Chương II
HIỂU LỜI PHẬT DẠY TRONG KINH A DI ĐÀ
Mượn ngài Xá Lợi Phất, chắc chắn Phật có dụng ý nhắc nhở người tu trong thời ngũ trược - muốn cảnh tỉnh cho ai đó không tin và xem thường pháp kinh này.
Tổng cộng tên ngài Xá Lợi Phất được nhắc đến trong6/luctudida.jpg[/img][/center] kinh A Di Ðà là ba mươi tám lần.
Kinh A Di Ðà lại thật ngắn chẳng bằng một vài chương của các kinh lớn như: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Bảo Tích... Vậy mà tên vị đại Thánh được nhấn mạnh lưu ý đến ba mươi tám lần.
Hẳn chắc phải quan trọng, đáng suy nghĩ những gì Phật nói. Ngoài ra còn có các vị vua ở cả cõi trời nữa, như vua Ðế Thích, và vô lượng các vị Trời đều tham dự. Xét xem như thế, pháp hội giảng nói kinh A Di Ðà, số thính chúng được xác nhận rõ ràng; điều này cho biết đích thực giá trị quan trọng lợi ích của thời pháp.
Với các thời pháp trước và sau kinh A Di Ðà, số Bồ Tát, Thánh chúng, trời, người tham dự tương tự đông như vậy; nhưng thử để ý xem, những thời pháp ngắn thường tác động mạnh đến người nghe. Vì, thứ nhứt dễ nhớ, nên dễ hiểu do đó dễ thực hành. Nếu đem so pháp hội Hoa Nghiêm làm sao nhớ nỗi, thậm chí pháp hội Pháp Hoa được xem là tối thắng quan trọng, được hàng học Phật luôn luôn nhắc đến nhưng có ai lại thuộc kinh này! Thành ra Kinh Pháp Hoa ít nhiều trở thành sự hiếu kỳ để mọi giới nghiên cứu, và việc thực hành khó mà trọn vẹn - cũng do đây, việc rút ra một phẩm lợi ích thiết thực cho hàng học Phật trì tụng tu hành, đó là phẩm Phổ Môn thứ hai mươi lăm, thật đúng khế lý khế cơ (hợp chân lý, đúng căn cơ).
Như thế mới thấy, càng về thời cách xa Phật, những kinh ngắn gọn có tính cách nhắc nhở đánh thẳng vào tâm dễ cứu độ chúng sanh hơn.
Phật nói cõi tuyệt đẹp an vui đó nằm ở Phương Tây, làm hắn phải suy nghĩ!
Trong vũ trụ vô cùng vô biên, thì trái đất nằm ở phương nào để làm chuẩn tìm phương Tây?
Nói phương Tây là căn cứ vào thái dương hệ thế giới chúng ta lấy mặt trời làm điểm, nhưng thái dương hệ này nằm trong giải ngân hà Milky Way, mà trong vũ trụ có đến hàng tỉ giải Ngân hà!
Về cõi Phật A Di Ðà cách thế giới chúng ta đến mười muôn ức Phật độ.
"Từ phía Tây này, qua mười muôn ức cõi nước chư Phật, có một thế giới tên là Cực lạc..." (Tùng thị Tây phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc...).
Theo Ðại sư Ngẫu Ích giải thích danh từ Phật độ:
"là một khu vực của một vị Phật hóa độ, có một ngàn triệu Thái dương hệ, trong kinh Phật gọi là một Tam Thiên đại thiên thế giới .. "(1).
Phật Học Từ Ðiển Ðoàn Trung Còn, giải thích Tiểu thiên là một ngàn thế giới, Trung thiên triệu thế giới và Ðại thiên thì một ngàn triệu thế giới, tức một tỉ.
Vậy trong phạm vi của một cõi Phật bao gồm một tỉ thế giới; và cõi Cực Lạc lại đi qua hơn mười vạn ức Phật độ tức khoảng mười tỉ Phật độ(2). Thế thì không biết bao nhiêu là thế giới; con số đã vượt qua sức tưởng tượng của hắn, và hắn đã quên mất, chỉ phạm vi giải ngân hà Milky Way của chúng ta thôi, con người đã không thể tưởng tượng được, có gì xảy ra trong đó, với vài trăm tỉ thế giới!
Nhìn lại hành tinh (trái đất) mình đang ở, đối với quỹ đạo của thái dương hệ đã quá nhỏ, nay so với một ngân hà Milky Way thì hình dạng trái đất có còn gì để nói!
Thế thì hướng Tây Phật dạy ở đây, không phải là cái hướng của con người cố chấp bé nhỏ, sống trong một thế giới bé nhỏ và ngay cả một giải ngân hà cũng bé nhỏ luôn!
Hắn không dám đi xa nữa, vì chẳng thể nghĩ được, cũng chẳng còn kẹt chấp vào Ðông Tây chi nữa; nhưng để xem kế tiếp thế nào, mà Phật phải nói một bài pháp lạ lùng liên hệ đến những cảnh giới quá sức tưởng tượng!?
Vấn đề chúng sanh không khổ chỉ thuần vui, bây giờ hắn đã mạnh dạn hiểu hơn, vì hắn cũng đã tự giải thích chính mình rồi (thế giới Phật, do Ðại bi tâm nguyện chiêu cảm ra chớ không phải thế giới cộng nghiệp của chúng sinh). Bởi vì muốn cho chúng sanh phát tâm cầu sanh về Tây phương Cực Lạc nên Ngài mới nói vui và khổ, chứ thật ra tự nó không khổ không vui. Chúng sanh đã thanh tịnh, hoàn cảnh phải thanh tịnh nên không có vấn đề khổ với vui - vì chuyển vọng thức thành thật trí thì cả danh từ khổ vui cũng chẳng xuất hiện! Cho nên đoạn kinh có nói: Này Xá Lợi Phất,
"Cõi nước Phật kia, còn không có tên ba đường ác thay, huống là có thật".
Tuy nhiên, dù là đấng Ðại giác, lời nói của ngài cũng không thể không làm chúng sanh nghi ngờ, do vậy Phật phải kể rõ việc vui là vui thế nào, an lạc là an lạc ra sao?
Thật ra Phật không cần kể rõ như vậy; Phật có thể nói ngắn gọn rằng, nơi ấy có cõi Phật A Di Ðà, thật đúng nơi đáng cầu sanh về, thuận tiện con đường tu, các ông nên cầu sanh sang cõi đó. Chỉ cần vậy thôi cũng quá đủ, và các thính giả Bồ Tát, Thánh chúng... sẽ tin ngay mà không cần thắc mắc - do họ dư biết, với đấng Ðại giác không có việc phải nghi ngờ, nhất là những gì Phật đang giảng dạy, đều là giáo pháp thoát ly sinh tử.
Vậy thì chỉ có lý do khiến Phật phải kể rõ ra vì, cho chúng sanh trong thời không có Phật tại thế; và thời điểm đáng nói, ngay thời này vậy (mạt pháp). Quả thật đấng Ðại giác thương chúng sanh quá mức rồi!
Cảnh trí ở Cực Lạc Phật nói thế nào?
Phật nói, ở đó có những dậu rào, lưới chăng toàn thất bảo, có ao thất bảo, có nước bát công đức, có cát vàng óng ánh, lối đi bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xích châu, mã não.
Trong ao thì có hoa sen: xanh, vàng, đỏ, trắng nhiệm mầu thơm sạch v.v... và v.v...
Thật ra không thể nào tả được cảnh ấy, đức Phật quá từ bi nên ngài mới nói chi li cho người thế gian biết vậy; tuy nhiên nếu ngài không nói thì còn mấy người tin! Vì thế gian ai cũng ham vui, sợ khổ!
Thử hỏi, nơi đây con người thân hình thô kệch, tâm tánh gần như toàn chứa trược phiền ưu não mà vẫn chiêu cảm dệt nên một chút y báo, biến ra ít vài quặng mõ, vàng bạc kim cương... vậy nghĩ xem các bậc Thánh nhơn ở cõi tuyệt đẹp kia, thân hình toàn ánh sáng vi diệu, tâm tánh lại tuyệt tịnh, an nhiên thì y báo chiêu cảm sẽ thế nào! Không lẽ cũng vài hình ảnh bạc vàng, kim cương, san hô mã não! Chắc chắn cái đẹp nơi đó con người không thể hiểu được; thành ra cảnh đẹp huyền diệu kia phải đành mượn cái đẹp nhất ở thế gian mà tỉ dụ!
Ðiều có thể nghĩ ra, việc tả cảnh đẹp thế nào, sẽ không thành vấn đề, vì tâm đã hoàn toàn trí chơn thanh tịnh, thế còn gì sung sướng giải bày! Ðức Phật há từng dạy
"không có hạnh phúc nào bằng sự thanh tịnh của tâm" đó sao!
Thực tế nghĩ xem, khi tâm người yên tịnh, an vui không dính một chút lụy phiền, thế nhìn cái gì chẳng đẹp; vậy có phải tất cả đều biến thành trân châu ngọc báu! Ngược lại khi ưu buồn khổ tâm phiền não thì còn chi nữa là cảnh, là người!
(người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, Nguyễn Du)
Tả cảnh đẹp xong, Phật liền cho biết tất cả việc như vậy là do trang nghiêm công đức tạo thành. Tất nhiên công đức thù thắng dệt nên cảnh đó chính bởi đức Phật A Di Ðà; bằng lời nguyện của ngài mà thế giới hình thành tươi đẹp. Do công đức tu niệm hằng kiếp, mới có thể lập thành một thế giới y báo trang nghiêm hợp theo chánh báo tuyệt đối thanh tịnh của Ngài.
Nhưng tại sao một mình ngài lại tạo ra cả một thế giới, và thế giới đó không những tuyệt đẹp bất khả tư nghị, mà còn có thể tiếp thu dung chứa vô số chúng sanh ở các cõi khác đến sống!?
Một điều hiểu ngay, vì ngài là Phật, là đấng Giải thoát vượt ngoài sinh tử, viên mãn hết thảy vấn đề, và vượt siêu cả ý niệm về vấn đề nữa, nên tự tại hiện thân thế giới thanh tịnh lưu xuất từ Ðại bi tâm của ngài mà ra.
Tưởng tượng và suy nghĩ việc làm của đức Phật là một trong những điều không thể làm được đối với chúng sanh, kể cả chư Bồ Tát lớn - nên chỉ có thể cố hiểu một cách đơn giản như vậy.
Riêng nghĩ về một chúng sanh, tức nghĩ về tự ngã của mình, thì rõ ràng hoàn toàn không thể sánh được với bậc Giải Thoát, tuy nhiên mình cũng có một thế giới, thế giới phiền não Tham, Sân, Si!
Tự mỗi người mang theo ba nghiệp ô nhiễm dù mức độ khác nhau, nhưng dòng tâm thức bất tịnh chảy chung về hành khổ, do vậy không thể tự lực chiêu cảm thành một thế giới theo sở hạnh của mình, mà phải chịu lực kéo của nghiệp thức về chung, đồng tạo nên thế giới khổ.
Tỉ dụ đại khái, một đứa bé năm bảy tuổi phải luôn luôn sống theo hoàn cảnh của người lớn; người lớn làm thế nào chúng phải đi theo làm vậy (nghiệp lực phải chịu). Và dù chúng có đến trăm đứa, ngàn đứa chúng cũng không thể làm nên một xã hội, bởi vì chúng chưa đủ hiểu biết (chưa chứng đạo giải thoát). Với người lớn, dù một người cũng có thể hơn chúng đến hàng trăm, và có thể lập ra hoàn cảnh chỉ dạy cho chúng để trở thành một xã hội (Người tự tại giải thoát). Một người lớn trưởng thành, tự người đó đã có trong người một thế giới, vì có đầy đủ hiểu biết. (Ðó là vị Phật có đủ nguyện lực làm nên thế giới).
Ngoài cảnh tuyệt đẹp ở Cực Lạc, lại được tả, có nhiều loài chim hót múa, đặc biệt những lời hót ca đó là những bài pháp ca ngợi giáo pháp giải thoát của Như Lai. Tất nhiên, chúng ta hiểu ngay, loại chim đây không phải như các chú chim ở thế gian xuất hiện do nghiệp đọa tái sanh - chim đây (ở Cực Lạc) là phương tiện hóa hiện dệt nên cảnh trí tuyệt vời của giải thoát, mà như Phật đã phá nghi cho Ngài Xá Lợi Phất:
"Này Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng, những giống chim này thật do tội báo mà bị sanh ra. Tại vì sao thế?
- Vì cõi Phật ấy không ba đường ác.
- Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật kia, còn không có ba đường ác thay, huống là có thật. Các giống chim đó đều là biến hóa, chúng đều do đức Phật A Di Ðà, vì Ngài muốn cho tiếng diễn nói pháp, lan khắp các nơi, nên biến hóa ra.
(Xá Lợi Phất, nhữ vật vị thử điểu thiệt thị tội báo sở sinh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ vô tam ác đạo chi danh hà huống hữu thiệt. Thị chư chúng điểu giai thị A Di Ðà Phật dục linh Pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác).
Hòa theo tiếng chim nói pháp, còn có gió thổi phát vào các hàng cây báu, những hàng lưới ngọc, tạo nên vô số âm thanh nhạc điệu nhiệm mầu, khiến tạo phương tiện phát khởi Bồ Ðề Tâm.
-
Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy gió nhẹ thổi động những hàng cây báu và những lưới báu, thì cây và lưới vang tiếng nhiệm mầu cũng ví dụ như trăm ngàn thứ nhạc cùng lúc hòa tấu, người nghe tiếng này, tự nhiên sanh tâm niệm Phật, Pháp, Tăng.
(Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng xuất vi diệu âm, thí như bách thiên chủng nhạc đồng thời cu tác; văn thị âm giả, tự nhiên giai sinh niệm Phật, niệm Pháp, niệm tăng chi tâm).
Những bài pháp được các loài chim phát ra như kinh nói: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phận, bát Thánh đạo phận và nhiều pháp khác.
Ðây là các pháp nằm trong phần Ðạo (37 phẩm trợ đạo)(3) của Tứ Diệu Ðế (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo), vốn thật quan trọng và căn bản trên bước đường tu. Mỗi pháp, nếu y theo thực hành tinh tấn đủ đưa hành giả an tâm vào con đường giải thoát.
Ở đây có thể thấy, dù lý tưởng thực hiện được thế giới Cực Lạc qua sự kiện khó nghĩ bàn, nhưng phần nhiệm mầu chim nói pháp, gió hòa vui Tam Bảo lại khai ra con đường hành đạo thiết thực, cụ thể ở thế gian đó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Tiếp theo Phật dạy,
"Phật kia vì sao danh hiệu của ngài là A Di Ðà?" (Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Ðà?) và rồi giải thích,
"Bởi vì quang minh (ánh sáng rực rỡ) của đức Phật ấy không có hạn lượng, soi các cõi nước ở khắp mười phương, không bị chướng ngại, cho nên hiệu Ngài là A Di Ðà" (Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A Di Ðà).
Nên hiểu, đã là Phật thì vô cùng diệu dụng trang nghiêm sáng lạn không thể nghĩ bàn được, tuy vậy phần thị hiện độ sanh mỗi vị Phật có thể mỗi nguyện lực khác nhau. Như Phật Thích Ca thị hiện vào thế giới nhiễm ô này để độ chúng sanh, và đức A Di Ðà lập nên quốc độ tiếp dẫn người vãng sanh. Lại còn không ít chư Phật, vì nguyện lực phương tiện gần gũi chúng sanh, mà cứ mãi hành nguyện như hạnh nguyện Bồ Tát. Cho nên chúng ta chỉ hiểu nơi đây, Phật tán thán nguyện lực của Phật A Di Ðà, chứ chư Phật mười phương cũng không gì khác. Hơn nữa Phật đang giảng dạy về cõi Cực Lạc Tây phương thì Ngài phải dạy riêng như vậy.
Ðến đây Phật nói, dân chúng ở cõi Cực Lạc. Việc khó tưởng là,
"Thọ mạng Phật ấy và nhơn dân Ngài, lâu dài đến số vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp..." (Bỉ Phật thọ mệnh, cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp...)
Thọ mệnh của Phật A Di Ðà lâu là đương nhiên, nhưng người dân ở đó cũng lâu như ngài quả thật là một điều huyền diệu không tưởng.
Nhận xét mà thấy mỗi một thế giới, sự hiện hữu của các chúng sanh hẳn phải khác nhau. Chúng sanh mang tình thức cao, thấp ra sao sẽ có lối sống thích hợp tương xứng.
Không thể lấy hiểu biết ở thế giới nào đó hội nhập vào thế giới kia và ngược lại.
Người (tạm gọi) sinh ra ở thế giới Cực lạc là do hóa sanh, hóa sanh từ hoa sen. Quả của hóa sanh vào liên đài do nhân phát Bồ Ðề tâm cầu được vãng sanh, gặp Phật thành đạo độ chúng sanh. Do tâm nguyện vậy kết nên giác thức biến hiện, chiêu cảm hòa nhập vào Từ quang là ánh sáng chân thức của Phật, thành ra trong khoảnh khắc bỏ xác thân liền thấy Phật cùng chư Thánh chúng hiện ra tiếp đón. Ðó tạm gọi chuyển mạng thân thành thức thân đi vào thế giới thanh tịnh.
Người thường, không hiểu, không tu trì, chẳng chuyển được gì cả; mạng thân mất đi vẫn nguyên vẹn tái tạo mạng thân khác, và kết quả của mạng thân mới là do nghiệp lực dẫn vào. Chúng ta xuất hiện thế giới này, do thai sanh; thai sanh là quả của nhân ái dục, nên ô nhiễm uế trược thành ra xác thân cục mịch thô phù(4) và tất nhiên tuổi thọ khác xa với các vị ở thế giới Cực Lạc, bằng sắc thân trong sáng như kim cương.
Ngay chính Phật Thích Ca Ngài đã giải thoát hoàn toàn, đã thanh tịnh thân tâm tuyệt đối, đã không khác chư Phật mười phương, nhưng với thế giới gồ ghề uế trược Ta Bà, thân phương tiện của Phật cũng phải già nua và cuối cùng không trụ thế được nữa.
Tuổi thọ Ngài ra đi cũng phải hợp theo kiếp số chu kỳ con người, mà không thể sống thọ như các bậc thượng nhân ở cõi Cực Lạc. Do đó ta thấy, Phật Thích Ca thọ tuổi như con người Ta Bà, và cũng thế, dân chúng Cực Lạc tuổi thọ như Phật A Di Ðà không khác.
Nhưng nếu hỏi, người ở Cực Lạc chưa thành Phật làm sao ngang tuổi thọ với một vị Phật?
Ta có thể biết, vì ngay khi hóa thân từ hoa sen đi vào cõi Phật, họ đã chắc chắn thành Phật tương lai, như Phật Thích Ca thường dạy
"Ta là Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành". Lại xin lưu ý, nói đức Phật Thích Ca tuổi thọ như con người là nói theo thế gian, trụ sắc tướng vô thường chớ đã là Phật thì bất cứ điều gì cũng không thể nghĩ bàn được. Trong kinh Niết Bàn xác nhận điều này như sau:
"Ca Diếp! Ông chẳng nên ở nơi Như Lai có quan niệm là diệt tận.
Nầy Ca Diếp! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nhẫn đến ngoại đạo ngũ thông thần tiên, hạng được tự tại, hoặc sống một kiếp hay ít hơn, ở giữa hư không đi đứng nằm ngồi tự tại, nách tả phun lửa, nách hữu vọt nước, thân tuôn khói lửa, nếu muốn sống lâu thời được như ý muốn. Ðối với mạng sống, hoặc dài hoặc ngắn đều tự tại. Người được ngũ thông còn đặng thần lực tùy ý như vậy, huống là Như Lai đặng sức tự tại đối với tất cả pháp, mà lại không thể ở đời hoặc nửa kiếp, hoặc một hai kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc vô lượng kiếp sao? Vì những nghĩa ấy phải biết rằng Như Lai là pháp thường trụ chẳng biến đổi. Thân của Như Lai đây là thân biến hóa chẳng phải thân tạp thực. Vì độ chúng sanh nên thị hiện đồng với chúng. Vì vậy nên thị hiện bỏ thân mà nhập Niết bàn(5).
Vậy kết luận rằng, người dân ở Cực Lạc nhứt định thành Phật không sai, nên mới đồng mệnh tuổi thọ với Ngài.
GHI CHÚ:
(1) Kinh Phật Thuyết A Di Ðà Yếu Giải - Sa môn Trí Húc (Ngẫu Ích) giải thích những nghĩa thiết yếu trong kinh - Bồ Tát Giới Tuệ Nhuận dịch.
(2) 10 x 10,000 x 100,000 = 10,000,000,000.
(3) Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo: Gồm bảy thành Phần: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Ðề Phần và Bát Chánh Ðạo, tất cả cộng lại là 37 phẩm.
Xin xem thêm Phật Học Phổ thông, của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa.
- Ngươi viết tập sách này, cũng đã lược qua việc niệm Phật theo 37 phẩm trợ đạo trong tác phẩm "Hương thơm niệm Phật", đọc giả có thể tham khảo thêm.
(4) Thô phù: tướng căn bên ngoài của con người hợp theo trần cảnh ô nhiễm.
(5) Kinh Ðại Bát Niết Bàn - Phẩm Trường Thọ, HT. Thích Trí Tịnh dịch.