi sự trói buộc của ái dục, không còn tham cầu nơi thế gian, không có chút xíu ý niệm bất bình sân hận. Được như vậy, chúng ta mới gọi người đó là bậc trưởng thượng, là bậc lão túc, đáng được tất cả chúng ta cung kính.

8- CÓ ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHẢI Ở TUỔI TÁC
Thuyết phục một Bà-la-môn râu bạc, từ đó chẳng được an ổn vô sự gì, danh tiếng Ca-chiên-diên càng to, các giáo đồ Bà-la-môn càng không thể tha thứ Tôn giả.

9- GIẢI ĐÁP NGUYÊN NHÂN TRANH CÃI

- Tôn giả! Tôi thấy trên thế gian, Sát-đế-lợi tranh đấu với Sát-đế-lợi, Bà-la-môn tranh với Bà-la-môn, vì lý do gì mà họ tranh đấu mãi như vậy?

Ca-chiên-diên đáp:

- Vì tham dục mê hoặc.

- Thưa Tôn giả! Vậy chớ Tỳ-kheo các Ngài tranh cãi nhau lại là lý do nào?

- Do ngã kiến và pháp chấp.

10- RĂN DẠY BỌN THIẾU NIÊN VÔ LỄ

Một hôm, đám thiếu niên con em của Bà-la-môn Lỗ-ê-già lên núi chặt củi, bọn chúng đi ngang một hang đá thấy Ca-chiên-diên đang tĩnh tọa bên trong, chúng liền kêu réo nhau ồn ào, đem Tôn giả làm trò đùa với nhau.

- Ê! Lại đây! Mày lại đây coi Sa-môn đầu trọc ở đây nè!

- Nhìn làm quái gì? Lão trọc ấy chẳng có thú vị gì cả!

Đám đệ tử của Lỗ-ê-già nhao nhao mỗi người một câu rần rộ ngoài cửa động, trong bọn này có một tên can gián:

- Úy! Các bạn đừng chế nhạo người ấy, ổng là người thầy mình tôn kính lắm đó.

Tuy vậy, bọn thiếu niên bướng bỉnh vẫn cười đùa, chế nhạo ầm ĩ, thậm chí còn lấy đá chọi vào hang.

Ca-chiên-diên đang tĩnh tọa phải đứng dậy bước ra ngoài, răn dạy bọn chúng một phen:

- Này các chú! Lúc trước các Bà-la-môn tu hành đàng hoàng, cấm tuyệt ngũ dục. Bây giờ thì Bà-la-môn cưới vợ đẻ con, giống như người thế tục. Các chú xem hành vi của các chú chẳng khác bọn trẻ nít hoang đàng vô lễ, bộ thầy các chú dạy như vậy đó hả?

Thái độ của Ca-chiên-diên oai nghi như sư tử làm bọn thiếu niên nép một bên chẳng dám hó hé, nhưng trong bụng rất căm tức. Lúc về nhà, bọn chúng liền mách lại với Lỗ-ê-già, nói Ca-chiên-diên đã mắng chửi Bà-la-môn thế nọ, thế kia.

Lỗ-ê-già nghe xong, nổi giận nói rằng:

- Ta đối với Ca-chiên-diên rất tôn kính mà ông ấy trở lại mắng nhiếc chúng ta, ta phải đi tìm ông ấy hỏi cho ra lẽ!

Lỗ-ê-già sát khí đằng đằng tức tốc chạy đến thạch động của Tôn giả, phen này không làm lớn chuyện không xong. Nhưng khi gặp Ca-chiên-diên nghiêm trang, ôn hòa thuật lại những lời của bọn trẻ và lời nói của mình cho ông ta nghe. Lỗ-ê-già cảm thấy xấu hổ, cúi đầu chẳng nói lời nào.

11- THUYẾT MINH LÝ VÔ THƯỜNG
Không rõ lý vô thường sẽ bị màu sắc rối ren của thế gian lừa đảo. Kìa là thiên nhiên núi xanh sông biếc, kìa là loài người sức khỏe tráng kiện, đây xã hội, đèn hồng rượu lục, mấy thứ ấy mới nhìn qua thật thú vị vô cùng, mà cũng thật là cạm bẫy hại người, vì đã chứa sẵn sự vô thường lo sợ.

Suy nghĩ kỹ mà xem, thế gian chỉ có vô thường là trên hết, nơi nơi đều là hư ngụy, giả dối lừa đảo. Chỉ có chân lý nhân quả và nghiệp lực mỗi người tạo tác là không hư ngụy, không dối gạt thôi. Nhân quả và nghiệp lực như bóng theo hình, dù sống dù chết chúng đều theo dính bên ta.

Vì thế, thưa các vị đại thiện tri thức! Người tu chúng ta cần phải có tinh thần khiêu chiến với con ma vô thường. Theo lời chỉ dạy từ bi của Phật-đà, chúng ta cần phải nỗ lực khẩn thiết tu tập, nhận thức được bộ mặt thật của chính mình, phá tan thế gian vô thường, chứng đắc sinh mệnh vĩnh cửu. Chúng ta không cầu sống, mà cũng chẳng bị chết!”

12- NÓI ĐẠO LÝ PHÁT TÀI CHO KẺ NGHÈO
- Ồ, cách này rất đơn giản. Cô đã bị bần cùng làm khổ, thì cô cứ đem bần cùng bán quách cho người khác đi.

- Bần cùng mà bán cho ai? – Cô nọ lại la lên – Ông lại nói giỡn, bần cùng mà đem bán được thì trên cõi đời này không còn người nghèo. Có ai mà chịu mua cái nghèo bao giờ?

Ca-chiên-diên trả lời:

- Bán cho tôi, tôi chịu mua.

- Bần cùng có thể bán được, mà cũng là ông mua. Nhưng ở đời này ai biết cách bán nó ra sao.

- Hãy bố thí! Tôn giả khai thị tiếp. Cô nên biết sự giàu nghèo ở đời đều có nhân duyên. Người nghèo sở dĩ nghèo hoài là vì đời trước không chịu bố thí và tu phước, người giàu sở dĩ giàu sang sung sướng là vì đời trước họ đã bố thí và tu phước. Vì vậy bố thí, tu phước là cách bán nghèo mua giàu tốt nhất đó.

Người nữ tỳ nghe xong, Trí tuệ khai thông, đến hôm nay cô mới biết cách làm giàu. Nhưng cô lại đau khổ mà hỏi rằng:

- Thưa Tôn giả! Ngài dạy chí phải, con đã biết cách để được phát tài. Nhưng con nghèo quá mức không có chút gì cả, cái vò nước trong tay con cũng là của chủ nhà, họ giữ của còn hơn giữ mạng sống, Ngài bảo con bố thí cái gì bây giờ?

Ca-chiên-diên đưa bình bát cho cô ta, nói:

- Bố thí không cần phải là tiền bạc, thấy người khác bố thí mà mình phát tâm vui vẻ cũng được. Cô hãy múc nước đổ đầy bát cho tôi, đó là cô đã bố thí rồi!
Người nữ tỳ liền hiểu rõ ý nghĩa bố thí, liền làm theo lời dạy. Về sau nhờ công đức cúng nước cho Tôn giả, cô được sanh lên cõi trời Đao Lợi.

Ca-chiên-diên đầy đủ phương tiện thuyết pháp, gọi rằng Luận Nghị Đệ Nhất, thật là danh bất hư truyền.

13. ĐỔI ÁI TÌNH THÀNH TỪ BI
Một hôm, Tôn giả đi giáo hóa tại một nước rất xa xôi tên Ba-la-lê-viên và cư trú trong rừng trúc của một trưởng giả.

Đương lúc đó, vua nước ấy – Văn Đồ Vương gặp một biến cố đau đớn, đó là vị đệ nhất vương phi mà vua rất yêu dấu chẳng may mệnh bạc. Nhà vua buồn khổ muôn phần, bỏ ăn bỏ uống, không ngó ngàng gì đến triều chánh, ngày nào cũng khóc lóc thảm thiết.

... - Muôn tâu đại vương! Trong nước ta hiện nay có một đại đệ tử của đức Phật đang du hóa, đó là tôn giả Ca-chiên-diên, một bậc đại thần thông, đại oai đức, Trí tuệ uyên bác không vấn đề gì không hiểu, ngay cả văn tự Phạm Thiên trên tấm bia cổ Ngài cũng biết được! Tôn giả biện tài vô ngại, mỗi khi nói chuyện gương mặt thường nở nụ cười. Xin thỉnh đại vương hãy đến gặp Ngài, chắc chắn sẽ có nhiều lợi ích.

- Này đại vương! Hãy đem nhánh cây này về cung, mà giữ cho nó tươi xanh hoài, đừng khô héo, được không?

- Điều đó không thể được, cây đã lìa cội rễ, làm sao mà sống, mà xanh tươi.

- Vậy thì phu nhân đã hết nghiệp, thọ mạng đã chấm dứt, mà bảo sống trở lại, chuyện ấy làm được sao?

Ngày nay khói lửa tràn lan trên thế giới, chúng ta mong mỏi tinh thần Nghị luận đệ nhất của Tôn giả Ca-chiên-diên sống lại trong Tăng đoàn Phật giáo để thuyết phục các nhà lãnh tụ hiếu chiến kia.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thập đại đệ tử Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Toát yếu 9:A NA LUẬT THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT

1- TUỔI ĐỒNG NIÊN VÔ ƯU
Trong kinh A-Di-Đà phần giới thiệu chúng hội vân tập, có nêu lên mười sáu vị đại A-la-hán, trong đó A-na-luật-đà là một, và đó cũng chính là tôn giả A-na-luật.

A-na-luật sanh trong dòng dõi vua chúa, vốn là đường đệ của Phật. Sau ngày Tịnh Phạn vương băng hà, đại tướng Ma-ha-nam lên nối ngôi, là anh ruột của A-na-luật.

Tuổi thơ của A-na-luật, vốn là một đứa trẻ thiên tư hoạt bát, rất thông minh mẫn tiệp, đối với âm nhạc, kỹ thuật dường như có tài đặc biệt. Năm bảy, tám tuổi thường ca hát trước đông người, làm những điệu bộ khôi hài khiến ai nấy đều bật cười. Đó là một chú bé được mọi người yêu mến.

...Nhưng A-na-luật chưa từng biết ý nghĩa của câu “Đã hết” hoặc “Không có” là gì, cứ theo má má nheo nhéo đòi cho được cái “bánh không có”. Má má muốn trêu cậu, cầm một cái hộp không đưa cho, để ngỏ ý cho biết hôm nay nhà không còn cái bánh nào.

Nhưng lạ thay, do phước phần của cậu bé, khi má má đem hộp không đến, thì trong hộp lại tự nhiên đầy bánh. A-na-luật vui mừng, vì được một hộp đầy nhóc cái “bánh không có”.

Từ đó về sau, mẫu thân không dám xem cậu như mọi chú bé tầm thường. Qua câu chuyện hộp bánh không mà thành hộp bánh đầy, nhất định lai lịch của A-na-luật rất phi phàm, về sau sẽ được phước báo rất lớn.

2- NHIỆT TÂM XUẤT GIA
Đến tuổi trưởng thành, A-na-luật đã là một thanh niên tướng mạo đường đường, không còn là cậu bé ngây thơ nữa. Chàng dần dần hiểu được cuộc đời, nhận mặt kiếp nhân sanh, nhằm lúc ấy đức Phật thành đạo, trở về thành Ca-tỳ-la thuyết pháp giáo hóa.

Bảy ngày sau, hai vị vương tử này cùng với A-nan, Đề-bà, Kiếp-tân-na, Bà-sa, Nan-đề cả thảy bảy người đồng lén bỏ nhà ra đi, dẫn theo chàng thợ cạo Ưu-ba-ly. Họ tìm những con đường Phật thường đến du hóa. Khi đến mé rừng thôn Di-na, các vương tử cởi bỏ y phục, bảo Ưu-ba-ly cạo hết râu tóc cho bảy người, và khoác ca-sa, đến ra mắt Phật.

3- CỰ TUYỆT THIẾU NỮ CẦU HÔN
Sau khi xuất gia, A-na-luật nghe giảng kinh điển, tập quen lối sống đạm bạc, đối với lời dạy của đức Phật rất hoan hỷ phụng hành.

Tuy chưa chứng quả nhưng được động viên bởi niềm vui Phật pháp, và muốn báo ân đức Phật đã cho phép xuất gia, A-na-luật dự định đi hành khước một phen, làm một chuyến giáo hóa phương xa.

4- LOÀI SÒ ỐC HAM NGỦ
Đạo tâm của A-na-luật rất kiên cố, tuy gặp sắc đẹp mà không xao động, tâm địa của thầy quang minh ai cũng biết. Nhưng, có một phen vì thùy miên, thầy bị đức Phật quở trách nặng nề.

...Tuy đức Phật từ bi nói như vậy, nhưng A-na-luật vẫn nhất quyết không chịu ngủ. Đức Phật lại tìm phương tiện nói:

- Này A-na-luật! Tất cả chúng sanh phải có thức ăn mới sống, lỗ tai dùng âm thanh làm thức ăn, lỗ mũi dùng mùi hương làm thức ăn, lưỡi dùng vị nếm làm thức ăn, thân dùng xúc chạm làm thức ăn, con mắt cũng dùng ngủ nghỉ làm thức ăn, ông không ngủ không được, con mắt sẽ thiếu nhu cầu, mà ngay cả Niết-bàn cũng cần đến thức ăn huống chi con mắt.

- Niết-bàn ăn những gì?

- Niết-bàn dùng pháp không phóng dật làm thức ăn! Không phóng dật mới đến được cảnh giới vô vi, cảnh giới vô vi cũng cần dùng thiền duyệt pháp hỷ làm thức ăn.

Từ câu chuyện trên, chúng ta thấy sự quyết tâm tu đạo của tôn giả A-na-luật. Dù biết rằng mắt sẽ mù mà vẫn không rút lui tâm nguyện, không trái lời tự hứa của mình. Đức Phật chỉ mới nói một câu mà Tôn giả đã phụng hành như thế đủ biết lòng cung kính của Tôn giả đối với Phật như thế nào.

5- ĐỨC PHẬT ĐÍCH THÂN VÁ Y
A-na-luật bị mù khiến cuộc sống của thầy có nhiều điều bất tiện, như đối với việc khất thực, vá y thật khó khăn.

A-nan về đến tinh xá Kỳ Viên định tìm thêm một vị Tỳ-kheo nữa để giúp A-na-luật, nhưng thiên nhĩ của Phật đã nghe hai người đối đáp, khi gặp A-nan, Ngài liền hỏi:

- Này A-nan! Sao ông không nói với ta đi vá y giúp A-na-luật?

A-nan nghe Phật hỏi bất ngờ, vội thưa:

- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc rất tôn quý, những việc vụn vặt của đệ tử chúng con không dám làm bận rộn Thế Tôn. Con và các Tỳ-kheo đều muốn giúp A-na-luật vá y, chúng con đang dự định đi.

- A-nan! Ông đừng nói thế. Ta cũng như các ông, cũng là một phần tử trong Tăng đoàn, ta sẽ đi với ông. Ông khỏi tìm nhiều người làm chi.

Đức Phật nói lời ấy khiến A-nan vô cùng cảm động. Mục-kiền-liên đứng kế bên cũng cảm kích lòng từ sâu thẳm của Phật, các vị đều nguyện theo Phật đến giúp A-na-luật.

Phật đến núi Ba-la-la, bảo A-na-luật:

- A-na-luật! Ông đem hộp kim chỉ ra đây, ta đến để giúp ông vá y.

Nghe tiếng Phật, A-na-luật bất ngờ hoang mang, trong đôi mắt mù bỗng ứa vài giọt lệ, không biết phải nói thế nào đây.

Đức Phật xâu kim, lấy vải trong hộp ra đo cắt. A-nan giúp phụ may luôn. Trong vòng một ngày đức Phật đã vá xong ba y cho A-na-luật.

Một người là tôn sư, là bậc Thế Tôn viên mãn phước đức; một người là đệ tử, là Tỳ-kheo mù lòa, trong tình sư đệ tương quan, thầy từ ái, trò cung kính, đã biểu hiện tình sư đệ của nhà Phật, thân giáo trọng hơn ngôn giáo, đã nêu lên một tấm gương tốt đẹp cho hậu thế chúng ta.

6- NGUYÊN NHÂN SỰ ĐỌA LẠC CỦA PHỤ NỮ
A-na-luật tuy mù lòa nhưng tâm rất sáng suốt, chỉ đối với sinh hoạt hằng ngày của một người mù thật là gặp nhiều điều bất như ý. Từ khi đức Phật vá ba y giúp Tôn giả, Ngài lại càng lân mẫn hơn. Đức Phật dạy Tôn giả tu tập “Kim cang chiếu minh tam- muội” chẳng bao lâu A-na-luật chứng được Thiên nhãn thông.

Trong kinh A Di Đà, đã đặc biệt nêu đại danh A-na-luật trong hàng thánh đệ tử, vì thiên nhãn của Tôn giả có thể thấy được thế giới Cực Lạc ở phương Tây, dùng thiên nhãn để chứng minh cho hàng chúng sanh sơ học dễ sanh lòng tin tưởng vào cõi nước của Phật A-di-đà.

7- TRONG RỪNG TỊCH TỊNH
Mùa an cư thứ mười, Phật trụ tại nước Câu Diệm Di, trong chúng đệ tử lúc ấy nổi lên sự tranh chấp chia rẽ mãnh liệt. Nhân đó, đức Phật thuật lại câu chuyện vua Trường Thọ nhẫn nhục, để nhắc nhở mọi người chấm dứt sự tranh cãi.

Thế Tôn dạy: “Đem oán hận để dẹp oán hận, oán kia không bao giờ dứt, chỉ có từ bi nhẫn nại mới dập tắt lửa oán thù”.

- Các ông tu hành hòa hợp như thế, cuộc sống đầy an lạc, không tranh cãi đàm luận, nhất tâm nhất đức, một thầy một pháp tu như sữa hòa với nước, trên đời không có cái đẹp nào hơn.

Đức Phật khen xong lại nói thêm về sự tu hành của Ngài trong kiếp quá khứ để sách tấn ba người. Từ một nơi gây gổ đến một nơi hòa bình như chốn này, đức Phật rất hoan hỷ. Đối với sự thăm hỏi bất ngờ của Thế Tôn, A-na-luật thật là vui mừng phấn khởi.

8- CẢM HÓA ĐẠO TẶC
Sau khi chứng Thiên nhãn, tôn giả A-na-luật không phải hoàn toàn ở trong chốn rừng núi lo tu tập phận mình, trong tâm Tôn giả thường nghĩ rằng: Hôm nay ta được niềm vui này đều nhờ ân đức của Phật, muốn báo đáp ân ấy ta nên hoằng pháp lợi sanh, ta nên đi hóa đạo những nơi chưa có người bố giáo.
...- Ta là Sa-môn đang tịnh tọa tại chỗ này, bảo rằng ta thấy các ngươi làm quấy thì được, còn nói ta phá hoại việc của các ngươi thì không đúng.

- Ông sẽ đi tố cáo chúng tôi phải chăng?

- Ta chẳng cần đến quan phủ tố cáo làm gì. Tuy ta không báo cáo các ngươi, quan trên không biết được hành động của các ngươi, nhưng nhân quả báo ứng chẳng tha cho các ngươi bao giờ. Ta xót thương cho các ngươi sau này chịu nhiều quả khổ bi thảm, đáng tiếc thay!

Lời nói của Tôn giả đánh thức lương tâm của bọn cướp. Chúng liền vứt khí giới, bỏ lòng hung ác, bản chất thuần thiện hiện bày. Bọn họ sám hối sửa đổi, và lãnh thọ lời chỉ dạy của Tôn giả, đều phát nguyện quy y Phật, thay lòng đổi mặt để làm người tử tế.

9- TU HỌC BÁT ĐẠI NHƠN GIÁC

- Bạch Thế Tôn! Sống trong Tăng đoàn lục hòa, không nghĩ đến lợi riêng, quên bản ngã, điều ấy chúng con làm được, đối với chúng sanh phải hết lòng từ bi, nhân ái, điều ấy chúng con cũng đã biết. Nhưng bạch Thế Tôn! Chúng tại gia rất đông mà hàng đệ tử xuất gia đi vào xã hội để hoằng pháp lợi sanh cũng rất đông, làm thế nào để họ được giác ngộ, tấn nhập Niết-bàn. Xin đức Phật từ bi khai thị.

Đức Thế Tôn bèn hoan hỷ giảng Bát Đại Nhân Giác:

- A-na-luật! Ông hỏi điều ấy rất hay, ông đã nghĩ đến vấn đề cho người tu học Bồ-tát đạo, ta sẽ vì ông giảng nói Bát Đại Nhân Giác, hàng đệ tử Phật nên chí thành tụng niệm luôn ngày lẫn đêm.

10- CÂU CHUYỆN TRONG NHỮNG NĂM CUỐI
Tôn giả hoạt động bên ngoài Tăng đoàn như thế nào, thì trong giáo đoàn đức Thế Tôn cũng đãi ngộ Tôn giả như thế đó. Cuộc đời của Tôn giả nhất định có nhiều sự tích vĩ đại huy hoàng. Hiện tại chúng ta không có nhiều tài liệu để thuật lại, chúng ta chỉ biết rằng tôn giả cũng như các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… các đại đệ tử đều địa vị như nhau trong Tăng đoàn.

A-na-luật diệt độ lúc nào? Ở đâu? Chúng ta không biết rõ. Song chúng ta có thể biết chắc rằng khi đức Thế Tôn nhập Niết-bàn tại thành Câu-thi-na, rừng Ta La Song Thọ, tôn giả A-na-luật và tôn giả A-nan đều có mặt bên cạnh.

Lúc ấy nhằm ngày rằm tháng hai, trên đỉnh núi phía Tây trăng tròn vằng vặc, đức Thế Tôn nằm giữa hai cội Ta-la, toàn thân phủ sắc trắng, các đệ tử vây quanh bốn bên quỳ lớp lớp. Đức Phật đã dạy lời tối hậu, đêm tĩnh mịch không một tiếng thở mạnh. Ngài dặn dò cặn kẽ các đệ tử nên trì giới, hoằng pháp tu tâm, giữ gìn khẩu nghiệp, thiểu dục, tinh tấn,… những điều ấy đã ghi lại tường tận trong kinh Di Giáo.

Đức Phật đã đắng miệng, tâm lão bà tha thiết, hỏi đi hỏi lại ba lần trong đêm tịch vắng, đại chúng đều lặng thinh không một người thưa hỏi. Đó là vì đức Phật sắp Niết-bàn nên vỗ về an ủi các đệ tử, và cũng vì các đệ tử đối với pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên đã hiểu rõ không còn nghi. Đại chúng đều là những đệ tử theo Phật lâu năm, đối với pháp căn bản không còn chỗ nào không hiểu.

Lúc ấy tôn giả A-na-luật là người đại diện đủ tư cách trong lúc đức Thế Tôn sắp Niết-bàn, quỳ gối hữu, chắp tay cung kính thay cho đại chúng, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đệ tử chúng con đều đã hiểu sâu Tứ đế, Mười hai nhân duyên là chân lý của vũ trụ nhân sinh. Trên thế gian này, mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng, Tuyết Sơn có thể biến thành biển cả, đại địa có thể biến thành gò đất nhưng giáo pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên của Phật nói không thể khác.

Đức Thế Tôn an tịnh nghe A-na-luật thưa xong, trên gương mặt lộ vẻ hoan hỷ. Câu trả lời cuối cùng của A-na-luật đã an ủi được nỗi khổ tâm của Ngài trong bốn mươi chín năm hành khước hóa đạo.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thập đại đệ tử Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Toát yếu 10: A NAN ĐÀ ĐA VĂN ĐỆ NHẤT

1- NHÂN DUYÊN XUẤT GIA
Trong số các vị đệ tử của Phật, người có tướng mạo trang nghiêm, trí nhớ thật mạnh mẽ, phải kể đến tôn giả A-nan.

Tôn giả có một cuộc đời thật phi thường, đối với giáo đoàn đương thời và cho đến Phật pháp hôm nay đều có ảnh hưởng rất sâu xa.

A-nan-đà cũng như La-hầu-la, đều là đồng chơn vào đạo. Khi A-nan gia nhập Tăng đoàn, không biết vào khoảng mấy tuổi, điều này khó khảo chứng. Nhưng căn cứ vào truyền thuyết, trong nhóm các vương tử A-na-luật, Bạt-đề… đồng xuất gia thì A-nan là người nhỏ tuổi nhất tham dự trong ấy.

Phụ thân của A-nan là Bạch Phạn Vương, còn Đề-bà-đạt-đa là anh ruột. Sở dĩ, A-nan gia nhập Tăng đoàn trong tuổi đồng niên, vì đó là điều trông mong của đức Phật. Khi đức Phật trở về quê thuyết pháp, Bạch Phạn Vương sợ A-nan chịu ảnh hưởng về tư tưởng xuất thế của Phật, cho nên sau khi gặp Phật không lâu, nhà vua bèn đưa A-nan sang nước Tỳ-xá-ly, không để có cơ hội thường tiếp xúc với Phật. Khi Phật đi sang nước Tỳ-xá-ly, Bạch Phạn Vương lại đưa A-nan trở về thành Ca-tỳ-la.

Nói đến chỗ này thiệt là nhân duyên bất khả tư nghì. Trong số các vương tử, đức Phật hy vọng nhất là A-nan theo Ngài xuất gia. Buổi tương kiến đầu tiên, vừa thấy A-nan, đức Phật đã nghĩ thầm “Nếu như A-nan xuất gia, thì tương lai có thể thiệu long Phật chủng, khiến Phật pháp lưu truyền vĩnh viễn ở hậu thế”. Một nhân vật vĩ đại thì điều quan trọng là chọn người có thể nối tiếp sự nghiệp cho mình, xây dựng cho người ấy, đề cử người ấy thêm lên. Phật thành đạo không bao lâu, Ngài bèn chọn A-nan, thật là Ngài đã nhìn xa thấy rộng.

Phật biết A-nan đã trở về thành Ca-tỳ-la, bèn lập tức quay về và đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận phòng của A-nan. A-nan mở cửa ngó qua thấy đức Phật bèn cung kính đảnh lễ, và lấy quạt quạt cho đức Phật. Qua thái độ này chúng ta có thể thấy rằng trong tâm hồn thơ bé của A-nan đã sớm khởi lòng tin tưởng cung kính đối với đức Phật.

Do đó, khi gặp cơ hội, A-nan bèn cùng các vương tử Bạt-đề… thế phát xuất gia, gia nhập Tăng đoàn.

2- GIÚP CHO NỮ GIỚI XUẤT GIA
A-nan dần dần lớn lên trong Tăng đoàn. Với thiên tánh ôn hòa, từ bi, dung mạo truyền cảm, tôn giả là nhân vật được phái nữ bên trong và bên ngoài Tăng đoàn tôn kính.

Nếu như không có A-nan, ngày nay trong Tăng đoàn cho phép hay không cho phép người nữ xuất gia làm Tỳ-kheo ni? Điều ấy thật khó biết.

Nói về duyên khởi của nữ giới được hứa khả xuất gia theo chánh pháp, hoàn toàn do công lao của tôn giả A-nan-đà.

Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng nên lời nói của Ngài hàm chứa ý nghĩa đặc biệt. Đương nhiên nếu chiếu theo tình người thì nên cho phép nữ giới xuất gia, nhưng nếu đứng về mặt pháp lý, thì nam nữ cùng tu học trong một trụ xứ là một việc rất khó giải quyết. Trí tuệ và tình cảm là hai đường đối nghịch nhau, Phật không cho phép người nữ xuất gia chính vì điểm đó. Người nữ rất nặng tình cảm, họ có thể vì tình mà bỏ đạo, thôi tu. Đó là điều không thể chấp thuận. Hoặc có thể vì nữ nhân tâm ngã mạn, ham danh nặng hơn nam giới, nên Ngài không hứa khả cho xuất gia là muốn dạy cho họ một bài học.

Thiệt là Phật từ chối cứng rắn đến mấy, A-nan bản tính vốn ôn hòa chưa từng cãi đức Phật một câu, mà phen này cũng rơi lệ, sụt sùi đảnh lễ Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Ngài nhẫn tâm để họ chết, mà không đưa tay từ bi cứu độ?

Phật thấy rằng trên đời này, pháp lý và tình cảm cũng có khi không thể vẹn toàn. Ngài cũng biết rõ mối quan hệ nhân duyên, không thể có một pháp nào trên đời này thanh tịnh, thường trụ bất biến mãi mãi được. Ngài trầm mặc giây lâu, rồi mới bất đắc dĩ bảo A-nan:

3- CÂU CHUYỆN VỀ MA-ĐĂNG-GIÀ
Vẻ đẹp và tuổi trẻ của A-nan đã gây ra nhiều chuyện phiền phức rối ren. Đó là câu chuyện về Ma-đăng-già.

4- THUYẾT PHÁP CHO TỲ KHEO NI
Chính vì dung mạo đẹp đẽ và giàu tình cảm, mà không những các cô gái thế tục theo đuổi A-nan, cho đến các Tỳ-kheo ni cũng luyến mộ Tôn giả.

A-nan đối với ni giới thật là tận tình giúp đỡ, thêm vào đó có những nhân duyên đặc biệt, nên nữ giới, ngay cả các Tỳ-kheo ni đối với Tôn giả đặc biệt cung kính. Có lúc A-nan cùng Đại Ca-diếp trên đường hành hóa, ghé ngang một lan-nhã của các Tỳ-kheo ni, các cô đều đồng thỉnh A-nan khai thị trước, rồi sau mới mời đến Đại Ca-diếp. Luận về tuổi tác, hạ lạp, giới hạnh thì Đại Ca-diếp hơn A-nan xa, nhưng các Tỳ-kheo ni không kể đến chuyện ấy.

5- CHIA BÁNH MANG TIẾNG
A-nan vì những chuyện của các cô thường chuốc vào mình những điều phiền phức, bị người ganh ghét, phê bình, đức Thế Tôn cũng thường bận tâm vì Tôn giả.

“A-nan! Ông nói đúng, người đời bị chìm trong biển dục không biết nhàm chán. Thời quá khứ, có một ông vua tên Đảnh Sanh dùng pháp ôn hòa trị dân, không cầm dao gậy chi cả mà người hung ác đều phục tùng. Nhưng nhà vua là một người tham dục, đắm sắc. Khi cai trị thì đi đến đâu cũng nghe nhơn dân ca tụng đức độ, nhưng về phần dục lạc lại quá đam mê. Bao nhiêu cung phi, mỹ nữ trong nước còn chưa đủ, nhà vua lại tuyển chọn thêm giai nhân của các nước. Nhà vua bị đoanh vây trong ngũ sắc, cung tần ái phi hầu hạ ngày đêm, nhà vua cũng không vừa ý, tính chuyện giết luôn quốc vương nước bạn để đoạt lấy hoàng hậu. Rốt cuộc vì tham dục quá độ, chìm đắm trong bể sắc, triều chính ngày càng bê trễ, bị nhân dân nổi loạn, vương quyền tiêu tan, nhà vua phải chịu những ngày tàn thê thảm.

A-nan! Tham dục không biết chừng tai hại đến như thế. Vua Đảnh Sanh đó là một tiền thân của ta.”

6- LÀM THỊ GIẢ PHẬT
A-nan từng được Phật chấm là người có thể nối thạnh Phật pháp. Tôn giả đặc biệt bị nhiều nữ nạn, nên vì muốn A-nan giữ được bản thân chuyên tâm tu đạo, Phật nghĩ đến việc chọn A-nan làm thị giả. Đó là vào khoảng thời gian đức Thế Tôn trên năm mươi tuổi, Ngài trụ tại tinh xá Trúc Lâm, việc tuyển chọn này xảy ra.

A-nan nghe nói, thấy trách nhiệm quan trọng bèn từ chối. Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên cố khuyên mãi, Tôn giả mới đưa ra ba điều kiện:

* Một, A-nan không mặc y phục thừa của đức Phật, dù cũ hay mới.
* Hai, nếu có Phật tử thỉnh Phật cúng dường, A-nan không đi trước.
* Ba, không phải thời đến gặp Phật, A-nan không đến.

7- TÌNH BẠN TRONG PHẬT PHÁP
Đã là thị giả Phật, mà lại chưa khai ngộ, nhưng trong Tăng đoàn vẫn xem A-nan đồng bậc với các vị thượng thủ đáng kính. Kỳ thật là vì tâm tính của Tôn giả ôn hòa khiến cho ai ai tiếp xúc qua đều cảm thấy mát như gió xuân. A-nan đối với người không hề đưa điều tốt của mình ra, hoặc nói cái dở của người. Luôn luôn ẩn ác dương thiện, tận tâm giúp đỡ mọi người cho họ được dễ dàng. Mỗi khi cùng ngoại đạo luận bàn Phật pháp, cũng chỉ hiển chánh mà không phá tà. Tôn giả chưa từng có ý hại người để lợi mình, Tôn giả như tia nắng xuân ấm áp từ từ làm tan băng giá.

8- ÔNG ANH ĐÁNG GIẬN
Người mà A-nan giận nhất trong đời, phải kể là ông anh Đề-bà-đạt-đa.

Đề-bà-đạt-đa cũng là một trong bảy vị vương tử đầu tiên xuất gia theo Phật. Có thể vì ham vui mà đi theo chứ không phải phát tâm chân chánh, nên sau khi xuất gia ông không an tâm tu hành, hay khoe điều kỳ lạ để lòe người, và muốn đắc thần thông.

Tuy là anh em ruột, nhưng A-nan và Đề-bà-đạt-đa tánh tình khác xa. Đề-bà-đạt-đa vốn nhiều dã tâm mà không an phận. Đức Phật thường khuyên ông nên hoàn tục làm cư sĩ ủng hộ Phật pháp, không nên ở trong Tăng đoàn tạo tội, nhưng ông không nghe.

9- LỜI DỰ ĐOÁN CỦA PHẬT
A-nan làm thị giả Phật trong hai mươi bảy năm thật đắc lực. Mỗi khi có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni và các tín đồ tại gia đến tham bái Phật, Tôn giả đều sắp đặt thời gian thích hợp. Các Tỳ-kheo ở xa đến viếng Phật, khi chưa được gặp Phật, cũng rất thích nói chuyện với A-nan. Tất cả mọi người đều tin tưởng thân thiết nơi Tôn giả. Còn các Tỳ-kheo ni rất thích nghe Tôn giả giáo giới. Mỗi khi Tôn giả bảo:

Một hôm, Phật ở tại giảng đường nơi thành Xá-vệ của vua Ba-tư-nặc, A-nan đứng hầu, trên mặt lộ vẻ buồn lo. Phật hỏi A-nan vì sao ra như vậy. A-nan mới thưa rằng trong một đêm, Tôn giả nằm mộng thấy bảy việc kỳ lạ cổ quái khiến lòng hoang mang lo sợ. Phật liền hỏi:

10- BÊN GIƯỜNG NIẾT BÀN HỎI DI GIÁO
Đức Thế Tôn thành đạo đã bốn mươi chín năm, đã đến lúc nhập Niết-bàn. Ngài tuyên bố sẽ nhập diệt ở nơi rừng Ta La Song Thọ, thành Câu-thi-na, cách Ca-tỳ-la khoảng ba mươi dặm.

- A-nan! Ngươi muốn xa lìa phiền não, đạt đến chứng ngộ không thể bận tâm vì nữ nhân. Nhất là ông, tuy bây giờ đã lớn tuổi rồi đó, nhưng ông không tiếp xúc với họ vẫn tốt hơn. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc nên xem người già như mẹ, người lớn như chị, người nhỏ như em. Này A-nan! Ông phải nhớ kỹ lời ta đấy!

rồi lại tìm A-nan, cử Tôn giả đến hỏi Phật mấy vấn đề:

+ Thứ nhất, Thế Tôn Niết-bàn rồi lấy ai làm thầy?
+ Thứ hai, sau khi Phật Niết-bàn, an trụ như thế nào?
+ Thứ ba, làm sao hàng phục kẻ ác?
+ Thứ tư, khi kết tập kinh điển làm sao mọi người có thể tin?

Đức Thế Tôn an nhiên như thường lệ, từ bi vui vẻ trả lời:

- Này A-nan! Các ông nên nhớ kỹ, các ông nên y theo giới luật làm thầy, an trụ trong tứ niệm xứ, gặp người hung ác mặc tẫn lánh đi, đầu kinh nên để “Tôi nghe như thế này…” khiến người tin được. Các ông nên làm đúng như pháp, pháp là nơi thường trụ của pháp thân ta.

11- THAM DỰ CUỘC ĐẠI HỘI KẾT TẬP
Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn rồi. A-nan như con thơ mất mẹ, dự lễ trà tỳ viên mãn, tôn giả một mình trở về tinh xá tưởng niệm ân sư. Trải qua mấy ngày mỏi mệt, thân thể đau đớn, Tôn giả bèn đóng cửa thất tịnh tọa, mỗi ngày chỉ uống một ít sữa, không ăn gì thêm, không nói một lời như thế suốt ba ngày.

Khi A-nan về đến thành Vương Xá, vừa đúng một ngày nữa là đại hội kết tập bắt đầu. Lúc ấy, tôn giả Đại Ca-diếp được cử làm thủ tọa, tuyển chọn năm trăm vị Tỳ-kheo tham dự đại hội. Các vị ấy đều là bậc A-la-hán, cho nên không kể tên A-nan, vì A-nan chưa đạt được quả vị.

Đương nhiên là Đại Ca-diếp cũng thừa nhận sở trường của A-nan, bao nhiêu lời thuyết pháp của đức Thế Tôn, A-nan đều ghi nhớ chẳng sót, nhưng chỉ sợ một điều quan trọng là: Nếu như để cho một người chưa dứt hết phiền não như A-nan tham dự đại hội, thì đối với đức Phật đã nhập diệt và chúng sanh đời sau, chẳng biết sẽ có những lỗi lầm như thế nào?

A-nan tuy chưa khai ngộ nhưng lại được cảm tình của mọi người rất nhiều, ai ai cũng ủng hộ Tôn giả. Cho nên khi nghe mọi người đề cử A-nan. Đại Ca-diếp bèn nói:

- A-nan chưa chứng Thánh quả. Tôi cũng biết ông ấy là sư tử, nhưng hiện tại chỉ là sư tử ở trong bầy dã can thôi.

A-na-luật cũng đồng ý với nhận xét đó. Điều này thật là một sự bất ngờ cho A-nan. Vì A-na-luật cũng là anh em chú bác với A-nan. Nhưng A-nan có bản tính quật cường, càng bị nén xuống thấp thì càng vọt lên cao. Những lời đả kích là duyên tốt cho Tôn giả. A-nan chẳng hề nản lòng, và như hoa mai mùa đông, phải chịu một cơn gió tuyết lạnh lùng mới tỏa hương đặc biệt. Chiều hôm ấy, Tôn giả nỗ lực tu tập, trầm tư mặc tưởng, buông bỏ tận cùng, vào nửa đêm thì khai ngộ chứng quả. Ngày hôm sau, A-nan hiện đại thần thông, không đợi cửa động mở bèn bay vào đại hội.

Lúc ấy phong tư của Tôn giả như mặt trăng tỏ rạng vừa ra khỏi đám mây, như ánh thái dương chiếu trên những cánh hoa sen tươi đẹp. Các vị đại Tỳ-kheo đều kinh ngạc nhìn tôn giả biểu lộ sự tán thán. Dưới sự chỉ đạo của Đại Ca-diếp, và sự đề cử của toàn thể đại hội, tôn giả lên tòa sư tử, bắt đầu tụng:

“Tôi nghe như thế này, một thuở, Đức Phật ở tại nơi nọ…”. Tôn giả đem trí nhớ của mình tụng lại những thời thuyết pháp của đức Thế Tôn, lưu loát như nước chảy. Các đại Tỳ-kheo trong hội một lần nữa tiếp thọ lời dạy của Phật. Ai nấy đều cảm động, tôn giả Kiều-trần-như già nua xúc động đến nỗi xỉu tại tòa.

Những kinh điển đầu tiên như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng nhứt A Hàm, và các kinh Thí Dụ, Pháp Cú đều được kết tập trong kỳ đại hội lần thứ nhất này, do chính tôn giả A-nan tụng lại.

12- NHẬP NIẾT BÀN
Sau khi Phật nhập Niết-bàn, trưởng lão Đại Ca-diếp kế thừa y bát, hai mươi năm sau, Tôn giả đã hơn một trăm tuổi, bèn vào núi Kê Túc nhập Niết-bàn. Sắp ra đi, Tôn giả đem gia nghiệp Phật pháp dặn dò trao lại A-nan, lúc ấy cũng gần tám mươi tuổi. Tôn giả kế thừa dòng pháp, cũng là điều tự nhiên như hoa đến kỳ kết quả, và đó cũng là niềm hy vọng của đức Thế Tôn.

Tuy vậy, một bậc trưởng lão thánh tăng đã một trăm hai mươi tuổi, đối với việc đời không còn chút lưu luyến, sau khi gặp chuyện trên lại càng chán ngán thế gian. Tôn giả nghĩ “Cái cõi đời này thật hết ý kiến. Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn chưa bao lâu mà có người hiểu sai Phật pháp như vậy, sau này trong giáo đoàn lại có những điều tà kiến sao cho xiết. Ta vì Phật tụng lại giáo pháp mà mọi người chấp chặt vào kiến chấp của họ, không chịu theo đúng pháp mà làm, ta còn ở lại nơi đây để làm gì?”

Nghĩ ngợi như vậy, Tôn giả tự nhiên nhớ đến đức Phật, rồi liên tưởng đến các vị đại đệ tử Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… Tôn giả lại suy tư triền miên: “Ôi! Những vị ấy như chim bay theo gió, một lúc vào Niết-bàn. Trong bao nhiêu vị thánh bây giờ chỉ còn mình ta, như rừng cây bị đốn sạch, còn sót lại một cây cổ thụ không đủ che mưa đỡ gió. Cõi nhân gian này thật trống rỗng, ta cũng nhập Niết-bàn thôi!”

Suy nghĩ xong, Tôn giả bèn quyết định đem Phật pháp trao phó lại cho Thương-na-hòa-tu, ôm bát hướng về sông Hằng mà đi. Nhân vì lúc ấy vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà đang khai chiến với Tỳ-xá-ly. Tôn giả dự tính nếu nhập diệt ở nước Ma-kiệt-đà thì di thể không được chia cho nước Tỳ-xá-ly, như đến Tỳ-xá-ly nhập diệt, họ cũng không chia phần cho Ma-kiệt-đà. Nên Tôn giả bèn chọn sông Hằng là biên giới giữa hai nước, sẽ ở trên không trung mà nhập Niết-bàn.
Vua A-Xà-Thế nghe tin A-nan sắp nhập Niết-bàn, cơ hồ muốn té xỉu. Nhà vua tức tốc mang binh mã đuổi theo, chạy đến bên bờ sông Hằng, thì tôn giả đã lên thuyền ra giữa sông. Nhà vua bèn quỳ mọp sát đất mà lớn tiếng kêu:

- Đức Phật tối thắng tự tại! Xin Ngài từ bi, Tôn giả đã ban an lành cho chúng con. Tôn giả là đèn sáng của ba cõi. Xin Ngài hãy quay trở lại a!

Bờ sông bên kia, dân chúng Tỳ-xá-ly cũng tụ tập bên bờ, kêu réo như A-xà-thế. A-nan bèn ở trong thuyền nói lớn:

- Ta đã suy xét, chính vì sự oán hận của hai nước các ông, mới đặc biệt đến khoảng giữa sông Hằng mà nhập diệt, cầu mong cho các ông được hòa bình, thân thiện.

Tôn giả nói xong, bèn ngồi giữa hư không nhập Hỏa quang tam muội, tấn nhập Niết-bàn, khiến di thể rơi xuống hai bên, cho hai nước xây tháp cúng dường. Một tháp được xây ở giảng đường Đại Lâm phía Bắc nước Tỳ-xá-ly, một tháp xây ở cạnh tinh xá Trúc Lâm thành Vương Xá. Do nhân duyên nhập diệt của Tôn giả, hai nước bèn cởi mở oán thù, không gây chiến với nhau, cứu được muôn ngàn tài sản và mạng sống nhân dân. Sự hy sinh của Tôn giả thật cao quý lớn lao vô cùng.

Tôn giả A-nan nhập diệt rồi, công lao của Ngài đối với đức Phật, sự cống hiến đối với Phật pháp, tư cách ôn hòa từ mẫn, khiêm tốn nhân nhượng của một bậc thánh, mỗi độ gió xuân về, lại khiến mọi người hoài niệm.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách