TÁC DỤNG CỦA CẦU NGUYỆN
Có người cho rằng cầu nguyện là vô ích , không có tác dụng gì , làm sao có tác dụng được khi lạy lục cầu xin trước một pho tượng bằng đất , đá , xi măng , gỗ …? Nghĩ như vậy quá duy lý . Tượng Phật , Tượng thánh chắc chắn không phải ông Phật thực mà đó chỉ là tượng trưng hay biểu tượng ( symbolizes ). Điều quan trọng là yếu tố tinh thần đằng sau pho tượng và trong tâm thức của người cầu nguyện . Không ai lạl khờ khạo lạy lục cục đá hay gốc cây cả , chẳng qua là cục đá hay gốc cây ấy có giá trị biểu tượng thiêng liêng ở đằng sau . Khi ta nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ tổ quốc không phải là ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa tinh thần mà tấm vải đeo mang . Khi một vật thể là vật chất nhưng trở thành đối tượng thiêng liêng thì nó không còn thuần tuý vật chất nữa mà thành đối tượng có sức sống , có tác dụng đối với con người và hoàn cảnh xung quanh .
1. Tác dụng của cầu siêu : Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo phù hộ cho linh hồn đã mất được nhẹ nhàng siêu thoát ở thế giới bên kia cầu được sinh về cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà cầu như vậy có siêu không ?
Ở trong kinh Địa Tạng có đề cập đến tác dụng kinh cầu nguyện cho người chết rằng : Khi tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện thì công đức có được 7 phần , người tụng được sáu , người chết đươọc một phần . Tại sao người được cầu nguyện chỉ được một phần ? điều dễ hiểu là khi tụng kinh Tam nghiệp thanh tịnh , công đức phát sinh năng lực công đức có trước hết là người tụng , rồi xử dụng năng lượng công đức ấy hướng đến người đã chết tất nhiên người chết sẽ nhận được một, phần năng lượng ấy , trong khi người tụng là người suất sinh công đức .
Trong kinh Vu Lan đề cập đến sức mạnh chú nguyện của chư Tăng , nhờ sức mạnh của Tăng lực mà bà Thanh Đề thoát khổ , năng lượng của Tăng là năng lượng tập thể nên có tác dụng lớn , nó tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ vào tâm thể của bà Thanh Đề làm cho bà thay đổi tận gốc rễ nghiệp bất thiện của mình mà thoát khổ . Trong kinh Địa Tạng cũng đề nghị phương pháp giúp cho người chết thoát khổ bằng cách xử dụng tài sản của họ vào việc công ích bố thí , cúng dường hồi hướng công đức cho họ sẽ được lợi ích lớn . Tất cả những điều diễn tả trong kinh muốn nói lên một sự thực rằng nếu xử dụng năng lượng tâm linh đúng chánh pháp sẽ tạo khả năng biến chuyển hay thay đổi tâm thức và đời sống của một chúng sinh đau khổ , trường hợp bà Thanh Đề là một ví dụ.
Cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn có ý nghĩa bày tỏ lòng tri ân và báo ân đối với các bậc Tiền nhân đã sinh ra và nuôi dưỡng mình nên người . Sự biết ân và báo ân là một đức tính tốt , hiền thiện , là đạo đức xã hội , là một nét văn hoá văn minh của loài người . Con người nếu không biết cội nguồn của mình , không biết ơn , nghĩa thì người ấy sẽ chết mất gốc ; quá khứ không rõ ràng thì tương lai sẽ mờ mịt . Cầu nguyện cúng bái ông bà cha mẹ mong cho họ được siêu thoát là bài học về giáo dục đạo đức quan trọng : sự hiếu thảo của con cái , sự kính trọng người già cả , sự khiêm tốn thương yêu nhau đều tuy thuộc vào các sinh hoạt tinh thần mang tính truyền thống cao đẹp này .
2. Tác dụng của cầu an : Cầu nguyện cho mình hay người thân của mình được bình an là một cách thển hiện sự thương yêu , là một nhu cầu khẩn thiết . Nhưng cầu như vậy có hiệu quả không ? Người xưa nói :" Linh tại ngã , bất linh tại ngã". Khi ta có niềm tin ta sẽ có sức mạnh . Sức mạnh tinh thần ấy gọi là năng lượng tâm linh , nếu ta cố ý chuyển năng lượng tâm linh ấy đến một người nào đó thì có tác dụng ảnh hưởng vào người ấy , đó là điều khó tin nhưng có thực . Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác , giữa tâm linh và thế giới khách quan là mối quan hệ duyên sinh tương tác lẫn nhau . Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hoá đến vật chất hay sinh vật , các vị thiền sư có thể cảm hoá hổ báo hung dữ , ngay cả loài thảo mộc nếu được thương yêu chúng cũng tươi tốt hơn , đã có nhiều cuộc thí nghiệm của các nhà khoa học để chứng minh chosức mạnh tinh thần này . Theo phong tục dân gian , khi người gia chủ qua đời thì người ta" để tang" cho cây cối xung quanh nhà bằng cách cột một mảnh vải trắng lên cành cây với hy vọng rằng cây sẽ bớt đau dớn mà khô héo . Điều đó có vẻ huyền hoặc nhưng được đúc kết từ kinh nghiệm dân gian rằng đaã từng có cây cối khô héo và chết khi chủ nhân của nó qua đời , khi người chủ còn sống thương yêu săn sóc cây cối , hằng ngày ông ta phóng ra từ trường nhân diện hay năng lượng tâm linh vào cây cối , chúng quen sống với luồn điện từ như vậy , nay đột ngột mất đi chổ dựa ấy như con người mất đi chổ dựa tình cảm , sẽ cảm thất hụt hẫng lạnh lùng … Cần phải có một sự quan tâm , một thay thế dòng sóng từ trường mới , đó chính là hành động của người chủ nhân kế thừa , nên có vấn đề để tang cho cây cối .
Khi một người phóng ra một năng lượng tâm linh qua sự tập trung cầu nguyện , luồng năng lượng ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh , bị tai nạn hay đối tượng được cầu nguyện . Người phát ra một năng lượng tâm linh mà năng lượng ấy thuộc xu hướng nào nó sẽ tạo một hấp lực thu hút luồng năng lượng tương ứng trong không gian ( có thể gọi là năng lượng của các Đức Phật hay Bồ tát ) mà ta gọi là tha lực . Tuy theo sự tương tác ở mức độ nào mà khả năng , hiệu quả lớn hay nhỏ . Trong đời sống hằng ngày ta thường gặp nhau và chúc lẫn nhau " mạnh khoẻ" " bình an" " hạnh phúc" … nếu những lời chúc ấy có chú tâm , có thành tâm , có nhất tâm nó sẽ tạo ra năng lượng lành mạnh giúp ích cho người đươọc chúc .
Cầu nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích cực của từ bi , vị tha , do đó tạo nên " đức độ". Tâm ta càng xu hướng về vô ngã vị tha thì mối tương tác ( cảm ứng ) giữa tâm ta và tâm Phật , Bồ tát ( tha lực ) sẽ chặt chẽ , do đó tác động mạnh đến người hay hoàn cảnh mình cần nguyện . Đó là sức mạnh vô hình nhưng có thực . Dĩ nhiên không phải ai cầu cũng ứng , cũng được an . Mọi tác dụng cảm ứng đều có điều kiện , nhân duyên có đủ hay không ; một ngọn lửa bùng cháy phải đủ các điều kiện cho sự cháy , vậy không nên coi cầu an là phương pháp tối thượng mà chỉ là một "trợ duyên" Điều quan trọng vẫn là "nội lực" hay "nghiệp lực". Cầu an đúng nghĩa là chuyển hoá nghiệp lực bằng cầu nguyện đó là mặt tiêu cực , còn mặt tích cực thì phải xây dựng một tâm đức bằng bố thí , phóng sanh , cúng dường Tam bảo , giúp đỡ tha nhân … như vậy là tích cực chuyển hoá nghiệp lực , cần cả hai mặt như vậy kết quả mới tốt đẹp .
(
http://www.buddhismtoday.com/viet/nghit ... nguyen.htm)