CHƯƠNG IV
ĐẠI Ý MỖI PHẨM
A. PHẦN TỔNG HIỂN
1. TỰ PHẨM
Trong phẩm này, tổng hiển Nhất chơn Bình đẳng pháp giới. Nhất chơn pháp giới chính là Bổn giác diệu tâm bình đẳng của Thánh phàm, của tất cả. Tổng hiển Nhất chơn pháp giới để chỉ rõ đức Phật hiện ra nơi đời từ trước đến sau vẫn không ngoài: "Phổ Quang Minh Trí Sát Na Tế Tam Muội". Trước chính là hội Hoa Nghiêm nơi Bồ Đề Đạo tràng. Sau là hội Pháp Hoa nơi Linh Thức sơn này. Trước sau đức Phật vẫn trụ tam muội đó mà chuyển pháp độ sanh. Phổ Quang minh Trí tức là Phật tri kiến vậy. Chẳng những đức Phật tự trụ mà muốn cho chúng sanh liễu ngộ chơn cảnh thật tướng này, nên trong kinh nói: "
Vì muốn cho chúng sanh khai thị ngộ nhập Phật tri kiến mà đức Phật hiện ra trong đời". Liễu ngộ chơn cảnh thực tướng này để làm chánh nhơn thật thành tựu Phật quả.
Trước khi chỉ bày Phật tri kiến, đức Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa, rồi tự nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ Tam Muội, đó là ý gì? Chính để chỉ rõ rằng tất cả những sự đi đứng, nói nín v.v... của đức Phật không phải cảnh giới tâm thức tư lương của phàm tình. Không thể dùng tâm thức tư lương này mà suy bàn đến được.
Đức Phật tự trụ trong Tam muội mà trời rưới bốn thứ hoa, đất lay sáu điệu, đó là chỉ rõ sức vô tác diệu lực của đức Phật. Phật chấn động hang sâu vô minh mê tối của chúng sanh, suốt trừ tất cả sự chướng ngại của bốn đại sáu căn vậy. Tướng lông trắng phóng hào quang chiếu thấu một vạn tám nghìn thế giới ở phương Đông đó, chính chỉ rằng căn, trần, thức loạn động của chúng sanh không rời Phổ Quang Minh Trí. Phương Đông là nguồn động hóa, mười tám nghìn thế giới là lệ sáu căn, sáu trần: sáu thức, mười tám giới. Mười tám giới không ngoài Phổ Quang Minh Trí, cũng như mười tám nghìn thế giới lộ ra trong bạch hào tướng quang của đức Phật. Trong quang minh hiện ra sự tướng của pháp giới, dưới thấu địa ngục A Tỳ, trên suốt cõi trời Hữu Đảnh. Nào Phật ra đời, thuyết pháp, Niết Bàn; nào Bồ Tát tu tập đạo hạnh y báo, chánh báo đồng hiện, cả Thánh lẫn phàm chưng bày, đó là gì? Là Phật cùng chúng sanh, tất cả đồng một tánh thể, không hai không khác. Chỉ khác là đức Phật chứng ngộ nơi đó, an trụ nơi đó, tự tại giải thoát, thuyết pháp độ sanh; còn chúng sanh mê nơi đó, dù rằng không bao giờ rời được đó, nhưng không tự nhận mà phải lưu chuyển. Dù lưu chuyển nhưng vẫn không một phút xa rời, nên chính cảnh giới thường ngày trước mắt chúng sanh là thật tướng chơn cảnh. Nếu có thể phản tỉnh xoay về, liễu ngộ tánh thể thật tướng này, thời đó là chánh nhơn thành Phật mà Phật quả không xa vậy. Đức Như Lai hiện ra đời chính là vì việc này, đó là đại sự nhơn duyện, đó là Nhất thừa chơn thật. Trên bốn mươi năm thuyết pháp vẫn nói không hết những việc nhất thời hiện ra trong bạch hào quang minh. Trên bốn mươi năm qua, đức Phật chưa từng hiển phát cảnh giới này là vì căn cơ của chúng sanh chưa thuần thục, còn phải đợi thời tiết. Đến nay phải lúc nên đức Phật hiển phát.
Ngài Di Lặc Bồ Tát sanh lòng nghi không quyết, phải hỏi ngài Văn Thù Bồ Tát, đó là ý chỉ rằng cảnh giới thật tướng này không phải tâm thức có thể biết thấu đáo được, phải dùng chơn trí mới tương ưng. Đại trí Văn Thù dẫn việc sau trước của Cổ Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh chứng thoại tướng hôm nay cũng thế, để rõ rằng đức Phật đạo đồng, xưa cùng nay vẫn một lý thôi. Do những nghĩa trên nên phẩm "Tự" này là tổng hiển cảnh tượng một đại sự nhơn duyên, vì đó mà đức Phật hiện ra trong đời vậy.
B. PHẦN KHAI PHẬT TRI KIẾN
2. PHƯƠNG TIỆN PHẨM
Vừa rồi, đức Thế Tôn nhập Vô lượng Nghĩa xứ Tam muội phóng bạch hào quang minh hiện chơn cảnh diệu minh ý muốn chúng hội đương cơ, hiện tiền mục kích, khế ngộ biểu tượng chơn thuyên, khỏi cần phải nói phô bày vẽ.
Nhưng ngặt vì cơ liệt, mắt chậm, trí mờ không thấu được đạo tịch diệt ly ngôn, chẳng đạt được thể tánh chơn vô niệm, nên đức Phật từ Tam muội dậy, lại dùng lời nói phô tự tán tự dương, trước khích động sau chỉ bày, mở mối tri kiến, gọi đó là phương tiện. Vì phàm hể xen vào vòng nói năng tức là phương tiện vậy.
Cứ theo trong lời sớ kinh Hoa Nghiêm, về phương tiện có hai:
- 1. Viễn phương tiện.
2. Cận phương tiện.
Suy cùng về trước, các kinh của đức Phật tuyên nói trong hơn bốn mươi năm, đều là phương tiện của kinh Pháp Hoa. Kinh nói: "
Dù là chỉ bày các đạo hạnh, nhưng chính thật vì một Phật thừa", đó là Viễn Phương tiện. Còn luận về hiện tại, thời tất cả việc như nhập định, phóng quang, động địa, khai phát v.v... đều là phương tiện của đương hội. Kinh nói: "
Nay, đức Phật phóng quang minh để trợ phát nghĩa thật tướng", đó là Cận phương tiện.
Bởi từ trước, vì căn cơ của chúng chưa thuần, nên mục đích hiện ra nơi đời, đức Phật chưa từng thổ lộ.
Hiện nay, khí tánh của chúng đã thục, đã phải lúc phải thời, đức Phật cùng tận phô bày chủ ý ra đời, phế ba thừa Quyền giáo để hiển nhất thừa chơn thật. Do đó mà sau khi xuất định, đức Phật cùng cực khen ngợi trí huệ rộng sâu của Phật. Ngoài Phật cùng Phật ra, không một ai có thể suy lường thấu đáo được, để làm cho chúng hội sanh lòng hâm mộ. Kinh nói: "
Trí huệ của Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào". Lại nói: "
Tri kiến của Như Lai rất rộng lớn sâu xa, vô lượng cũng vô ngại. Thập Lực, Tứ Vô Úy, thiền định, giải thoát, tam muội đều sâu xa không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp vị tằng hữu". Lại nói: "Pháp ít có thứ nhất rất khó hiểu của đức Phật trọn thành. Chỉ có Phật cùng Phật mới có thể rõ thấu cùng tận thật tướng của các pháp".
Sau khi tán thán công đức trí huệ của Phật, đức Phật còn chưa vội chỉ thị thật bày, vì e rằng trong chúng bỗng nhiên nghe pháp Chơn thừa cao sâu, khó nổi sanh lòng kinh hãi. Đức Phật đợi ngài Xá Lợi Phất thay mặt chúng hội ba phen thưa thỉnh, lòng cầu khẩn đã thiết, ý khí đã thuận tùng, rồi sau mới nói. Đức Phật nói những gì? Đức Phật thận trọng dạy rằng: "
Mọi người rồi sẽ thành Phật cả". Kinh nói: "
Nếu có loài chúng sanh gặp Phật quá khứ hoặc nghe pháp bố thí; hoặc trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền trí, thảy tu các món phước huệ, tất cả hạng người đó đều đã thành Phật đạo. Những người xây tháp Phật, người đắp tượng, dựng chùa, cho đến đồng tử chơi vun cát làm tháp, các hạng người như thế đều đã thành Phật đạo... Hoặc người lòng vui mừng ca ngâm khen đức Phật... cho đến đem một bông cúng dường nơi tượng vẽ... Hoặc có người lễ bái, hoặc lại chỉ chắp tay, dơ tay cùng cúi đầu để cúng dường tượng Phật, lần thấy vô lượng Phật tự thành đạo vô thượng... Nếu có người nghe pháp, không một ai chẳng thành Phật..."
Đức Phật thuật lại ngày trước, khi mới thành đạo, trong hai mươi mốt ngày, ngài suy nghĩ phương thế độ đời, độ mọi loài trong đời đều thành Phật như Phật. Dù bổn nguyện của đức Phật muốn khắp tất cả chúng sanh thẳng vào Phật huệ, song vì căn khí chúng sanh ám độn, nên đức Phật phải chìu theo, dùng phương tiện huyền xảo dẫn dắt dụ dỗ lần lần. Kinh nói: "
Lúc ta ngồi Đạo tràng, xem cây cũng kinh hành, trong khoảng hai mươi mốt ngày, suy nghĩ việc như vầy. Trí huệ của ta đặng, vi diệu tột bậc. Chúng sanh các căn độn, bị tham si làm mù, các hạng người như thế này, làm sao độ đặng... Ngày nay ta đặng đạo, cũng nên nói ba thừa". Mười phương chư Phật cũng nói: "
Chúng ta đều đặng pháp thứ nhất rất mầu, vì các hạng chúng sanh phân biệt nói ba thừa". Trí hèn ưa pháp nhỏ, chẳng tin mình làm Phật, nên Phật dùng phương tiện phân biệt nói các quả. Dù lại nói ba thừa chỉ dạy Bồ Tát. Kinh lại nói: "
Ta lại nghĩ như vầy: Ta hiện ra nơi đời ác trược, cũng nên tùy thuận làm theo, như lời các đức Phật ở mười phương vừa nói".
Như thế ba thừa là quyền giả, gốc từ Nhất thừa mà ra, như kinh nói: "
Chư Phật dùng sức phương tiện nơi một Phật thừa, phương tiện nói thành ba".
Mặc dù là phương tiện dẫn dụ, nhưng kỳ thật là đưa đến con đường chơn đạo, con đường thẳng đến quả Vô thượng. Trong kinh nói: "
Sở dĩ Phật ra đời vì để nói Phật huệ, nay chính đã đến giờ. Nay Ta vui mừng không lo sợ, ở nơi trong chúng hội Bồ Tát, bỏ phương tiện trước, chính trực tuyên bày, chỉ nói đạo giáo Nhất thừa Vô thượng... Trăm nghìn La hán cũng đều sẽ làm Phật, sanh lòng rất vui mừng tự biết sẽ làm Phật".
Bắt đầu từ phẩm "Phương tiện thứ 2" này đến phẩm Pháp sư thứ 10". chính là khai hiển chơn tri kiến của Như Lai, nên thuộc về phần "Khai Phật tri kiến".
3. THÍ DỤ PHẨM
Nhơn vì trong phẩm Phương Tiện trước, đức Thế Tôn thẳng một mực thổ lộ Chơn thừa, mục đích duy nhất của đức Phật hiện ra nơi đời. Ngài Xá Lợi Phất, trí huệ thượng thủ trong chúng hội Thanh Văn, nghe pháp Chơn thừa liền lãnh hội tỏ ngộ trước nhất, nghĩ nhớ lại từ trước mê lầm không chịu tự nhận, nên tự trách tự hờn, đến nay mới tin chắc rằng sẽ đặng làm Phật không còn nghi ngờ. Khi nói: "
Nhưng vì chúng con không hiểu rằng Phật phương tiện tùy cơ nghi nói pháp, vừa nghe Phật nói pháp liền tin nhận nghĩ suy chứng quả. Thế Tôn! Con từ trước đến nay trọn ngày mãn đêm thường tự khắc trách... Ngày nay mới biết mình thật là Phật Tử, từ miệng nói mà sanh ra, từ pháp hóa sanh, đặng phần Phật pháp... Lòng con rất vui mừng, nghi hối đã trừ hẳn, an trụ trong Phật trí. Con quyết sẽ làm Phật, được trời người cung kính, chuyển pháp luân vô thượng, giáo hóa các Bồ Tát". Vì ngài Xá Lợi Phất đã tự tin nhận làm Phật, đã lãnh hội Chơn thừa, nên liền đặng đức Thế Tôn thọ ký, sẽ thành Phật hiệu Hoa Quang ở cõi nước Ly Cấu rộng độ vô lượng chúng. Hàng Thanh Văn từ lâu trầm trệ nơi Quyền thừa, nay một phen nghe Thật giáo sanh tín tâm liền đặng thọ ký, đó chính là: "
Rõ tất cả các pháp tức tâm tự tánh, thành tựu huệ thân, tỏ ngộ chẳng phải do người khác". Dù vậy, song còn phải trải qua nhiều kiếp số tu hành mới đặng thành, vì vô minh chưa hết, cần phải lâu dài theo Phật, tu tập dứt trừ, đến khi vô minh hết hẳn, mới thật chứng Phật quả, Thọ ký. Ý nghĩa đại khái như thế.
Trong chúng hội Tiểu Thừa, từ trước tình chấp sâu nặng nghi ngờ không tin, mỗi người đều tự cho rằng: mình quyết không đặng dự phần làm Phật, cũng không có chí mong cầu. Nay, chính tai nghe, tận mắt thấy ngài Xá Lợi Phất được đức Thế Tôn thọ ký sẽ thành Phật, ngài Xá Lợi Phất đã vậy, chắc mình cũng thế, nên cả thảy đều sanh lòng rất vui mừng, liền cởi y tung lên cúng dường đức Thế Tôn để tiêu biểu ý hướng thượng giải thoát. Kinh nói: "
Thế Tôn nói pháp đó, chúng con đều tùy hỷ. Đại trí Xá Lợi Phất nay đặng Phật thọ ký, chúng con cũng thế, quyết sẽ đặng làm Phật, trong tất cả thế gian, rất tôn quí vô thượng". Dù tự mình đã quyết định tin chắc, nhưng còn lo trong chúng hội chỗ tin nhận chưa hoàn toàn thấu đáo, nên ngài Xá Lợi Phất lại ân cần cầu thỉnh đức Thế Tôn vì tứ chúng mà nói rõ: "Sở nhơn vì sao thuở trước Phật lại nói Quyền, nay lại bỏ Quyền nói Thật để dứt hẳn lòng nghi của toàn chúng hội.
Đức Thế Tôn nói nhà lửa để tỷ dụ:
Tả cảnh nhà lửa hư sụp nguy hiểm, đầy những ác quỷ, trùng độc, thú dữ, lại thêm lửa dậy tứ bề để lệ vòng sanh tử khốn khổ trong Tam giới.
Các con ngu dại, tự thân ở trong chỗ hiểm nguy họa diệt vong ập đến, mà vẫn mê say vui đùa không hay không biết, để lệ sự mê lầm tham chấp của chúng sanh.
(Còn tiếp)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.