Chánh Lý Kiều Thế Đức
(Sách: "Trường Thi: Đời Đức Phật", trang 216 - 231)
Về BỒ TÁT THỪA, tu ngay
Pháp mầu Lục Độ hàng ngày gắng công.
Khi cùng Thập Thiện làu thông
Bước vào Thập Địa mới mong độ đời.(257)
Tới đây thật rất đúng thời
Tóm thâu Thập địa ít lời hiểu qua:
THẬP ĐỊA BỒ TÁT cao xa
Là pháp tu chứng chia ra mười phần
Người tu đạt quả cao dần
Khởi từ Sơ Địa tới dần Pháp Vân.
Hành Bồ Tát đạo, ta cần
Xuyên qua Thập địa, trăm phần chẳng nghi.
Phật pháp bất khả tư nghì
Cũng nương vào đó, vậy chi sánh bì?
Với Đại Hùng, Lực, Dũng, Bi
Quyết tâm loại hết những gì cản ta.
Hành, Tu hợp nhất mới là
Viên dung Sự, Lý chói lòa thậm sâu.
Thập địa, vùng đất tốt mầu
Giúp tăng trí tuệ, giúp trau hạnh lành.
Giúp cho công việc tu hành
Cùng Nhất Thiết Trí viên thành sơm, mau.
1. Người tu SƠ ĐỊA, ban đầu
Vui gần chư Phật, hỷ cầu lợi sanh.(258)
Phát thêm đại nguyện tột lành
Thọ trì Phật pháp và hành tới nơi
Nhiếp thâu Phật trí chói ngời
Giữ gìn Phật giáo, xa rời lợi danh.
Sống trong hòa hợp, tịnh thanh
Xa lìa ác đạo, đường lành tiến tu.
Xa lìa tâm tánh phàm phu
Chuyên tu Bố thí, dụng từ dịu êm.(259)
Loại trừ tham xẻn, tỵ hiềm
Không còn ích kỷ, tánh thêm nhu mềm.
Viên thành Tàm, Quý trang nghiêm(260)
Đạo tâm tăng trưởng, mang niềm tịnh tin.
Xả thí với mọi người xin
Pháp thì y giáo, giữ gìn ngày đêm
Không còn kinh sợ khởi thêm
Đại bi, trí tuệ, khéo đem dụng, hành
Để mà cứu độ chúng sanh
Đưa vào Phật đạo tột lành an vui
Tâm Từ cũng được rèn, trui
Nâng cao được Tuệ đẩy lùi bóng đêm
Siêng tu Đại xả tăng thêm
Đàn na, nhẫn nại, nhu mềm, hết sân
Kinh thơ khéo dụng như thần
Kỹ năng, chú, luận trăm phần tuyệt luân
Phát Nhất Thiết Trí, tiến gần
Chỗ lìa Ngã tướng, tâm dần tịnh trong
Cùng muôn Bồ tát một lòng
Không ganh, cùng chí, sống trong hòa đồng
Khi Tương Tục Tướng trừ xong(261)
2. Bước sang LY CẤU, vun trồng thiện căn.
Dứt trừ tham uế, chu toàn(262)
Đàn na, Trì giới, lớn dần đức Bi
Chấp Ta tiếp được xả ly
Hạnh lành sáng sạch, oai nghi hiện bày.
Chúng sanh tà kiến vốn đầy
Trong vòng sanh tử lăn xoay nổi, chìm.
Biển tâm dậy sóng chẳng im
Làm sao biết sợ, quay tìm lối ra.
Bồ tát thuận hạnh vị tha
Xót thương cứu thoát đưa qua chốn lành.
Giúp lìa Tam độc, ghét ganh
Giúp lìa ác nghiệp, giúp thành chánh, ngay.
Các ngài còn gắng từ nay
Tu lìa Trí tướng hăng say chẳng rời.(263)
Hành trí Ái ngữ không ngơi
Nên người tin, kính, suốt đời, lành thay!
3. PHÁT QUANG tu tập từ đây
Quán trừ Thọ, Tưởng, hăng say tu thiền
Đạt Vô Sắc Định, tâm yên
Trí quang chói sáng hiện tiền từ nay.(264)
Thần thông vô lượng hiện bày
Ngũ thông, xuyên núi, ngồi bay nhẹ nhàng(265)
Đi trên mặt nước thênh thang
Phát ra khói lửa, dễ dàng làm mưa
Bung vầng Nhật, Nguyệt lại ưa
Quán lìa Dục phược, quán ngừa Vô minh.(266)
Căn lành ngày một luyện tinh
Không còn thâm hiểm, tâm bình, tịnh trong.
Hữu vi mọi pháp rõ trông(267)
Vô thường, vô ngã, uế, không tịnh nào
Xả thí cầu pháp chẳng nao
Thực hành cung kính, khó sao chẳng sờn
Kiêu mạn lìa trọn, hết còn
Kính thờ khi gặp, làm tròn ngại chi
Cần khổ, gánh chịu vì Bi
Tiếc chi thân mạng, chê, nghi được nào?
Lợi Hành tu tập gắng sao
Hợp cùng Tín, Nhẫn, nâng cao đức Từ(268)
Tánh sân nay được loại trừ
Khoan hồng tăng trưởng, hận thù tàn, lu.
Chúng sanh tam dục, mê ngu
Được dần cứu khỏi ngục tù khổ đau.
4. Tiến lên DIỆM HUỆ liền sau
Dùng Tam muội hỏa nhiệm mầu đốt tan
Khổ phiền chồng chất miên man
Lại tu Trợ đạo chuyên cần, chẳng lơi.(269)
Tu hành Đồng sự không ngơi
Cùng là Tinh tấn để rồi quán thông
Nội tâm, ngoại cảnh đều không
Vô tướng, Vô tác, rõ trông thấy rằng(270)
Các Thọ đều huyễn, không màng
Quyết tu hạnh Xã, theo đàng thuận sanh
Quyết lìa uế trước, lợi danh
Quyết lìa chấp trước, tâm thành tịnh quang.
Trí minh tỏa chiếu mênh mang(271)
Phật thân khả hiện, sẵn sàng độ sanh
Cùng bao quyến thuộc vây quanh
Đều là Bồ tát hóa thành trợ duyên
Lại dùng phương tiện diệu huyền
Giúp cho chúng thoát khổ phiền, si mê
Giúp lìa Thân kiến quay về
Trụ trong Chánh kiến, thấy, nghe tỏ tường.
5. Ngũ địa NAN THẮNG là đường
Tục, Chân lưỡng đế hai luồng tương dung(272)
Loại trừ mâu thuẫn khắp cùng
Hiểu sâu duyên khởi trùng trùng tự đây(273)
Học, hành mọi pháp hăng say
Như ca, vũ, nhạc hoặc hay chuyên cần
Trau dồi toán, họa, y, văn
Để gieo lợi ích khi gần chúng sanh.
Nguyện lòng bất thối viên thành
Giữ gìn tịnh giới tâm lành lớn nhanh
Gắng công tinh tấn tu hành
Không rời Thiền định, không sanh vọng nào.
Tâm bình, không tán, chẳng chao
Dù cho tám gió thổi vào chẳng nao
Xà na phát chiếu như sao
Tới nơi bình đẳng đi vào Nhất như
Đoạn trừ việc khó do từ
Chấp Ta, ngã ái, mê mờ tạo ra
Dạy lìa tập nghiệp, ác tà
Dạy lìa sanh tử, sống hòa tình thương.
GHI CHÚ:
(257) Nhân thừa và Thiên thừa được gọi là thế gian thừa vì chưa thoát luân hồi. Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa được gọi là xuất thế gian thừa, vì kết quả đạt được là hành giả không còn trong vòng luân hồi nữa. Từ trước tới giờ Phật nói Niết bàn là vì các chúng sanh căn độn, tánh vô minh nên dùng các phương tiện để dẫn dắt chúng sanh dần vào Phật huệ. Phật chia ra làm nhiều thừa không ngoài mục đích đưa đến Nhất thừa là Phật thừa. Mọi Thừa chỉ là những danh từ tạm đặt cho từng mức thang, nhưng chung quy chỉ có Nhất thừa là Phật thừa mà thôi. Trong kỳ hội nghị Phật giáo Thế giới tại Kathmandu (Népal) vào tháng 11 năm 1956, các vị lãnh đạo Phật giáo Thế giới quyết định bỏ danh từ Tiểu thừa vì sợ hiểu lầm danh từ Tiểu đối với Đại mà gọi là Phật giáo Nguyên thủy cho đúng với nghĩa lịch sử Phật giáo. Ta nên biết rằng không thiếu gì vị tu sĩ trong một ngôi chùa mà ta thường coi là thuộc phái Tiểu thừa nhưng mang hạnh Đại thừa, tự độ độ tha, tự giác giác tha và cũng không thiếu gì tu sĩ trong một ngôi chùa mà ta thường coi là thuộc phái Đại thừa nhưng lại mang hạnh Tiểu thừa. Như vậy, Tiểu hay Đại là do riêng từng cá nhân chưa tới mức phát tâm độ người, độ vật mà thôi. Từ đó, ta chẳng nên khinh ai là Tiểu và cũng chẳng nên ngã mạn tự coi mình là Đại và phải lấy Lục hòa làm phương châm. Người nào cũng bình đẳng về Phật tánh, sớm tới hay chậm tới bờ giác mà thôi. Theo thiển ý của tôi, muốn chứng quả Thanh văn thì buộc phải hành Bồ tát đạo, vì nếu không hành Bồ tát đạo thì làm sao có thể trừ được rốt ráo tham, sân, si... Như thế, phân chia Thanh văn thừa và Bồ tát thừa rồi nặng, nhẹ với nhau là do lòng ngã mạn, sân hận, ta người mà ra vậy.
Có vị chỉ nghe một thời Kinh mà đắc quả A la hán là vì trong những kiếp quá khứ, các ngài đã hành Bồ tát đạo, phước trí sắp đủ ví như chén nước sắp đầy, chỉ cần một giọt nước nữa là đủ đầy tràn. Nếu các vị bên Nguyên thủy đã không đi độ sanh thì có lẽ Phật pháp đã bị tiêu diệt chẳng bao lâu sau khi Phật tịch, chẳng còn đợi đến mấy trăm năm sau để phân hóa và phân chia ra Tiểu, Đại do vô minh và ngã mạn.
Ta cũng nên biết rằng trong mười pháp giới thì có bốn pháp giới thánh là Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, và sáu pháp giới phàm tức là Lục phàm gồm Thiên, Nhân, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Trong kinh Kim Cang, Phật có dạy các vị đại Bồ tát phải hàng phục vọng tâm nghĩa là diệt đi tất cả chúng sanh nơi lòng mình mới chứng được Vô Trụ Xứ Niết bàn (ý nói chứng Niết bàn khi tâm không còn vào đâu nữa, tức trụ nơi Vô Sở Trụ: Sắc, Không như một, Sanh tử tức Niết bàn, cõi Ta bà không khác cõi Tịnh độ, Địa ngục, Thiền đàng không hơn không kém...). Các chúng sanh nơi lòng mình nhiềuvô số kể. Tỉ như lòng mình mưu sâu, kế độc thì là rắn rết; biếng nhác, tham sắc dục thì là lợn heo; hung dữ, bạo tàn thì hùm beo; giả dối thì là yêu quỷ.
Chẳng gì quý bằng Đạo, chẳng gì đẹp bằng Đức".
(258) Do đây nên gọi là Hoan Hỷ địa. Ngoài ra, ta cũng nên biết rằng:
Vì vô minh, vọng động nên có Nghiệp tướng. Tâm động thì có năng phân biệt và có cảnh bị phân biệt do đó có Chuyển tướng (có phân biệt, thấy bậy) và Hiện tướng (có cảnh giới bị phân biệt). Ba món Nghiệp tướng, Chuyển tướng và Hiện tướng được gọi là ba món Tế của vô minh. Do có cảnh giới hiện ra mà sanh tâm phân biệt, yêu ghét, tốt xấu... và vì vậy có Trí tướng. Rồi do tâm yêu ghét, phân biệt mà liên tục sanh ra các niệm khổ vui, mừng lo... và như thế phát sanh Tương Tục tướng. Do các niệm tương tục khổ vui, mừng lo mà tâm bị vướng mắc, chấp lấy mọi sự vật nên có Chấp Thủ tướng. Vì chấp lấy mọi sự vật nên dùng danh từ giả để đặt tên cho chúng, do đó phát sanh Chấp Danh Tự tướng. Do Chấp danh tự tốt xấu mà tạo ra các nghệp lành dữ và có Nghiệp Khổ tướng. Tạo nghiệp thì bị các nghiệp kéo đi lãnh thọ quả khổ, hết còn tự tại và như thế là có Nghiệp Hệ Khổ tướng. Sáu món Trí tướng, Tương tục tướng, Chấp thủ tướng, Chấp danh tự tướng, Nghiệp khổ tướng và Nghiệp hệ khổ tướng được coi là sáu món Thô của vô minh.
Các vị ở địa vị Thập Tín giác ngộ được niệm Diệt, tức mới phá trừ được hai món Thô sau cùng là Nghiệp Khổ tướng và Nghiệp hệ khổ tướng. Sự phá trừ này còn quá thô sơ so với việc giác ngộ chân tâm nên các vị này còn được gọi là Bất Giác, tức là chưa giác ngộ.
Đến địa vị Tam Hiền, tức Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng thì mới giác ngộ được niệm Dị, tức mới phá trừ được hai món thô bậc trung là Chấp thủ tướng và Chấp danh tự tướng. Các vị này tương tự như giác ngộ được chân tâm và chứng được Pháp thân thanh tịnh nhưng thật ra thì chưa phải thật giác ngộ và thật chứng nên được gọi là Tương Tợ giác. Tới địa vị Thập Địa thì Bồ tát mới giác ngộ được niệm Trụ, tức mới phá trừ được Tương tục tướng, Trí tướng, Hiện tướng và Chuyển tướng. Các vị Bồ tát này phá vô minh từng phần nên được gọi là Tùy Phần giác. Khi lên tới bậc Đẳng giác thì các ngài mới giác ngộ được niệm Sanh, tức phá trừ được Nghiệp tướng, trở thành bậc Diệu giác và lúc đó các ngài đã phá trừ được hết vô minh cả Thô lẫn Tế.
(259) Dụng từ êm dịu tức là tu Ái ngữ, một pháp tu trong Tứ Nhiếp pháp. Như thế, tại Hoan Hỷ địa, Bồ tát tu Bố thí (hay Đàn na), ái ngữ và mang chánh tín là chánh. Ngoài ra còn tu Tứ vô lượng tâm nữa
(260) Bồ tát vì Tàm, Quý mà siêng tu đạo hạnh tự lợi, lợi tha nên thành tựu Tàm, Quý trang nghiêm (Tàm là tự thẹn, Quý là thẹn với người). Vì vậy, đức Phật dạy hàng xuất gia phải luôn tự hỏi: "Ta có thể bị các bậc tri thức chê trách về giới luật chăng để nhắc nhở tâm luôn hổ thẹn và ghê sợ các điều tội lỗi.
(261) Tương Tục tướng còn gọi là Nhiễm Ô Bất Đoạn và là món Thô thứ hai. Như vậy, ở Hoan Hỷ địa, Bồ tát trừ xong Tương tục tướng.
(262) Vì lý do này nên được gọi là Ly Cấu địa. Tại Lý Cấu địa, Bồ tát tu thêm Trì giới và gắng tu lìa Trí tướng.
(263) Trí tướng là món Thô thứ nhất của Vô minh và phát lên tới Thất địa tức lên với Viễn hành địa mới đoạn trừ xong.
- Muốn biết nhân đời trước, nên nghiệm xét quả đời nay.
Muốn biết quả đời sau, nên nhận xét nhân hiện tại".
(265) Ngũ thông là lục thông trừ bỏ đi Lậu Tận thông.
(266) Phược là dây trói buộc tỉ như Thê thằng, Tử phược (Vợ là dây buộc, con là dây trói).
(267) Các pháp hữu vi là những pháp tùy thế, thuộc Thế gian pháp, và có một hay nhiều nguyên nhân tạo điều kiện để phát sanh. Những pháp vô vi thì bất tùy thế, không cần nguyên nhân hay điều kiện nào để có.
(268) Do lòng Đại bi, đại nguyện mà Phật và chư Bồ tát từ diệu dụng của chân như, tùy theo sự phát tâm cầu đạo của chúng sanh mà ứng hiện ra các loại thân hình để trợ duyên, giúp cho chúng sanh được mau đạt thành đạo quả như hiện làm cha mẹ do lòng từ ái để dẫn dắt, làm kẻ tôi tớ do ý muốn gần gũi, hầu hạ để dẫn dắt, làm thiện hữu tri thức do muốn cộng tu để dẫn dắt, làm kẻ oan gia do muốn xúc kích để dẫn dắt... Như thế, ở Phát Quang địa, Bồ tát tu thêm Nhẫn nại và Lợi hành.
(269) Tu Trợ đạo là tu 37 phẩm trợ đạo gồm Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần và Bát Chánh Đạo.
- "Người đời tánh vốn thanh tịnh, muôn pháp đều do nơi tự tánh mà sanh ra. Hễ suy nghĩ các sự dữ liền sanh ra nết dữ, hễ suy nghĩ các sự lành liền sanh ra nết lành. Tánh tức là Tâm. Tâm tức là Phật vậy".
Phật dạy trong kinh Lăng Nghiêm: "Dâm tâm bất trừ, trần lao bất khả xuất", nghĩa là tâm nghĩ ngợi đến việc dâm dục nếu không trừ thì cảnh hồng trần này không biết bao giờ ra khỏi".
(270) Vô tướng: Không có tướng mạo, hình dung, giả hợp, không trụ vào cảnh nào, vật nào, không có mười tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trụ, diệt, nam, nữ. Có tướng thì có hư hoại, vô tướng thì không hư hoại vậy. Vô tướng là Thật tướng.
Vô tác: Không tạo ra, không làm ra, không mưu cầu, không có nhân duyên tạo tác, tự nhiên, không tạo ra bốn tướng, Sanh, Trụ, Dị, Diệt và đồng nghĩa với Vô vi. Như thế, ở Huệ Diệm Địa, Bồ tát tu thêm Tinh tấn, Đồng sự và các phẩm trợ đạo.
(271) Do đây là có Diệm Quang địa.
(272) Chân đế là đạo lý có tính giải thoát, diệt khổ vô lậu. Tục đế là đạo lý vừa với trí thức của người phàm, không có tính diệt khổ vô lậu. Thế gian pháp là Tục đế. Xuất thế gian pháp là Chân đế hoặc Thật đế. Bồ tát đem cái Chân đế tức những lẽ mà người xuất thế biết được thuyết thành Thế đế tức thành những lẽ mà người thế tục biết được và đem cái Thế đế thuyết thành Thật đế, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà phương tiện để độ sanh. Như thế, ở Ngũ địa, Bồ tát tu thêm Thiền định, làm Tục đế và Chân đế tương dung.
(273) Do đây gọi là Nan Thắng địa vì làm được những việc khó làm.