Ui trời, cái gì như thế này. Đề nghị các đạo hữu mang danh đệ tử Phật thì nên cân nhắc và hành xử cho đúng với phẩm hạnh của một đệ tử Phật.
Về phần đạo hữu battinh thì người ta viết như thế này:
"KÍNH CHÚC CẢ NHÀ LUÔN TĂNG THƯỢNG PHÁP CỦA THẾ TÔN
AMEN"
nguyên cái chữ "KÍNH CHÚC CẢ NHÀ LUÔN TĂNG THƯỢNG PHÁP CỦA THẾ TÔN" dài sọc TO ĐÙNG như thế sao bác không trích mà cái chữ "AMEN" bé tí bác lại trích để mà hoạnh họe lẫn nhau. Làm vậy người ngoài nhìn vào ngta nói đệ Phật có phải là từ bi đại lượng như đạo Phật từng tuyên bố không?
còn Đh chanhhoitrong_123 làm một bài dài ngoằng như thế đạo hữu có cảm thấy an lạc không, có thoải mái tâm không? như vậy là tăng trưởng Thiện pháp hay là tăng trưởng Bất thiện pháp? gặp tôi là tôi nói vài câu chánh lý, cười "hề hề" xong rồi xóa cái vèo thì thấy khỏe hơn nhiều?
Đạo hữu còn nhớ ngài Ananda không, phần cuối lần kết tập kinh điển đầu tiên tại hang Tất-bát-la ngài MahaKasappa đã nêu lên vài điều khiển trách ngài Ananda trước toàn thể hội chúng, ngài Ananda nói rằng tự thân ngài không cảm thấy có lỗi trước những điều đó (và trong tạng Luật tạng Phật cũng không quy định) nhưng vì sự hòa ái, sự nhiếp phục, sự tuân thủ của hội chúng; ngài
chấp nhận những điều ấy là có lỗi và xin sám hối trước đại chúng. Như vậy, xét cho cùng:
"sức mạnh của người tu là hạnh kham nhẫn".
Ngu tôi nói những lời này với đạo hữu trong tâm từ vì tôi mong rằng đạo hữu sẽ vượt qua được những chướng ngại của tự thân.
hihi, như vậy là xong cái phần :
"chỉ trích những gì đáng chỉ trích, tán thán những gì đáng tán thán" rồi nhé!
giờ tới phần quan trọng hơn là "thảo luận về Chánh pháp" nè:
bài viết của Đh chanhhoitrong_123 có nhiều cái hay và cũng có nhiều cái hơi vô lý. Thí dụ:
"chính vì thái độ hưởng thụ dục lạc mà phần lớn con người chọn đời sống tại gia, chấp nhận các giá trị hạnh phúc tương đối , tất cả việc làm của họ chỉ biết lấy dục làm căn bản từ đó đưa đến khổ đau .Thực vậy, trong cuộc sống, chúng sinh quay cuồng ham muốn, ham muốn không bao giờ đủ, lòng tham vô đáy không bao giờ cùng. Không được thì khổ, mà được rồi cũng khổ vì sợ suy tổn, mất mát"
ngu tôi phản biện như sau: Đh nói những lời này có chủ quan quá không, có những sống tại gia (không xuất gia) nhưng những người đó vẫn sống độc thân không có gia đình, họ ưa thích làm việc (trái ngược với những người lười lao động) và họ luôn "Ham Muốn" làm thiện như bố thí, hiến máu, giúp người... và họ làm với cái tâm "không bao giờ đủ", hễ có cơ hội là họ làm, khi làm được thì họ vui, không làm được họ chặc lưỡi "thôi tùy duyên vậy".
Đạo hữu nghĩ như thế nào, người ấy sống có "Dục" không? và cái "Dục" ấy có phải là nhân đưa đến đau khổ cho người ấy không?
chanhhoitrong_123:
"Kẻ phàm phu xem dục lạc thế gian là cứu cánh là mục đích để hướng tới,còn hạng người cao thượng muốn xuất ly thế gian thì không thể lấy dục của thế gian làm căn bản, mà phải hướng tới cái dục cao thượng hơn bằng cách ly dục ly bất thiện pháp"
phản biện: nói như vậy có mâu thuẫn không,
lấy Dục để Ly Dục? giống như lấy cát mà muốn nấu thành cơm, liệu điều này có xảy ra không?
để tiện đường khảo cứu và thảo luận, ngu tôi xin trích vài khái niệm và đoạn kinh liên quan:
trong những "thuật ngữ" Phật học có 2 từ có nghĩa gần giống nhau là Dục và Ái.
Ái thì có 2 tiếng pali tương ứng là
RĀGA và
TANHA,
Dục thì có 2 từ pali tương ứng là
KĀMA và
CHANDA
tôi tra cứu từ điển Pali-Việt của hòa thượng Bửu Chơn thì được cắt nghĩa như thế này:
KĀMA m. sự thỏa thích, tình dục, sự thưởng thức, vật vui thích trần thế. --
giddha tham muốn thỏa thích theo tình dục. --
guṇa m. tình dục, ngũ trần. --
gedha m. sự quyến luyến theo dục trần. --c
chanda m. sự thỏa thích theo dục trần. --
taṇhā f. sự khao khát tình dục ngũ trần. --da, --
dada a. cho cái gì mình thích. --
dhātu f. cảnh giới dục trần. --
paṇka m. sự sa lầy trong tình dục. --
pariḷāha m. sự nóng sốt của tình dục.--
bhava m. cảnh dục giới. --
bhogī a. hưởng sự vui thích của dục trần.--
mucchā f. sự mê mẩn trong tình dục.--
rati f. sự vui thích tình dục.--
rāga m. sự mê sa tình dục. --
loka m. cảnh dục giới. --
vitakka m.sự suy nghĩ về tình dục. --
saṅkappa m. tư tưởng về tình dục. --
saññojana nt. dây cột trói tình dục. --
sukha nt. sự an vui trong tình dục. --
sevanā f. sự dâm dục.
KĀMATĀ f. sự ưa thích, ham muốn.
CHANDA m. sự ước muốn, động lực thúc đẩy
RĀGA m. màu, nhuộm, màu sắc, tình dục, sự trìu mến. --
kkhaya m. dứt bỏ tình dục. --
ggi m. lửa tình. --
carita m. thuộc về ái tình. --
ratta a. say đắm, vì ái tình.
RĀGĪ a. ái tình, tình dục
TANHA f. sự ước ao, sự thèm khát, tình dục, sự quyến luyến. --k
khaya m. tiêu tan ái dục. --
jlā nt. lưới bẫy của ái dục. --
dutiya a. có ái dục như bạn của mình. --
paccaya a. nguyên nhân do ái dục. --
vicarita tư tưởng về ái dục. --
saṅkhaya m. hoàn toàn diệt tắt lòng ái dục.--
saṃyojana nt. sự ràng buộc của ái dục. --
salla nt. nọc độc của ái dục.
còn theo quan điểm ""Bình dân học vụ" mà ngu tôi chiêm nghiệm trong đời thường thì người
Nam hay thiên nặng về Dục, còn người
Nữ thì thiên nặng về Ái; tức là, người nam thì
không cần yêu (Ái) vẫn có ham muốn quan hệ tình dục với người nữ, ngược lại người nữ thì
thích được yêu (Ái) nhiều hơn, tức là thích được thân cận, quan tâm, chia sẻ, quyến luyến nhiều hơn, còn có QHTD cũng được mà không có QHTD cũng không sao, chuyện đó sẽ đến sau.
các kinh liên quan:
(IX) (63) Một Pháp Môn Quyết Trạch
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Thầy pháp môn thể nhập, pháp môn pháp. Hãy nghe và tác ý, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp môn thể nhập (quyết trạch), pháp môn pháp?
Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các dục, cần phải biết duyên khởi các dục, cần phải biết các dục sai biệt, cần phải biết các dục dị thục, cần phải biết các dục đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến các dục đoạn diệt.
.................
3. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các dục, cần phải biết các dục duyên khởi, cần phải biết các dục sai biệt, cần phải biết các dục dị thục, cần phải biết các dục đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến các dục đoạn diệt, đã được nói như vậy. Và do duyên gì được nói như vậy?
Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng này: Các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả ý, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức... khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, dầu chúng không phải dục, chúng được gọi là dục trưởng dưỡng trong giới luật của bậc Thánh.
Các tư duy tham ái,
Là dục của con người,
Các hoa mỹ ở đời,
Chúng không phải là dục,
Các tư duy tham ái
Là dục của con người,
Các hoa mỹ an trú
Như vậy ở trên đời,
Ở đây những bậc Trí,
Nhiếp phục được lòng dục.
4. Này các Tỷ-kheo, thế nào là các dục duyên khởi? Xúc, này các Tỷ-kheo, là các dục duyên khởi.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các dục sai biệt? Này các Tỷ-kheo, dục trên các sắc là khác, dục trên các tiếng là khác, dục trên các hương là khác, dục trên các vị là khác, dục trên các xúc là khác. Này các Tỷ-kheo, đây là các dục sai biệt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các dục dị thục? Này các Tỷ-kheo, khi muốn một cái gì, sanh khởi một tự ngã khởi lên từ vật ấy, từ vật ấy, để dự phần phước đức, hay để dự phần không phước đức, Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các dục dị thục.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các dục đoạn diệt? Xúc đoạn diệt, này các Tỷ-kheo là dục đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo tám ngành đưa đến các dục đoạn diệt. Tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử rõ biết các dục như vậy, rõ biết các dục sanh khởi như vậy, rõ biết các dục sai biệt như vậy, rõ biết các dục dị thục như vậy, rõ biết các dục đoạn diệt như vậy, rõ biết con đường đưa đến các dục đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy được rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các dục đoạn diệt.
...............
(Ðại Phẩm - TĂNG CHI 6 PHÁP)
II. Có Nhân (Ðại 2, 115c, Ðan Tạp 2, Ðại 2,497c, Ðại 2, 504) (S.ii,151)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, có nhân, dục tầm sanh khởi, không phải không nhân. Có nhân, sân tầm sanh khởi, không phải không nhân. Có nhân, hại tầm sanh khởi, không phải không nhân.
3) Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, có nhân, dục tầm sanh khởi, không phải không nhân; có nhân, sân tầm sanh khởi, không phải không nhân; có nhân, hại tầm sanh khởi, không phải không nhân?
4) Này các Tỷ-kheo, do duyên dục giới, dục tưởng sanh khởi. Do duyên dục tưởng, dục tư duy sanh khởi. Do duyên dục tư duy, dục dục sanh khởi. Do duyên dục dục, dục nhiệt tình sanh khởi. Do duyên dục nhiệt tình, dục tầm cầu sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, do tầm cầu dục tầm cầu, kẻ vô văn phàm phu thực hành tà hạnh theo ba xứ: thân, ngữ, ý.
...............
9) Này các Tỷ-kheo, có nhân, xuất ly tầm sanh khởi, không phải không nhân. Có nhân, vô sân tầm sanh khởi, không phải không nhân. Có nhân, bất hại tầm sanh khởi, không phải không nhân.
10) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào có nhân, xuất ly tầm sanh khởi, không phải không nhân; có nhân, vô sân tầm sanh khởi, không phải không nhân; có nhân, bất hại tầm sanh khởi, không phải không nhân?
11) Này các Tỷ-kheo, do duyên xuất ly giới, xuất ly tưởng sanh khởi. Do duyên xuất ly tưởng, xuất ly tư duy sanh khởi. Do duyên xuất ly tư duy, xuất ly dục (chanda) sanh khởi. Do duyên xuất ly dục, xuất ly nhiệt tình sanh khởi. Do duyên xuất ly nhiệt tình, xuất ly tầm cầu sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, do tầm cầu xuất ly tầm cầu, vị Ða văn Thánh đệ tử thực hành chánh hạnh theo ba xứ: thân, ngữ, ý.
...............
(Tương Ưng Giới - TƯƠNG ƯNG BỘ KINH)
nguyên bản Pali:
sāvatthiyaṃ viharati … pe … “sanidānaṃ, bhikkhave, uppajjati kāmavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati byāpādavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati vihiṃsāvitakko, no anidānaṃ”.
♦ “kathañca, bhikkhave, sanidānaṃ uppajjati kāmavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati byāpādavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati vihiṃsāvitakko, no anidānaṃ? kāmadhātuṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati kāmasaññā, kāmasaññaṃ paṭicca uppajjati kāmasaṅkappo, kāmasaṅkappaṃ paṭicca uppajjati kāmacchando, kāmacchandaṃ paṭicca uppajjati kāmapariḷāho, kāmapariḷāhaṃ paṭicca uppajjati kāmapariyesanā. kāmapariyesanaṃ, bhikkhave, pariyesamāno assutavā puthujjano tīhi ṭhānehi micchā paṭipajjati — kāyena, vācāya, manasā.
♦ “byāpādadhātuṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati byāpādasaññā, byāpādasaññaṃ paṭicca uppajjati byāpādasaṅkappo … pe … byāpādacchando… byāpādapariḷāho… byāpādapariyesanā… byāpādapariyesanaṃ, bhikkhave, pariyesamāno assutavā puthujjano tīhi ṭhānehi micchā paṭipajjati — kāyena, vācāya, manasā.
♦ “vihiṃsādhātuṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati vihiṃsāsaññā; vihiṃsāsaññaṃ paṭicca uppajjati vihiṃsāsaṅkappo … pe … vihiṃsāchando… vihiṃsāpariḷāho… vihiṃsāpariyesanā… vihiṃsāpariyesanaṃ, bhikkhave, pariyesamāno assutavā puthujjano tīhi ṭhānehi micchā paṭipajjati — kāyena, vācāya, manasā.
♦ “seyyathāpi, bhikkhave, puriso ādittaṃ tiṇukkaṃ sukkhe tiṇadāye nikkhipeyya; no ce hatthehi ca pādehi ca khippameva nibbāpeyya. evañhi, bhikkhave, ye tiṇakaṭṭhanissitā pāṇā te anayabyasanaṃ āpajjeyyuṃ. evameva kho, bhikkhave, yo hi koci samaṇo vā brāhmaṇo vā uppannaṃ visamagataṃ saññaṃ na khippameva pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti, so diṭṭhe ceva dhamme dukkhaṃ viharati savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ; kāyassa ca bhedā paraṃ maraṇā duggati pāṭikaṅkhā.
♦ “sanidānaṃ, bhikkhave, uppajjati nekkhammavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati abyāpādavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati avihiṃsāvitakko, no anidānaṃ.
♦ “kathañca, bhikkhave, sanidānaṃ uppajjati nekkhammavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati abyāpādavitakko, no anidānaṃ; sanidānaṃ uppajjati avihiṃsāvitakko, no anidānaṃ? nekkhammadhātuṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati nekkhammasaññā, nekkhammasaññaṃ paṭicca uppajjati nekkhammasaṅkappo, nekkhammasaṅkappaṃ paṭicca uppajjati nekkhammacchando, nekkhammacchandaṃ paṭicca uppajjati nekkhammapariḷāho, nekkhammapariḷāhaṃ paṭicca uppajjati nekkhammapariyesanā; nekkhammapariyesanaṃ, bhikkhave, pariyesamāno sutavā ariyasāvako tīhi ṭhānehi sammā paṭipajjati — kāyena, vācāya, manasā.
♦ “abyāpādadhātuṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati abyāpādasaññā, abyāpādasaññaṃ paṭicca uppajjati abyāpādasaṅkappo … pe … abyāpādacchando… abyāpādapariḷāho… abyāpādapariyesanā, abyāpādapariyesanaṃ, bhikkhave, pariyesamāno sutavā ariyasāvako tīhi ṭhānehi sammā paṭipajjati — kāyena, vācāya, manasā.
♦ “avihiṃsādhātuṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati avihiṃsāsaññā, avihiṃsāsaññaṃ paṭicca uppajjati avihiṃsāsaṅkappo, avihiṃsāsaṅkappaṃ paṭicca uppajjati avihiṃsāchando, avihiṃsāchandaṃ paṭicca uppajjati avihiṃsāpariḷāho, avihiṃsāpariḷāhaṃ paṭicca uppajjati avihiṃsāpariyesanā; avihiṃsāpariyesanaṃ, bhikkhave, pariyesamāno sutavā ariyasāvako tīhi ṭhānehi sammā paṭipajjati — kāyena, vācāya, manasā.
♦ “seyyathāpi, bhikkhave, puriso ādittaṃ tiṇukkaṃ sukkhe tiṇadāye nikkhipeyya; tamenaṃ hatthehi ca pādehi ca khippameva nibbāpeyya. evañhi, bhikkhave, ye tiṇakaṭṭhanissitā pāṇā te na anayabyasanaṃ āpajjeyyuṃ. evameva kho, bhikkhave, yo hi koci samaṇo vā brāhmaṇo vā uppannaṃ visamagataṃ saññaṃ khippameva pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti, so diṭṭhe ceva dhamme sukhaṃ viharati avighātaṃ anupāyāsaṃ apariḷāhaṃ; kāyassa ca bhedā paraṃ maraṇā sugati pāṭikaṅkhā”ti. dutiyaṃ.–Còn đây là chú giải :
nidānavagga-aṭṭhakathā, 3. dhātusaṃyuttaṃ, 2. dutiyavaggo, 2. sanidānasuttavaṇṇanā
♦ 96. dutiye sanidānanti bhāvanapuṃsakametaṃ, sanidāno sapaccayo hutvā uppajjatīti attho. kāmadhātuṃ, bhikkhave, paṭiccāti ettha kāmavitakkopi kāmadhātu kāmāvacaradhammāpi, visesato sabbākusalampi. yathāha —
♦ “tattha katamā kāmadhātu? kāmapaṭisaṃyutto takko vitakko saṅkappo appanā byappanā cetaso abhiniropanā micchāsaṅkappo, ayaṃ vuccati kāmadhātu. heṭṭhato avīcinirayaṃ pariyantaṃ karitvā uparito paranimmitavasavattī deve antokaritvā yaṃ etasmiṃ antare etthāvacarā ettha pariyāpannā khandhadhātuāyatanā rūpā vedanā saññā saṅkhārā viññāṇaṃ, ayaṃ vuccati kāmadhātu. sabbepi akusalā dhammā kāmadhātū”ti (vibha. 182).
♦ ettha sabbasaṅgāhikā asambhinnāti dve kathā honti. kathaṃ? kāmadhātuggahaṇena hi byāpādadhātuvihiṃsādhātuyo gahitā hontīti ayaṃ sabbasaṅgāhikā. tāsaṃ pana dvinnaṃ dhātūnaṃ visuṃ āgatattā sesadhammā kāmadhātūti ayaṃ asambhinnakathā. ayamidha gahetabbā imaṃ kāmadhātuṃ ārammaṇavasena vā sampayogavasena vā paṭicca kāmasaññā nāma uppajjati. kāmasaññaṃ paṭiccāti kāmasaññaṃ pana sampayogavasena vā upanissayavasena vā paṭicca kāmasaṅkappo nāma uppajjati. iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo. tīhi ṭhānehīti tīhi kāraṇehi. micchā paṭipajjatīti ayāthāvapaṭipadaṃ aniyyānikapaṭipadaṃ paṭipajjati.
♦ byāpādadhātuṃ, bhikkhaveti ettha byāpādavitakkopi byāpādadhātu byāpādopi. yathāha —
♦ “tattha katamā byāpādadhātu? byāpādapaṭisaṃyutto takko vitakko … pe … ayaṃ vuccati byāpādadhātu. dasasu āghātavatthūsu cittassa āghāto paṭivirodho kopo pakopo … pe … anattamanatā cittassa, ayaṃ vuccati byāpādadhātū”ti (vibha. 182).
♦ imaṃ byāpādadhātuṃ sahajātapaccayādivasena paṭicca byāpādasaññā nāma uppajjati. sesaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
♦ vihiṃsādhātuṃ, bhikkhaveti ettha vihiṃsāvitakkopi vihiṃsādhātu vihiṃsāpi. yathāha —
♦ “tattha katamā vihiṃsādhātu? vihiṃsāpaṭisaṃyutto takko vitakko … pe … ayaṃ vuccati vihiṃsādhātu. idhekacco pāṇinā vā leḍḍunā vā daṇḍena vā satthena vā rajjuyā vā aññataraññatarena vā satte viheṭheti. yā evarūpā heṭhanā viheṭhanā hiṃsanā vihiṃsanā rosanā parūpaghāto, ayaṃ vuccati vihiṃsādhātū”ti (vibha. 182).
♦ imaṃ vihiṃsādhātuṃ sahajātapaccayādivasena paṭicca vihiṃsāsaññā nāma uppajjati. sesamidhāpi purimanayeneva veditabbaṃ.
♦ tiṇadāyeti tiṇagahane araññe. anayabyasananti avuḍḍhiṃ vināsaṃ. evameva khoti ettha sukkhatiṇadāyo viya ārammaṇaṃ daṭṭhabbaṃ, tiṇukkā viya akusalasaññā, tiṇakaṭṭhanissitā pāṇā viya ime sattā. yathā sukkhatiṇadāye ṭhapitaṃ tiṇukkaṃ khippaṃ vāyamitvā anibbāpentassa te pāṇā anayabyasanaṃ pāpuṇanti. evameva ye samaṇā vā brāhmaṇā vā uppannaṃ akusalasaññaṃ vikkhambhanatadaṅgasamucchedappahānehi nappajahanti, te dukkhaṃ viharanti.
♦ visamagatanti rāgavisamādīni anugataṃ akusalasaññaṃ. na khippameva pajahatīti vikkhambhanādivasena sīghaṃ nappajahati. na vinodetīti na nīharati. na byantīkarotīti bhaṅgamattampi anavasesento na vigatantaṃ karoti. na anabhāvaṃ gametīti na anuabhāvaṃ gameti. evaṃ sabbapadesu na — kāro āharitabbo. pāṭikaṅkhāti pāṭikaṅkhitabbā icchitabbā.
♦ nekkhammadhātuṃ, bhikkhaveti ettha nekkhammavitakkopi nekkhammadhātu sabbepi kusalā dhammā. yathāha —
♦ “tattha katamā nekkhammadhātu? nekkhammapaṭisaṃyutto takko vitakko … pe … sammāsaṅkappo, ayaṃ vuccati nekkhammadhātū”ti (vibha. 182).
♦ idhāpi duvidhā kathā. nekkhammadhātuggahaṇena hi itarāpi dve dhātuyo gahaṇaṃ gacchanti kusaladhammapariyāpannattā, ayaṃ sabbasaṅgāhikā. tā pana dhātuyo visuṃ dīpetabbāti tā ṭhapetvā sesā sabbakusalā nekkhammadhātūti ayaṃ asambhinnā. imaṃ nekkhammadhātuṃ sahajātādipaccayavasena paṭicca nekkhammasaññā nāma uppajjati. saññādīni paṭicca vitakkādayo yathānurūpaṃ.
♦ abyāpādadhātuṃ, bhikkhaveti ettha abyāpādavitakkopi abyāpādadhātu abyāpādopi. yathāha —
♦ “tattha katamā abyāpādadhātu? abyāpādapaṭisaṃyutto takko … pe … ayaṃ vuccati abyāpādadhātu. yā sattesu metti mettāyanā mettāyitattaṃ mettācetovimutti, ayaṃ vuccati abyāpādadhātū”ti (vibha. 182).
♦ imaṃ abyāpādadhātuṃ paṭicca vuttanayeneva abyāpādasaññā nāma uppajjati.
♦ avihiṃsādhātuṃ, bhikkhaveti etthāpi avihiṃsāvitakkopi avihiṃsādhātu karuṇāpi. yathāha —
♦ “tattha katamā avihiṃsādhātu? avihiṃsāpaṭisaṃyutto takko … pe … ayaṃ vuccati avihiṃsādhātu. yā sattesu karuṇā karuṇāyanā karuṇāyitattaṃ karuṇācetovimutti, ayaṃ vuccati avihiṃsādhātū”ti (vibha. 182).
♦ imaṃ avihiṃsādhātuṃ paṭicca vuttanayeneva avihiṃsāsaññā nāma uppajjati. sesaṃ sabbattha vuttānusāreneva veditabbaṃ. dutiyaṃ.
"cắt xén" cái phần cần đào sâu và nghiên cứu cho kỹ nè
kāmadhātuṃ -> kāmasaññā -> kāmasaṅkappo -> kāmacchando, -> kāmapariḷāho -> kāmapariyesanā -> micchā paṭipajjati — kāyena, vācāya, manasā
dục giới -> dục tưởng -> dục tư duy -> dục dục -> dục nhiệt tình -> dục tầm cầu -> tà hạnh - thân, khẩu, ý
thời gian hôm nay, chỉ làm được bấy nhiêu việc thôi. Khi nào rãnh, lại tiếp tục mò vào khảo cứu "biển Pháp" cùng các chư Đạo hữu.
Thân ái!