binh đã viết:
Kinh "Hiền Ngu"
Ở đây chữ Hiền chỉ "người Hiền" (Trong Phật pháp có nói đến "tứ thánh, tam hiền", trong đó tứ Thánh là A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật. Còn tam hiền là bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm)
Chữ Ngu có nghĩa là rất hiền, hiền đến độ như trẻ thơ vậy. Ngày xưa nước Việt mình có hiệu là Đại Ngu, có nghĩa là nước mình rất hiền chứ không phải là rất ngu.
Cho nên kinh "Hiền Ngu" là kinh nói về những người hiền rất hiền.
Chào bạn binh,
Bạn binh viết sai vài điểm nên cần đính chính lại ở đây để tránh những ngộ nhận cho các độc giả.
1. Chữ Ngu trong tên của kinh Hiền Ngu Kinh 賢愚經 có nghĩa là Ngu 愚 = ngu, đần, dại, ngốc, ngu dốt, ngu muội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là "rất hiền, hiền đến độ như trẻ thơ vậy" như bạn binh viết (không biết bạn binh tìm ở đâu ra một cái nghĩa "lọa" như vậy ?)
Khi KKT dịch tên kinh là Kinh Hiền Ngu = Kinh Bậc Hiền Giả và Kẻ Ngu Si thì không phải là KKT dịch "bừa" mà không dựa trên một cơ sở nào. KKT dịch như vậy là căn cứ trên cái tên của kinh được dịch sang tiếng Anh là "The Sutra of the Wise and the Foolish" trong một tác phẩm dẫn chứng bên dưới đây.
Quyển Kinh Hiền Ngu mà bạn battinh chụp và gửi hình lên thì KKT cũng có quyển đó, y hệt như vậy. Quyển của KKT giấy cũng đã cũ vàng nhưng được cái là bìa vẫn còn nguyên vẹn, không như bìa quyển kinh của bạn battinh đã bị rách "te tua" và thê thảm như vậy!
Và cũng như bạn battinh đã thắc mắc rằng: "Tôi không biết tại sao gọi là "Kinh Hiền Ngu", nội hai chữ Hiền Ngu thấy cũng hơi ngờ ngợ. Đã Hiền mà lại còn Ngu nữa, mới lạ đời!" thì KKT cũng có thắc mắc về cái tên Hiền Ngu này từ lâu rồi nhưng chưa có dịp nào tìm hiểu thêm.
Nay nhân dịp có bạn battinh hỏi nên KKT mới tìm kiếm trong sách vở. Trong tác phẩm "Indian Buddhism: A Survey with Bibliographical Notes" của Hajime Nakamura trang 140 đọc thấy như sau:
(6) The Sūtra of the Wise and the Foolish (賢愚經), 13 vols. Its Tibetan version also exists (Hdsaṅs blun shes bya baḥi mdo. Tohoku Cat. No. 341). The Hdsaṅs Blun is the Tibetan version of the Sutra of the Wise and the Foolish, whose Sanskrit original is lost. The Sanskrit title may be Dama-mūka-nidāna-sūtra.
Dịch: (6) Kinh người Khôn và kẻ Ngu (賢愚經 Hiền Ngu Kinh), 13 quyển. Cũng có một bản dịch sang Tạng văn. Hdsaṅs Blun là tên bản dịch sang Tạng văn của Kinh người Khôn và kẻ Ngu mà bản gốc chữ Phạn không còn nữa. Tựa đề chữ Phạn của bản gốc này có thể là Dama-mūka-nidāna-sūtra.
2. Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần lên làm vua đặt quốc hiệu là Đại Ngu thì chữ Đại Ngu này không có nghĩa là ... rất ngu hay là rất hiền như bạn binh nghĩ.
Chữ Ngu trong quốc hiệu Đại Ngu 大虞 là chữ Ngu 虞 = họ Ngu, nước Ngu, nhà Ngu. Vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn lập nên nhà Ngu (khoảng 2697-2033 trước Tây lịch). Còn nước Ngu là chỗ con cháu vua Thuấn ở. Đọc trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim trang 189:
Quí Ly [...] tự xưng làm đế, đổi họ là Hồ 胡. Nguyên họ Hồ là dòng dõi nhà Ngu bên Tàu, cho nên Quí Ly đặt quốc hiệu là Đại Ngu 大虞.
3. Việc Việt Nam bỏ chữ Hán và dùng chữ quốc ngữ là cả một cuộc cách mạng lớn có rất nhiều cái lợi. Cái lợi lớn nhất và quan trọng nhất là việc dùng chữ quốc ngữ giúp Việt Nam thoát khỏi "vòng kềm tỏa" của văn hóa Trung hoa trong suốt 2 ngàn năm !
Người Việt không còn cần phải "học chữ của Tàu" thì mới đọc được sách vở !
Chúng ta có một cái "văn tự" riêng là chữ quốc ngữ để diễn đạt những suy tư của riêng mình để mà tự phát huy cái văn hóa của mình. Cái lợi thứ nhì là không như chữ Hán là thứ chữ "hình vẽ" rất khó học vì khó nhớ thì chữ quốc ngữ là thứ chữ "đánh vần" nên rất dễ học. Trẻ nhỏ chỉ cần học trong vài tuần lễ là đã có thể đọc được chữ Việt rồi. Trong khi chữ Hán là chữ hình vẽ nên nếu chưa biết "hình vẽ" đó đọc như thế nào thì chịu chết, không có cách chi đọc được! Trẻ em Tàu phải mất hết cả thời tiểu học (và cả trung học) mới tạm đọc thông được chữ Tàu. Mất rất nhiều thời gian chỉ riêng cho việc học chữ ! Còn việc dùng chữ Nôm làm văn tự chính thức cho ngôn ngữ Việt thì cũng bất tiện vì chữ Nôm cũng là thứ chữ "hình vẽ" và hơn thế nữa, phải rành chữ Hán rồi thì mới học được chữ Nôm!
Tuy nhiên bỏ chữ Hán cũng có những cái bất lợi khác (không có gì là hoàn toàn cả!)
Có lẽ có tới hơn 70% chữ Việt là có gốc ở chữ Hán nên dám chắc rằng đa số người Việt vì không biết chữ Hán nên cũng hãy còn hiểu rất "lờ mờ" về những chữ Việt mà mình đang dùng nếu những chữ Việt này có gốc ở chữ Hán. Những chữ Việt có gốc ở chữ Hán mà chúng ta thường dùng đến thì thường là chữ kép tức là ghép 2 chữ lại với nhau. Để nguyên 2 chữ ghép lại với nhau thì chúng ta hiểu, thế nhưng nếu tách riêng ra và hỏi nghĩa của riêng từng chữ thì chưa chắc đã nhiều người biết. Lấy một vài thí dụ: chữ "hình dung" chúng ta đều hiểu, nếu tách riêng ra thì chữ hình còn hiểu được, nhưng chữ dung thì không hẳn là mọi người hiểu nghĩa. Chữ "miêu tả" chúng ta hiểu, tách riêng ra thì chữ tả hiểu được, nhưng chữ miêu chưa chắc là mấy người biết nghĩa. Đại khái là như vậy. Cho nên có người đã nói rằng: "Tự nghĩ là mình giỏi tiếng Việt nhưng nếu chưa biết chữ Hán thì vẫn chưa phải là giỏi tiếng Việt !" Riêng cá nhân KKT thì thấy câu này rất đúng! Cho đến khi KKT hiểu chữ Hán rồi thì khi đó KKT mới thấy rằng lúc đó KKT mới "thật sự" là hiểu tiếng Việt ! Thật là "oái ăm" !
Một cái bất lợi khác là trường hợp của những chữ Hán đồng âm. Ở chữ Hán thì những chữ này đều được phân biệt bởi "hình vẽ" của chúng, mỗi hình vẽ có một ý nghĩa riêng. Nay viết sang tiếng Việt (quốc ngữ) thì tất cả những chữ đồng âm này biến thành một chữ duy nhất. Vậy làm sao phân biệt chữ nào với chữ nào đây ? Thí dụ như chữ ngu (kinh Hiền Ngu) và chữ ngu (quốc hiệu Đại Ngu) thì khi viết theo chữ Hán là 2 chữ khác nhau vì là 2 "hình vẽ" khác nhau: ngu 愚 và ngu 虞. Nay viết sang chữ quốc ngữ thì trở thành một chữ "ngu" duy nhất ! Vậy thì làm sao biết được chữ "ngu" nào với chữ "ngu" nào ? Thiệt đúng là ... ngu hết biết luôn!
Cho nên mới có chuyện bạn binh viết như sau:
binh đã viết:
Chữ Ngu có nghĩa là rất hiền, hiền đến độ như trẻ thơ vậy. Ngày xưa nước Việt mình có hiệu là Đại Ngu, có nghĩa là nước mình rất hiền chứ không phải là rất ngu.
Cho nên kinh "Hiền Ngu" là kinh nói về những người hiền rất hiền.
Bạn nào tu theo Thiền tông thì hẳn đều biết hay nghe đến tên tác phẩm Tín Tâm Minh của Tam tổ Tăng Xán. Có lẽ đa số người Việt đều hiểu chữ minh = sáng. Cho nên KKT có đọc thấy có người đã giảng mấy chữ Tín Tâm Minh = tin vào cái tâm sáng của mình. Giảng như vậy là vì không biết chữ Hán. Chữ minh trong tựa đề Tín Tâm Minh 信心銘 không phải là chữ minh 明 = sáng mà là chữ minh 銘 = ghi vào, khắc vào; ghi nhớ không quên; khắc một bài văn để tự răn mình thì gọi là bài minh. Cho nên Tín Tâm Minh không có nghĩa là tin vào cái tâm sáng mà có nghĩa là Tín Tâm Minh = ghi khắc chuyện tin tâm hay là bài minh ghi khắc chuyện tin tâm.
Rồi còn có chuyện lẫn lộn giữa những chữ đồng âm Việt gốc Hán và chữ Việt "thuần" Việt. Chữ đốn trong từ đốn ngộ là chữ Hán và có nghĩa là đốn 頓 = hốt nhiên, thình lình, lập tức nên đốn ngộ = giác ngộ thình lình, giác ngộ lập tức (sudden enlightenment). Nhưng chữ đốn cũng là một chữ "thuần" Việt và có nghĩa là chặt, chém. Nên có bạn kia vì hiểu sai nên giải nghĩa chữ đốn ngộ là chặt chặt vào cái cây rồi đến một lúc cái cây bỗng đổ xuống cái rầm và ... giác ngộ!
Giải nghĩa như vậy thì cũng thật là ... "ngộ" nghĩnh!
Viết lang bang như vậy để đọc cho vui chứ thật sự thì cũng chẳng cần phải biết chữ Hán thì mới hiểu được chữ Việt. Đa số người Việt đâu có biết chữ Hán và việc này cũng đâu có ngăn cản mọi người vẫn "sống hùng, sống mạnh" nói, viết tiếng Việt ào ào và hiểu cũng ào ào!
"No star where" (không sao đâu) mà!
Chỉ "có sao" nếu hiểu quốc hiệu Đại Ngu là ... rất ngu, chí ngu thôi !