294. TÍCH CHUYỆN TRƯỞNG LÃO SĨ HOA LY
Vào một thời kia, đức Phật ngụ trong rừng Cung Đà Na, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến việc Trưởng lão Sĩ Hoa Ly.
Thuở ấy, ở thành Cung Đà Cô Ly Gia, gần bộ tộc Thích Ca, có nàng công chúa mang thai đến bảy năm mà chưa sanh nở. Công chúa rất tin tưởng nơi ngôi Tam Bảo, nên nhờ chồng đến đảnh lễ đức Phật và trình bày về hoàn cảnh của mình. Khi nghe hoàng tử thuật lại việc vợ mang thai nặng nề quá lâu như thế, đức Phật bảo: "Nầy vương tử, nguyện cầu cho công chúa sớm sanh được con trai kháu khỉnh! "Hôm ấy, công chúa sanh được hoàng nam. Cả triều vui mừng, nhà vua mới thiết lễ trai tăng, thỉnh đức Phật và chư Tăng đến dự. Đức Phật và chúng tăng lưu lại thành Cung Đà trong bảy ngày, để thuyết pháp.
Về sau, hoàng nam lớn lên đi tu, gia nhập Tăng đoàn mang tên là Tỳ kheo Sĩ Hoa Ly. Tu hành rất tinh tấn, Sĩ Hoa Ly sớm chứng được đạo quả A la hán. Dân chúng rất ngưỡng mộ và lễ vật dâng cúng cho Trưởng lão Sĩ Hoa Ly nhiều hơn tất cả mọi người.
Vào một buổi chiều, có vị tỳ kheo muốn biết vì sao Trưởng lão Sĩ Hoa Ly tài đức như thế mà lại phải nằm lâu trong bụng mẹ đến bảy năm. Đức Phật đáp: "Nầy chư Tăng, trong một tiền kiếp, Sĩ Hoa Ly là vị hoàng tử tài giỏi, nhưng chẳng may, nước bị giặc xâm lăng. Để giải phóng nước nhà, hoàng tử đã bao vây một kinh thành chặt chẽ. Trong bảy năm trời, dân chúng trong thành đói khát, nhiều kẻ bị chết. Vì hành động độc ác đó, nên kiếp nầy, Sĩ Hoa Ly phải chịu bảy năm ở cảnh u tối trong bụng mẹ. Nhưng ngày nay, Sĩ Hoa Ly đã chứng quả A la hán, đang cất bước thênh thang trong cảnh giới Niết Bàn".
Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
- Người thoát khỏi vũng lầy "tham ái",
Trải qua đường "phiền não" hiểm nguy,
Vượt trùng dương "Luân hồi" mê tối,
Sang đến bờ "thiền định", dứt nghi,
Tịch tĩnh, chẳng bấu víu điều chi,
Như Lai gọi là Bà la môn.
(Kệ số 414)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
-
Sĩ Hoa Ly: Tên vị Trưởng lão, tiếng Pali là Sīvali.
-
Rừng Cung Đà Na: Tên khu rừng nầy tiếng Pali là Kundadhāna.
-
Thành Cung Đà Cô Ly Gia: Tên thành nầy, Pali là Kundakoliya.
-
Tam Bảo: Ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng.
-
Lễ trai tăng: Lễ dưng cúng thực phẩm lên các vị tỳ kheo.
-
Xâm lăng: Đánh chiếm đất nước.
-
Giải phóng: Đuổi giặc ra khỏi nước, giành lại nền độc lập, tự chủ.
-
Vũng lầy: Vũng bùn lầy. Tham ái = quá ham sống theo thú vui.
-
Trùng dương: Biển cả sóng to. Luân hồi: tái sanh trở lại.
-
Tịch tĩnh: Tịch = vắng vẻ; Tĩnh = yên lặng.
B. NGHĨA Ý:
(1)
Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại vì sao Sĩ Hoa Ly phải nằm trong bụng mẹ bảy năm mới được sanh ra: đó là quả báo của việc vây thành trong bảy năm, ở kiếp trước.
Ý nghĩa của Tích chuyện ngoài việc quả báo ra, còn nói đến con đường tu tập để chứng đắc quả vị A la hán. Vượt qua con đường đó như thế nào, bài Kệ sẽ nói rõ.
(2)
Ý nghĩa của bài Kệ số 414:
Bài Kệ số 414 ghi lại các đoạn đường tu tập để chứng quả A la hán, bằng các danh từ cụ thể, tượng trưng. Xin phân tách các điểm quan trọng trên đoạn đường đó:
- a. Vũng lầy "Tham ái": Tham ái, bám vào đời sống, là vũng sình níu chặt con người vào cõi tử sanh của Luân hồi. Bắt đầu tu là bỏ ngay sự tham ái, để rút chơn ra khỏi vũng lầy, mà cất bước lên đường.
b. Đường hiểm nguy "Phiền não": đường hiểm nguy là đoạn đường chông gai, gây trở ngại khiến ta bỏ dở nửa chừng. Hiểm nguy do đâu gây ra? Ba mối độc chánh: tham, sân, si, có nghi đi kèm.
c. Trùng dương "Luân hồi": sự sống đi chết lại triền miên ví như các ngọn sóng lặn hụp nơi biển cả, biển Luân hồi. Vượt được trùng dương Luân hồi là chứng được vô sanh, chẳng bị tái sanh nữa, chẳng bị sóng dập gió dồn nữa giữa biển cả minh mông.
d. Sang bờ "thiền định" dứt nghi: lên đến được bờ giác-ngộ, chẳng còn nghi-ngờ gì, bằng phương cách tuThiền định.
e. Tịch tĩnh, chẳng bấu víu điều chi: từ nay sống trong sự vắng lặng an nhiên của cảnh Niết bàn tịch tĩnh, hoàn toàn giải thoát, vì buông bỏ tất cả, chẳng còn bấu víu vào bất cứ điều chi nữa.
295. TÍCH CHUYỆN TRƯỞNG LÃO SƠN ĐÀ
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến Trưởng lão Sơn Đà.
Tỳ kheo Sơn Đà vốn con nhà giàu có ở Xá Vệ, sau khi gia nhập Tăng đoàn, liền rời chùa Kỳ Viên đi đến thành Vương Xá, vào khu rừng vắng để tu tập thiền định. Bấy giờ ở thành Xá Vệ có hội hoa đăng, đèn đuốc rực rỡ, thiên hạ vui vầy. Cha mẹ của Sơn Đà, nhớ đến con nay chịu cực khổ, chẳng được hưởng các thú vui tưng bừng đang diễn ra tại đây. Ông bà ngồi khóc. Có một nàng dâm nữ đi ngang, nghe thấy, mới hỏi duyên cớ. Nghe xong nỗi niềm thương nhớ con, nàng ấy liền đề nghị: "Con có cách làm cho chàng Sơn Đà hoàn tục, trở lại xum họp với gia đình, nhưng chẳng biết ông bà thưởng cho con bao nhiêu tiền?" Hai ông bà hứa cho nhiều tiền bạc. Cô dâm nữ mượn trước một số tiền to, rồi đi đến thành Vương Xá.
Cô mướn một ngôi nhà lầu xinh đẹp, nằm trên đường đi khất thực hằng ngày của tỳ kheo Sơn Đà. Cô chuẩn bị thức ăn thật ngon, để cúng dường ngoài cổng. Tuần sau, cô mời vị tỳ kheo vào sân. Rồi cô mua kẹo cho trẻ nhỏ, bảo chúng chạy giỡn ở sân; khi tỳ kheo Sơn Đà đến khất thực, cô viện cớ trẻ ồn ào, mời vị tu hành vào nhà, để thọ thực. Hôm sau nữa, cô cũng mời vào, lấy cớ từng dưới nhà chưa kịp dọn dẹp sạch sẽ, mời tỳ kheo Sơn Đà lên lầu. Cả hai vừa bước vào phòng, cô khóa chặt cửa lại, rồi giở giọng quyến rũ. Lời cô dịu dàng, thân cô ưỡn ẹo. Tỳ kheo Sơn Đà giựt mình, biết mình đang sa vào cạm bẫy. Tự trách mình chẳng tỉnh giác, lơ là để mắc phải tội lỗi, vị tỳ kheo liền chấp tay, khẩn thiết hướng về chùa Kỳ Viên, cầu đức Phật cứu giúp. Bấy giờ, đức Phật quán thấy cảnh lâm nguy của tỳ kheo Sơn Đà, Ngài phóng đạo hào quang đến căn lầu, hiện thân lên nói: "Nầy tỳ kheo, hãy quyết tâm dẹp bỏ mọi dục vọng, mọi tham ái, chớ chạy theo các thú vui nhục dục thấp hèn và tạm bợ". Tâm Sơn Đà phấn khởi lên, liền nhập định. Đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó tỳ kheo Sơn Đà chứng ngay được quả vị A la hán, thi triển thần thông, bay theo sau Phật về chùa Kỳ Viên:
- Ai đời nầy dục lạc lìa bỏ,
Rời gia đình theo ngõ xuất gia,
Dục ái, hữu ái đà đoạn tận,
Như Lai gọi là Bà la môn.
(Kệ số 415)
TÌM HIỂU:
A. NGHĨA CHỮ:
-
Sơn Đà: Tên vị Trưởng lão nầy, tiếng Pali là Sundarasamudda.
-
Hoa đăng: Hoa = bông hoa; Đăng = đèn. Hội hoa đăng là buổi lễ về đêm, có đèn hoa rực rỡ.
-
Dâm nữ: Cô gái bán dâm, mua vui cho đàn ông.
-
Hoàn tục: Hoàn = trở về; Tục = đời sống thế tục. Hoàn tục là bỏ cuộc đời tu hành, trở về sống lại với gia đình trong xã hội.
-
Vương Xá: Rājagaha, thủ đô nước Ma Kiệt Đà (Magadha).
-
Tho thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Thọ thực là ăn, tiếng nhà chùa.
-
Uỡn ẹo: Uốn éo để khêu gợi.
-
Tỉnh giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh giác luôn luôn chú ý, đang làm, nói, nghĩ điều gì thì tâm bên trong biết mình đang làm, nói, nghĩ về điều đó, và chỉ điều đó mà thôi, chẳng lo ra.
-
Khẩn thiết: Khẩn = gấp, mau; Thiết = thành tâm, tha thiết.
-
Quán thấy: Trong cơn thiền định, nhìn thấy rõ bằng mắt tâm.
-
Nhục dục: Nhục = thịt; Dục = ham muốn. Nhục dục là ham muốn thú vui về thể xác, giữa dàn ông, đàn bà.
-
Dục lạc: Dục = ham muốn; Lạc = thú vui. Chữ dục lạc ở đây, chỉ các thú vui vật chất thấp và tạm.
-
Dục ái: Dục = cõi dục giới, nơi con người đang sanh sống; Ái = thương; Dục ái ở đây là quá mến thích cảnh sống ở cõi dục giới. (Có ba cõi trong thế gian:
- (1) Cõi dục giới;
(2) Cõi sắc giới;
(3) Cõi vô sắc giới).
-
Hữu ái: Hữu = hiện hữu, đời sống hiện tại; Ái = thương. Hữu ái ở đây có nghĩa là tham sống hoài, muốn được tái sanh lại mãi trong cõi Luân hồi.
-
Đoạn tận: Đoạn = cắt đứt đoạn; Tận = dứt hết cả. Đoạn tận là tiêu diệt hết tận, chẳng còn gì.
B. NGHĨA Ý:
(1)
Ý nghĩa của Tích chuyện:
Tích chuyện thuật lại việc cám dỗ của một dâm nữ, nhưng chẳng thành công để quyến rũ tỳ kheo Sơn Đà vào tội dâm, để hoàn tục. Nhờ trong phút lâm nguy, khẩn thiết tưởng niệm đến Phật, Sơn Đà thoát nguy.
Ý nghĩa của Tích chuyện là lời tự trách mình thiếu tỉnh giác của tỳ kheo Sơn Đà. Nếu tâm luôn luôn tỉnh giác, chắc chắn sẽ đoán ngay được sự nguy hiểm khi bước chơn vào nhà người dâm nữ.
(2)
Ý nghĩa của bài Kệ số 415:
Bài Kệ nêu ra ba điểm:
- a. Lìa bỏ dục lạc;
b. Rời gia đình để xuất gia;
c. Đoạn tận dục ái và hữu ái. Xin lần lượt xét qua các đìểm:
- (a) Ai đời nầy dục lạc lìa bỏ: bỏ các thú vui vật chất, để tìm thú vui tinh thần, tu-hành chứng quả để thoát Khổ vĩnh viễn.
(b) Rời gia đình theo ngõ xuất gia: đó là con đường giải thoát, nhưng người thường lại cho là cực khổ.
(c) Dục ái, hữu ái đà đoạn tận: cắt đứt hẳn sự tríu mến vào đời sống Luân hồi, tức là dục ái, hữu ái, để tìm về cuộc sống giải thoát, an nhiên, tự tại trong cảnh Niết bàn, bằng cách chứng quả A la hán.